Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận CCLLCT, môn triết, sự ra đời triết học mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.47 KB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU
Triết học Mác xuất hiện vào những năm giữa và cuối thế kỉ XIX. Sự xuất
hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp quy luật biện
chứng, khách quan và quy luật phát triển tư duy với sự sáng tạo thiên tài của các
nhà sáng lập - Mác và Ăngghen. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa
học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp
luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới.
Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa
học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác
tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học
nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những
thành tựu tư duy của nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt
để, triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan và phép biện chứng
trong lịch sử phát triển của triết học. Sự ra đời của triết học Mác tạo được
bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, trong học thuyết về xã hội. Vì
vậy em nghiên cứu vấn đề: “Sự ra đời triết học Mác tạo ra bước ngoặt
cách mạng trong lịch sử phát triển triết học” cho tiểu luận của mình.


2

B. NỘI DUNG
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN TRIẾT HỌC MÁC
1. Những điều kiện, tiền đề khách quan quyết định sự ra đời triết
học Mác
1.1. Các tiền đề về mặt kinh tế - xã hội:
Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện cách mạng công nghiệp: Vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở
Tây âu là thời kỳ chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp. Nước Anh đã trở thành cường quốc tư
bản chủ nghĩa lớn nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách


mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành, ở Đức cũng như ở tại một
số nước Tây âu khác, cuộc cách mạng cũng làm cho phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng trong lịng xã hội phong kiến. Nhờ vậy,
tính hơn hẳn của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến được thể hiện
một cách rõ rệt hơn lúc nào hết. Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị xã
hội chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất lớn hơn và đồ sộ
hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử: Sự phát triển mạnh
mẽ của chủ nghĩa tư bản đã làm cho các mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc
lộ ngày càng gay gắt (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa). Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã mang ý nghĩa của
cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Liông (Pháp) năm 1831
và lại nổ ra năm 1834 đã vạch ra một điều bí mật quan trọng - đó là cuộc đấu
tranh bên trong, diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp của những người có của và
giai cấp của những kẻ khơng có gì hết... Ở Anh có phong trào Hiến chương
(vào cuối những năm 30) đây là phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên,


3

thực sự có tính chất quần chúng và tính chất chính trị. Nước Đức cịn đang ở
vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song phong trào vô sản cũng đã
được phát triển: Từ cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt ở Xilêdi năm 1844
đến sự xuất hiện của “Đồng minh những người chính nghĩa” - một tổ chức vụ
sản cách mạng. Các cuộc đấu tranh này đã chứng tỏ sự trưởng thành, lớn
mạnh của giai cấp vô sản và phong trào công nhân cả về quy mô và tính chất
và họ đã trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản. Đồng thời nó cũng
chứng tỏ một điều hết sức quan trọng là vai trò lịch sử của giai cấp tư sản như
là một lực lượng cách mạng và tiến bộ của xã hội đã đến hồi kết.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản khi ấy không chỉ như lực lượng cách

mạng chống lại chủ nghĩa tư bản mà còn như lực lượng tiên phong trong cuộc
đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ xã hội. Do đó có thể nói, đây là một trong
những điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất cho sự ra đời của chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. Nhưng khách quan nhìn nhận chúng
ta thấy rằng phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản
phát triển lúc này vẫn cịn mang tính tự phát, thiếu tổ chức do chưa có được
một nhận thức đầy đủ về cơ sở, mục đích, bản chất của cuộc đấu tranh và sứ
mệnh cao cả của giai cấp vô sản.
Tất cả những điều đó đã đặt ra một địi hỏi hết sức khách quan và cấp
thiết là phải có một vũ khí lý luận khoa học có tính dẫn đường cho phong trào
cách mạng để giai cấp vô sản thực sự trở thành giai cấp tiến bộ, cách mạng
được trang bị lý luận và có khả năng thực tiễn thực hiện triệt để mục đích
cuộc đấu tranh giai cấp của họ là tự giải phóng mình và tồn thể quần chúng
lao động bị áp bức bóc lột .
C. Mác và Ph. Ăngghen sống trong thời đại đó đã nghiên cứu tiếp thu
có chọn lọc trên tinh thần phê phán tất cả những gì mà tư tưởng loài người đã
sáng tạo ra. Hơn thế nữa chính hai ơng đã thực sự chiến đấu trong phong trào


