Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng vào xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên xã Hương Trạch Hương Khê Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.18 KB, 77 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết em xin được gửi lời cảm ơn chân
thành bày tỏ lòng biết ơn tới thầy Cao Đức Dũng, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài.
Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình với những ý kiến
và kinh nghiệm quý báu của các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính trị,
cùng các bạn trong lớp 09SGC.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do lần đầu tiên làm quen với công tác
nghiên cứu khoa học nên chắc chắn đề tài của em còn nhiều thiếu sót, rất
mong được sự góp ý, bổ sung của quý thầy cô cùng các bạn sinh viên để đề
tài hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 05/2013
Sinh viên thực hiện
Thái Thị Thìn


MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ Tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã để lại
nhiều tư tưởng tấm gương giá trị. Trong đó, từ bài giảng đầu tiên trong tác
phẩm “Đường Kách mệnh” đến bản “Di chúc” cuối cùng, chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo
đức là cái gốc của người cách mạng. Người không chỉ bàn một cách sâu sắc,
cô động, thấm thía về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người trong suốt
cuộc đời hoạt động đã thực hiện một cách mẫu mực những tư tưởng đạo đức
do mình đặt ra.


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng có tinh thần to lớn, là
nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của mỗi cán bộ đảng viên, làm tăng sức mạnh của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa đặt ra một yêu cầu,
đã là cán bộ, đảng viên thì trước hết phải thành một cán bộ mẫu mực, làm
nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỉ cương xã hội. Đạo đức cách
mạng của người cán bộ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến uy tín, thanh
danh của Đảng, có sức cảm hóa, thuyết phục, tập hợp sức mạnh quần chúng
nhân dân nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh cho
rằng: “ Cán bộ là gốc của mọi việc”, “ muôn việc thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Vì vậy, trong điều kiện đảng cầm quyền, việc giáo
dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là hết sức quan trọng.
Đánh giá thực trạng đạo đức cán bộ đảng viên trong thời gian qua, Đại
hội XI khẳng định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…làm giảm lòng tin của nhân


dân đối với Đảng và Nhà nước”. Thực trạng đó nếu không được ngăn chặn sẽ
dẫn đến mất niềm tin của nhân dân với Đảng, thậm chí đe dọa sự ổn định phát
triển của đất nước.
Cán bộ, đảng viên cấp cơ sở là lực lượng quan trọng trong hệ thống tổ
chức Đảng và nhà nước ta, là nơi gần dân nhất, tiếp xúc thường xuyên, trực
tiếp nhất với nhân dân. Cán bộ địa phương cũng là nơi được nhân dân giám
sát ngay trong đời sống hằng ngày. Bởi vậy, việc xây dựng đạo đức cho cán
bộ địa phương, cơ sở là việc làm cấp bách, cần thiết đê xây dựng niềm tin của
nhân dân với Đảng.
Xã Hương Trạch - Hương Khê - Hà Tĩnh là một xã miền núi, đời sống
nhân dân còn khó khăn. Hơn thế, hiện tượng suy thoái đạo đức cách mạng
gây mất niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đã xuất hiện.

Vì vậy việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng để xây dựng đạo đức cho cán bộ, đảng viên nước ta nói chung và xã
Hương Trạch - Hương Khê - Hà Tĩnh nói riêng là vấn đề cấp bách.
Với những lí do trên, và nhằm thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4,
khóa XI, với tư cách là sinh viên làm khóa luận, tác giả mạnh dạn chọn đề
tài :“ Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng vào
xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên xã Hương Trạch- Hương
Khê- Hà Tĩnh”, làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng nói
riêng là một trong những vấn đề quan trọng trong tư tưởng của Người. Từ
trước đến nay, vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cũng như giáo dục đạo đức cho toàn đảng, toàn dân đã được
nhiều tác giả nghiên cứu, trong số đó phải kể đến một số công trình nghiên
cứu quan trọng như:


- “Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ hậu cần quân đội nhân
dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay”. Hà Nguyên Cát, luận án Tiến sĩ triết
học. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Vấn đề đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lí nhà nước trong
giai đoạn hiện nay qua thực tế Kiên Giang”, Phạm Văn Hưng, luận án thạc sĩ
triết học, Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
- “Đạo đức mới”, Vũ Khiêu, ( Nxb Khoa học xã hội nhân văn,1974)
- “Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng” , (Nxb Sự thật, 1976).
-“Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng” , (Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, 1986).
- “Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự
nghiệp”, (Nxb Sự thật, 1990).
- “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục thanh niên nay”,

của Lê Hữu Ái (Nxb Đà Nẵng, 5-2008).
- “Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chi Minh về xây dựng Đảng ta thật
sự trong sạch vững mạnh “Là đạo đức là văn minh”, (Nxb Chính trị quốc
gia,2010).
- “Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng trong xây dựng chỉnh đốn Đảng”,
Thành Duy, Tạp chí Cộng Sản
- “Học Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta học gì”, (Nxb Chính trị quốc
gia,2011).
- “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho cán bộ lao động chính trị trong điều
kiện hiện nay thực trạng và xu hướng biến động”, Ngyễn Thế Kiệt.
Ngoài ra còn có thể kể đến các bài viết đăng trên các tạp chí của nhiều
tác giả như: “Tư tưởng Hồ Chi Minh về đạo đức cách mạng với công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay” của TS. Trần Minh Trường, tạp chí Lý
luận số 1/2005…….
Mỗi công trình nghiên cứu mỗi khía cạch khác nhau, phản ánh những nội


dung phong phú, đa dạng. Còn đối với tác giả trong phạm vi một khóa
luận thì không có điều kiện cũng như tham vọng nêu lên và giải quyết những
vấn đề có tính chất lí luận lớn lao. Điều mà khóa luận có thể làm được là dựa
trên sự kếthừa những công trình nghiên cứu của các tác giả để mạnh dạn đưa
ra một số đề xuất cho các giải pháp xung quanh vấn đề mà khóa luận nghiên
cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu trình bày có hệ thống những quan điểm cơ bản trong tư
tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và qua thực tiễn địa
phương để đưa ra một số giải pháp xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên xã Hương Trạch- Hương Khê-Hà Tĩnh.

- Qua đó xây dựngđội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, tài, Đảng bộ trong sạch
vững mạnh. Để góp phần vào việc phát triển địa phương, đặc biệt là công
cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay ở xã Hương Trạch – Hương Khê – Hà
Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu nội dung tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
- Nghiên cứu thực trạng Đảng bộ, cán bộ, đảng viên xã Hương Trạch -Hương
Khê - Hà Tĩnh
- Nêu lên một số giải pháp xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên
3.3.

xã Hương Trạch -Hương Khê -Hà Tĩnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng, vận dụng tư tưởng đạo đức đó để xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ đảng viên ở địa phương cụ thể là xã Hương Trạch- Hương

4.1.

Khê-Hà Tĩnh.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở nghiên cứu của đề tài


Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và từ thực tiễn của tình hình xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên xã Hương Trạch -Hương Khê
- Hà Tĩnh.
4.2.


Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Đề tài sử dụng các phương pháp để nghiên cứu như phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch
sử và logic.
5. Cái mới của khóa luận
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng nói riêng nhưng với tư
cách là một sinh viên, tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minnh về đạo đức cách mạng và đặc biệt là vận dụng vào xây dựng đạo
đức cách mạng cho cán bộ đảng viên xã Hương Trạch - Hương Khê - Hà
Tĩnh. Nhằm có đội ngũ cán bộ cấp xã, mà cụ thể là xã Hương Trạch - Hương
Khê - Hà Tĩnh vững mạnh. Đề tài nghiên cứu trên tinh thần khách quan, đánh
giá đúng sự thật qua đó nhằm khắc phục được những hạn chế yếu kém về tư
tưởng, đạo đức của cán bộ, đảng viên xã Hương Trạch - Hương Khê - Hà
Tĩnh, góp phần vào xây dựngĐảng ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là
văn minh”.
6. Ý nghĩa của khóa luận
Dưới góc độ là đề tài khóa luận tốt nghiệp, khóa luận góp phần làm sáng
tỏ hơn tư tưởngHồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, vận dụng vào thực tiễn
địa phương xã Hương Trạch- Hương Khê- Hà Tĩnh. Qua đó đề tài có thể làm
tài liệu tham khảo…
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
gồm 2 chương.