4

cách mạng của giai cấp công nhân, khái quát những kinh nghiệm đấu tranh
của phong trào cơng nhân.
Chính từ đó triết học Mác ra đời và nó vừa gắn với lý luận vừa mang
hơi thở của thực tiễn. Vì vậy triết học Mác đã phản ánh đúng đắn lịch sử
khách quan phong trào đấu tranh cách mạng, nguyện vọng và lợi ích chân
chính của giai cấp vơ sản và quần chúng lao động bị áp bức bóc lột trên tồn
thế giới. Triết học Mác ra đời vào lúc đó đã đáp ứng kịp thời yêu cầu cấp bách
và khách quan cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và
thực sự trở thành một học thuyết khoa học có tính chất dẫn đường đưa phong

trào đấu tranh cách mạng đó đi từ tự phát đến tự giác.
Với sự hiện diện của triết học Mác, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó
vũ khí tinh thần đúng như Mác đã nói: “Cũng giống như triết học thấy giai
cấp vơ sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vơ sản thấy triết học là vũ khí
tinh thần của mình”.
1.2. Tiền đề về lý luận.
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời khơng chỉ là
sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội của tư bản chủ
nghĩa ở châu Âu vào những năm 40 của thế kỷ XIX mà cịn là kết quả của sự
kế thừa có chọn lọc, tiếp thu có phê phán tồn bộ những tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng của nhân loại từ cổ đại đến thời đại của Mác và Ăngghen, mà trực
tiếp nhất là nền triết học cổ điển Đức (mà đại biểu là Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh,
Hêghen, Phoiơbắc), nền kinh tế chính trị học Anh (với các đại biểu là Đ.
Ricacđơ và A.Smith) cũng như các học thuyết về chủ nghĩa xã hội không
tưởng Pháp - đại biểu là Xanh Ximông và Anh - đại biểu là Ơoen. Trái lại
tồn bộ thiên tài của Mác và Ăng ghen là ở chỗ các ơng đã tiếp thu, kế thừa
một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán những tư tưởng lý luận đó đặc
biệt là tư tưởng duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen.


5

Phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc như
Mác và Ăngghen đã thừa nhận là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp
của triết học Mác: Hai ơng đã đánh giá rất cao vai trị triết học của Hêghen người đầu tiên trong lịch sử triết học trên cơ sở triết học duy tâm đã xây dựng
hệ thống các phạm trù, quy luật của phép biện chứng. Đồng thời hai ông phê
phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hêghen trong học thuyết về “ý niệm
tuyệt đối”, trong quan niệm về nhà nước pháp quyền, chỉ ra mâu thuẫn giữa
hệ thống triết học duy tâm và phương pháp biện chứng. Từ đó hai ơng đã rút
ra được hạt nhân quý báu trong triết học của Hêghen là phép biện chứng và đã

cải tạo, giải phóng cho nó từ đó xây dựng nên phép biện chứng duy vật, thực
sự tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong triết học. Chính C.Mác đã khẳng
định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của
Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa”.
Ngồi Hêghen thì Phoiơbắc cũng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành
các quan điểm triết học của Mác và Ăngghen. Phoiơbắc đã từ bỏ chủ nghĩa
duy tâm của Hê ghen một cách triệt để, ông phê phán mạnh mẽ tôn giáo, bác
bỏ quan niệm sai lầm của phái Hêghen trẻ đã lẫn lộn tự nhiên với ý thức.
Phoiơbắc khẳng định tự nhiên là tính thứ nhất khơng phụ thuộc vào con người
và tồn tại vĩnh viễn không do ai sáng tạo ra. Con người cũng là sản phẩm của
giới tự nhiên. Thần thánh không sáng tạo ra con người mà chính con người
sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình tuỳ thuộc vào những điều kiện
sống nhất định. Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc về tự nhiên đã được thể hiện
khá triệt để. Mác và Ăngghen đã kế thừa và phát triển nó lên thành một triết
học khoa học. Tuy vậy hai ông cũng phê phán những sai lầm của Phoiơbắc
như: Quan điểm siêu hình trực quan, duy tâm về mặt xã hội, ông không nhận
thức được bản chất của xã hội của con người, bản chất đặc thù được quy định
bởi hoạt động lao động sản suất và do đó trong triết học của mình Phoiơbắc


6

chỉ thấy con người về mặt sinh học, coi con người chỉ là con người chung
chung, trừu tượng, siêu giai cấp, phi lịch sử, tách rời khỏi những mối quan hệ
xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng ơng chưa hiểu đúng và cịn có những quan
niệm sai lầm về các vấn đề thực tiễn xã hội. Ngoài ra khi từ bỏ chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen, Phoiơbắc đã vứt bỏ ln cùng với nó hạt nhân hợp lý là
phép biện chứng. Vì vậy khi nói về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen đã chỉ ra
rằng: “Khi Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đúng lịch
sử, còn khi ơng có tính đến lịch sử thì ơng khơng phải là nhà duy vật, ở