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Định nghĩatư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh (19-5-1890, 2-9-1969) là một nhà cách mạng, là một trong
những người đặt nền móng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,
toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam, là người viết và đọc bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa, là chủ tịch nước
trong thời gian từ 1945- 1969, Chủ tịch ban chấp hành trung Ương Đảng lao
động Việt Nam từ 1951- 1969, kiêm tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương
Đảng từ 10- 1956- 1960.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là thuật ngữ dùng để đề cập đến những tư tưởng
của Hồ Chí Minh được Đảng Cộng Sản Việt Nam đúc kết lại, sử dụng là hệ
thống tư tưởng chính tại Việt Nam hiện nay, bên cạnh Chủ nghĩa Mác- Lênin.
Với những thành tựu to lớn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ở trong
và ngoài nước, tại Đại hội IX (4-2001), Đảng ta có bước phát triển trong nhận
thức và tư duy lý luận khi khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống
quan diểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân
tộc… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Hai năm sau, Hội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc
gia các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở định


hướng cơ bản của Đại hội IX, đã bước đầu định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh
như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng

thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”.
Từ Đại hội IX đến nay, Đảng ta, các nhà khoa học trong và ngoài nước
tiếp tục khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là giá trị to lớn của tư tưởng đó đối
với dân tộc và nhân loại.
Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều lĩnh vực, trong đó có
những tư tưởng chủ yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc.
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam và về Nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhân văn, văn hoá
Trong đó, vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện.
Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội,
trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong
cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán
bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản “Di


chúc” bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”. Có thể nói, đạo đức cách mạng là một trong những
vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách
mạng. Những luận điểm về đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn có giá trị hết sức to lớn trong thực tiễn cách mạng nước ta, nhất là trong

xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ các nguồn gốc: Truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam là yếu tố đặt nền tảng. Thứ hai là sự kết hợp
của tinh hoa nhân loại, gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thứ ba, đạo đức mà
Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng nhiều nhất và có giá trị lý luận, phương pháp
luận để Người kế thừa các giá trị đạo đức khác, xây dựng đạo đức mới là đạo
đức học Mác- Lênin - đạo đức của giai cấp vô sản. Cái nôi đạo đức từ gia
đình, cũng ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Cuối cùng
là phẩm chất, nhân cách Hồ Chí Minh giúp Người xây dựng những tư tưởng
giá trị về đạo đức. Đó là những nhân tố chủ yếu góp phần hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh không lặp lại truyền
thống một cách giản đơn và cũng không chỉ khai thác ở truyền thống đạo đức
dân tộc, cũng không chỉ tự hạn định trong phạm vi cổ truyền. Để có phần sáng
tạo của mình, Hồ Chí Minh đã tiếp cận cả ba nguồn văn hóa, văn hóa dân tộc,
văn hóa khu vực, văn hóa thế giới. Hồ Chí Minh đã nâng đạo đức truyền
thống của dân tộc lên một tầm cao mới-đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh.

1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vai trò của
đạo đức cách mạng


1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng và trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề
xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người coi đây là
vấn đề sống còn của Đảng, là “cái gốc”, “nền tảng của người cách mạng” và
“mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách
mạng hay là không”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức mới mang bản chất
giai cấp công nhân và thấm nhuần những gì tốt đẹp nhất của đạo đức dân tộc

và phát huy truyền thống đạo đức dân tộc. Người đã kế thừa những giá trị tốt
đẹp của truyền thống như: yêu nước, thương dân, đoàn kết cộng đồng, lòng
nhân ái, tình thương yêu đồng loại, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Người
cũng phê phán, cải tạo những mặt tiêu cực của đạo đức phong kiến, những
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo như: Thói nhẫn nhục cam chịu, thụ động,
những thành kiến đối với lao động chân tay, bất bình đẳng với phụ nữ, những
quy định khắt khe, những hủ tục làm lệch lạc nhân cách con người. Đặc biệt,
Người đòi hỏi phải xoá bỏ những tàn dư của đạo đức phong kiến thực dân đã
lạc hậu, lỗi thời, thậm chí là những nọc độc, đầu độc tinh thần con người, nhất
là đầu óc nô lệ, chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối
sống tư sản. Đó là thứ đạo đức chẳng những cản trở xã hội phát triển mà còn
làm lệch lạc tâm hồn con người, đánh mất nhân tính.
Là nhà cách tân, đổi mới, Người đã cách mạng hoá quan niệm đạo đức,
đưa đạo đức mới, chủ nghĩa nhân đạo cách mạng và tinh thần nhân văn cách
mạng vào đạo đức và đời sống đạo đức. Người sử dụng hình thức cũ của
những khái niệm, phạm trù đạo đức nhưng đưa vào đó những nội dung hiện
đại, nội dung đạo đức cách mạng, đạo đức hành động vì dân, hướng tới dân.


Người không chỉ nêu lên những nội dung phong phú của đạo đức cách
mạng mà còn gợi mở bao điều quý giá khác về giáo dục, thực hiện đạo đức
cách mạng. Theo Người:
“Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ
chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đường lối chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân
mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư

tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Người còn cho rằng: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh
nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi
ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân
phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của đảng.
Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin
quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và
việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu,
đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và
động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của
Đảng...”
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người cán
bộ, đảng viên đó là: “Hết lòng, hết dạ phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”;
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Người đảng viên cộng sản phải suốt
đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; ra sức phấn đấu để thực hiện mục
tiêu của Đảng, giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của


Đảng; cho dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đảng viên cũng đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết; thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình, tự giác tu
dưỡng, cải tạo, rèn luyện bản thân, gột sạch chủ nghĩa cá nhân…
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng
1.2.2.1. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn chỉ rõ rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” ; “Cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,

không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự
mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì ? ”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước ”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn
giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn ”, mới “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa
”. Hồ Chí Minh quanniệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự
thắng lợi của mọi công việc: “ Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có
nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà


không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết.
Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có nhiều tác phẩm viết về vấn đề này. Ngay từ năm 1927, trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh ”, chương đầu tiên của cuốn sách là “Tư cách
một người cách mệnh ” và tiêu chuẩn đầu tiên trong tư cách một người cách
mệnh chính là: cần kiệm. Sau này là các tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc ” (101947), “ Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”
(1952). “Đạo đức cách mạng” (12-1958) và các bài báo như “Chớ kiêu ngạo,
phải khiêm tốn”, “Cần, kiệm, liêm, chính,”, “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu
mệnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sách chủnghĩa cá nhân”...
Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta, Người nhắc “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,

chí công vô tư...”.
Như vậy, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, bởi vì nó liên quan
trực tiếp tới khả năng và quyết định hiệu quả "gánh vác" công việc của Đảng
cầm quyền. “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến cái tài.
Bởi như chúng ta thấy, người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập,
nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
“Đức là gốc ” ở đây phải là “đức lớn ” - đức tận tâm, cái đức chân thành , tận
lực phấn đấu hy sinh vì cách mạng, vì nước vì dân, nó không đồng nhất,
không chỉ là “ Đức” với những phẩm chất đạo đức thông thường.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn suy nghĩ và trăn trở về nguy cơ có thể xảy ra đối với một đảng cầm
quyền, đó là sự sai lầm về đường lối chính trị, sự suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, đảng cầm quyền lãnh


đạo toàn xã hội, lãnh đạo nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên không tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa
bản chất con người. Vì thế, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: muốn
làm cách mạng, trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, có đạo đức
cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và đối với dân tộc,
luôn phải kiên quyết đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người
khẳng định: “Người cách mạng, phải có đạo đức cách mạng”. Đây không chỉ
là yêu cầu về phẩm chất, năng lực mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc trong
chỉ đạo nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên.
Theo đó, đạo đức cách mạng là nguồn lực cách mạng tinh thần to lớn của
một Đảng cách mạng; là động lực, điều kiện để Đảng cách mạng, cán bộ
Đảng viên thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với dân tộc. Đạo
đức là gốc của người cách mạng và cũng là gốc trong xây dựng Đảng. “ Đảng
ta phải là đạo đức là văn minh trong đó đạo đức là "gốc", vẫn là vấn đề được
Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo và

không được nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch,
suy thoái về đạo đức. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện và phát triển đất
nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện tháng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thì vấn đề xây dựng
và phát huy vai trò cách mạng của Đảng là nhu cầu hết sức bức thiết, đặt ra
yêu cầu mới về phẩm chất đạo đức cách mạng.
1.2.2.2. Đạo đức là vũ khí tư tưởng của người cách mạng.
Đạo đức cách mạng không chỉ là tài sản tinh thần vô giá mà còn là vũ
khí tư tưởng để chiếnthẳng kẻ thù, chiến thắng mọi gian khổ của người chiến
sĩ cách mạng cho dù khó khăn đến đâu họ cũng giữ vững được khí tiết và khí
phách của mình.


Đạo đức cách mạng giúp cho người cộng sản giữ vững khí tiết, tin tưởng
vào chân lí vào sự tất thắng của kháng chiến của cuộc chiến tranh chính
nghĩa.Điều đó đã được chứng minh qua thực tiễn của cách mạng nước ta.
Nhiều tấm gương anh hùng chiến thắng kẻ thù nhờ ý chí đạo đức cách mạng,
không chịu khuấtphục dù bị kẻ thù tra tấn hay mua chuộc. Như Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Các đồng chí ta mà bị hi sinh trong lúc làm việc bí mật bị nó bắt
được nó treo, nó kẹp,nó tra tấn nhưng quyết định không nói mà còn chửi vào
mặt nó. Đấy là vật chất hay tinh thần”, như vậy đủ để thấy rằng đạo đức cách
mạng trở thành vũ khí tư tương chiến thắng kẻ thù, chiến thắng gian khổ,
chấp nhận hi sinh xương máu vì độc lập tự do của tổ quốc.
Trong thời đại ngày nay,đạo đức cách mạng là vũ khí tư tưởng cho
người cán bộ Đảng viên chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, vượt qua mọi cám giỗ
vật chất, giữ vững bản lĩnh chính trị phấn đấu làm việc vì lợi ích nhân dân, đất
nước. Giữ vững đạo đức cách mạng là nền móng vững chắc cho xã hội mới, là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển tốt đẹp.
1.3. Những chuẩn mực về đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh

1.3.1. Trung với nước, hiếu với dân
Nắm vững quy luật, đánh giá đúng vai trò của cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng. Vì vậy, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, đạo đức cách
mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong.
Từ nội dung và ý nghĩa của vấn đề đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “trung với
nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất, đó chính
là tiêu chuẩn số một của người cách mạng, là tiêu chí để phân biệt những kẻ
cơ hội, những kẻ giả danh cách mạng chỉ tìm mọi cách thu vén lợi ích cá


nhân, “trung với nước, hiếu với dân” thể hiện phẩm chất đạo đức hàng đầu
của người cách mạng, là giá trị văn hóa cao đẹp nhất, điển hình của người cán
bộ, đảng viên và còn là mối quan hệ rộng lớn của mỗi con người với Tổ quốc,
với dân tộc, với toàn thể nhân dân. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ này
quyết định đến giải quyết các mối quan hệ khác và phẩm chất đạo đức khác.
Trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, trung
và hiếu là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của cá nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đưa vào những nội
dung mới.
Theo quan niệm truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với vua
mà trung thành với vua là trung thành với nước. Ở đây, vua với nước là một.
Hiếu có nghĩa con, cháu hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, chữ hiếu chỉ thu hẹp
trong phạm vi gia đình. Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân ” của Hồ Chí
Minh không chỉ đã kế thừa được những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống của dân tộc mà còn vượt qua được hạn chế của truyền thống đó. “Trung
với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là
nước của nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn

xác định ''bao nhiêu quyền hạn đều của dân'', ''bao nhiêu lợi ích đều vì dân''.
Đảng và Chính phủ là '' đầy tớ của nhân dân'', chứ không phải là ''quan nhân
dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân''. Như vậy, quan niệm về nước và dân trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
Hiếu với dân trong xã hội phong kiến chỉ bó hẹp trong khuôn khổ, phạm
vi gia đình, cụ thể là đối với cha mẹ “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”,
nghĩa là: cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu, cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó. Hồ Chí Minh đã khắc phục những hạn chế đó, Người đưa vào đạo
“hiếu” một nội dung mới, rộng lớn hơn. Đó là hiếu với nhân dân lao động, là


chủ nhân của đất nước, không phải là thần dân, con dân của vua như đạo đức
phong kiến. Hiếu với dân theo Hồ Chí Minh là biết dựa vào dân, tin ở dân, lấy
dân làm gốc, tôn trọng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực
và lợi ích thuộc về nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì lợi ích của nhân dân, luôn gần dân, học hỏi nhân dân, chăm lo đời
sống nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, đã là người cán bộ cách mạng thì dù ở
cương vị nào cũng phải là người đày tớ trung thành của nhân dân, tuy nhiên
người cũng nhấn mạnh: Điều đó không có nghĩa tự cho mình là “cứu tinh của
nhân dân”.
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải “Trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đây là một lời kêu gọi hành động, vừa là
định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong
cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ trước đến nay, mà còn lâu dài
về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt nhất''
của đạo đức cách mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'', là

''trung với nước, hiếu với dân'', hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân mà còn phải
phục vụ hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và
học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải
nắm vững dân tình. Hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm
của người chủđất nước. Có như vậy người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý
mến, kính trọng.


Có “trung với nước, hiếu với dân” thì người cách mạng mới cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh khẳng định “Đạo đức cách mạng có
thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với
nước. Tận hiếu với dân”, Người còn chỉ rõ, đạo đức cách mạng là, quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng đó là điều chủ chốt nhất, đạo đức
cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng với dân. Đây chính là mục tiêu,
lý tưởng chiến đấu của chúng ta. Từ “trung”, “hiếu” của đạo đức truyền thống
đã được Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới, đưa vào nội dung mới, phản
ánh đạo đức cách mạng cao hơn, rộng hơn..Đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Người đã dạy,
đạo đức cách mạng là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu lý tưởng của
Đảng. Như vậy, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân là yêu cầu hàng
đầu trong phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, là biểu
hiện cao nhất thể hiện sự trung thành tuyệt đối với mục tiêu lý tưởng cách
mạng của Đảng, của dân tộc, trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, trung
thành với lợi ích của nhân dân, là biểu hiện chuẩn mực đạo đức của người
cách mạng.
1.3.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là mối quan hệ đối với tự mình.

Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người
và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm; phải thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta.


Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ,
không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức…”.
Cần, kiệm là phẩm chất của người lao động trong đời sống, trong công
tác.
Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”,
“không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”;
“không tham địa vị, không tham tiền tài…không tham tâng bốc mình…”.
Chính là ngay thẳng không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình
không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối
trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ trung thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì
để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; được giao nhiệm vụ gì quyết
làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh”.
Liêm chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành nhiệm vụ.
Chí công là hết mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng
riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công,
vô tư đối với người, với việc. “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”. Muốn “chí công vô tư” phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân công
lý”,không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư có mối quan hệ biện chứng, gắn
bó mật thiết với nhau. Theo Bác: “Cần và kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người. Cần mà không kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng
ấy”… Kiệm mà không cần thì không tăng thêm, không phát triển được” .
“Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm. Cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ


cần. Có kiệm mới có liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. “cần, kiệm,
liêm, là gốc rễ của chính. Như một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá,
hoa, quả mới hoàn toàn. Một người có cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính
mới là người hoàn toàn”. Bác nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính là vô cùng
quan trọng và cần thiết; là nền tảng của đời sống mới; là cái cần để làm việc,
làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại; là thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc. Người khẳng định:
Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính “là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh
về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính là đạo
đức của một xã hội hưng thịnh: Nếu không có những phẩm chất đó thì xã hội
suy vong. Do đó, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư.
Ngược lại, chí công, vô tư, một lòng, một dạ vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ
dễ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác.
Kết quả: “Bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi,
kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các
nước tiên tiến trên thế giới ”
Để thực hiện tốt : Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đòi hỏi mỗi
cán bộ đảng viên phải không ngừng rèn luyện, mà phải rèn luyện lâu dài
bền bỉ.
1.3.3. Yêu thương con người
Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tư tưởng yêu thương
con người chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong mối quan hệ với đạo đức.

Bởi vì Hồ Chí Minh quan niệm tư tưởng và đạo đức là một; suy nghĩ và hành
động là thống nhất.
Tư tưởng yêu thương con người của Bác rất rộng lớn, chẳng những yêu
thương nòi giống mà còn quan tâm đến giai cấp công nhân và nhân dân lao


động trên thế giới, Bác nói "Quan san muôn dặm một nhà. Bốn phương vô
sản đều là anh em". Quan điểm của Hồ Chí Minh là phải tất cả vì con người.
Chúng ta không có mục đích nào khác là chăm lo cho con người, giải phóng
con người, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện cá nhân (Đức + Trí + Thể
+ Mỹ), nghĩa là xây dựng con người mới XHCN. Hồ Chí Minh coi đây là
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Do đó, Bác Hồ căn dặn: Phải luôn luôn làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, từ đó nhân rộng
gương tốt, việc tốt ra thành nhiều vườn hoa khác đẹp hơn, tốt hơn, toàn diện
hơn.
Tư tưởng yêu thương con người của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, cụ thể,
không trừu tượng chung chung. Đó là yêu người lao động, cần lao, cùng khổ,
người bị bóc lột, những người bị đàn áp. Chống ai? Chống kẻ đàn áp người
lao động, kẻ bóc lột người lao động, người độc ác, bọn xấu, kẻ sâu mọt dân,
đè đầu cưỡi cổ nhân dân.
Yêu thương con người của Bác rất đúng mực, thể hiện rõ quan điểm yêu
và chống, nhằm vun đắp bồi bổ cho tình yêu thương con người. Điều này,
được Bác Hồ kết luận: "Chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi, đó là tình
hữu ái vô sản", tình yêu con người cao đẹp đó được thể hiện rõ trong câu nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
1.3.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi
người Việt Nam trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân

tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các
điểm sau:


Đó chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân
lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp
bức, bóc lột mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng
thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước
trên thế giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh
cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy
rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng
cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các
nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ
nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: "Dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc
lột. Mà cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản"
Kết luận này cho thấy nhận thức của Hồ Chí Minh về ý thức dân tộc và ý thức
giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự
khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với
những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với
lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Hồ Chí Minh luôn xác định, đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, đoàn kết gắn bó trong các nước xã hội chủ nghĩa
anh em là cơ sở nền tảng, là nhân tố quan trọng bậc nhất,nhân tố có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Người đã
từng nhấn mạnh: “Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta, sẽ
thuộc về chủ nghĩa xã hội... Nếu như tất cả các nước anh em và các đảng anh
em đoàn kết chặt chẽ với nhau”. Với tinh thần ấy, Người tiếp tục khẳng định:
''Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh bại

bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên khắp thế


giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực lượng các nước
xã hội chủ nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân
tất cả các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”. Vì vậy, mỗi người cách mạng
phải luôn nâng cao tinh thần quốc tế trongsáng của mình.
Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế
rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới.
1.4.

Những nguyên tắc trong xây dựng đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ

Chí Minh
1.4.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh là người cách mạng lời nói phải đi đôi với làm, học
tập phải thể hiện ra hành động, lý luận phải gắn với thực tiễn là đặc điểm nổi
trội trong tư duy và phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ lời nói
cũng phải đi đôi với việc làm; nói sao làm vậy; nói một, làm mười ("kế hoạch
một phần, biện pháp phải mười phần"). Người phê phán những người nói một
đàng, làm một nẻo, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, thậm chí nói
suông mà không làm.
Với Người, nói đi đôi với làm là phẩm chất của người cán bộ, đảng
viên. Nó thể hiện lòng trung thực, ngay thẳng, thật thà trong công vụ. Người
cho rằng, một cán bộ, đảng viên tốt, khi được giao việc, nếu thấy quá sức
mình thì phải báo cáo để cấp trên điều chỉnh cho người khác. Nhưng khi đã
nhận rồi, phải làm đến nơi đến chốn, tìm mọi cách để làm cho xong việc;
tuyệt đối không được bỏ dở, "đánh trống bỏ dùi".
Tư tưởng, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh về nói và làm; học và

hành; lý luận và thực tiễn như bó đuốc soi đường cho cán bộ, đảng viên.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, nhiều cán bộ, đảng viên đã chịu khó rèn
luyện, nói đi đôi với làm, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn thể


×