Phoiơbắc lịch sử và chủ nghĩa duy vật hồn tồn tách rời nhau”.
Trên cơ sở đó, Mác và Ăngghen đã làm giàu chủ nghĩa duy vật bằng
phép biện chứng, cịn phép biện chứng được hai ơng đặt trên nền thế giới
quan duy vật và phát triển lên một trình độ mới về chất so với trước đó. Trong
triết học Mác, chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép
biện chứng kà phép biện chứng duy vật. Không những vậy, chủ nghĩa duy vật
của Mác và Ăngghen còn là chủ nghĩa duy vật triệt để so với chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc. Nó đã giải thích một cách duy vật khơng chỉ thế giới tự
nhiên mà cả xã hội, lịch sử loại người. Điều mà những chủ nghĩa duy vật
trước đó khơng làm được.
Tuy nhiên sự ra đời của triết học Mác còn là kết quả của sự tiếp thu các
tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại. Một cơ sở nữa không thể thiếu được
để tạo ra các quan đểm duy vật về lịch sử trong triết học Mác và khắc phục
tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội của chủ nghĩa duy vật trước
Mác là việc nghiên cứu và cải tạo các học thuyết kinh tế chính trị học của Anh
với các đại biểu là A. Smít và Đ.Ricacđô. Mác và Ăngghen kế thừa quy luật
giá trị Tiền - Hàng - Tiền của kinh tế chính trị học Anh; đã cải tạo, khắc phục
những hạn chế và kế thừa những mặt tích cực trong các học thuyết của họ,
đồng thời vận dụng vào phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trên


7

cơ sở đó tìm ra quy luật giá trị thặng dư trong phương thức sản suất tư bản
chủ nghĩa. Giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến vĩ đại nhất của Mác và
Ăngghen.
Mác và Ăngghen cũng nghiên cứu và phê phán những tư tưởng xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng từ năm 1843 đặc biệt là qua các
đại biểu Xanh Ximơng, Phuriê và Ơoen. Các nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng muốn xây dựng một xã hội cộng sản như kiểu một xã hội tồn tại hoàn

toàn tách rời khỏi xã hội hiện thực, muốn cảm hố con người bằng tình
thương để làm gương cho giai cấp tư sản. Một “ốc đảo” mơ ước như vậy giữa
trùng khơi của xã hội tư bản hoàn tồn là điều khơng tưởng và khơng chóng
thì chầy nó sẽ bị biển khơi hung dữ và bạo tàn kia nhấn chìm, nuốt chửng.
Theo quan điểm của Mác và Ăng ghen trong xã hội có đối kháng giai cấp thì
đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trực tiếp của xã hội có giai cấp. Đấu
tranh giai cấp tất nhiên dẫn đến chuyên chính vụ sản. Chuyên chính vụ sản là
tiếp tục đấu tranh giai cấp để xoá bỏ áp bức bóc lột tiến tới xố bỏ giai cấp,
xây dựng một xã hội khơng cịn giai cấp - xã hội cộng sản văn minh. Nghiên
cứu và phê phán tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đã giúp Mác và
Ăngghen hiểu một cách duy vật biện chứng về đời sống xã hội và dự báo
được sự phát triển tương lai của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Ngoài hai điều kiện khách quan tạo tiền đề cho sự xuất hiện triết học
Mác về phương diện kinh tế - xã hội và lý luận như trên, chúng ta còn cần
phải thấy rõ rằng triết học Mác là một hình thức lịch sử mới và cao nhất của
chủ nghĩa duy vật cũng được chuẩn bị bởi một tiền đề khách quan nữa về
phương diện khoa học. Đó chính là những thành tựu mới đạt được của khoa
học trên nền tảng của khoa học tự nhiên ở vào thời điểm đó. Như đã biết sự
phát triển của khoa học tự nhiên trong các thế kỷ XVII và XVIII là sự phát


8

triển của các khoa học cụ thể, nghiên cứu các vấn đề riêng rẽ của tự nhiên
theo phương pháp siêu hình. Nhưng cho đến cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ
XIX thì sự phát triển của khoa học tự nhiên đã chuyển sang một giai đoạn mới
- giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận. Chính sự phát triển này đã đòi
hỏi và thúc đẩy việc phải chuyển phương pháp nghiên cứu từ siêu hình, máy
móc, chia cắt và ngưng đọng các đối tượng nghiên cứu sang phương pháp

biện chứng nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận
động, liên hệ và thống nhất.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển rất
mạnh đem lại nhiều thành tựu rực rỡ với nhiều phát minh mang tính vạch thời
đại. Trong đó đặc biệt là ba phát minh vĩ đại trong khoa học tự nhiên đã có ý
nghĩa rất lớn đối với sự hình thành triết học Mác và là tiền đề khoa học trực
tiếp cho sự khái quát lý luận của triết học duy vật biện chứng. Đó là: Định
luật bảo tồn và chuyển hố năng lượng của Mâyơ, Giulơ, Côndinh (1842);
học thuyết về tế bào của Svan, Slâyđen và thuyết tiến hoá của Đácuyn (1859).
Với những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã làm cho “quan niệm
mới về giới tự nhiên” đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả
những cái gì, là cứng nhắc đều tan ra, tất cả những cái gì là cố định đều biến
thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh
cửu thì trở thành nhất thời. Hơn thế nữa, người ta đã chứng minh được rằng:
toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dịng tuần hồn vĩnh cửu.
Phát minh thứ nhất cho phép vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa các
hình thức vận động khác nhau của thế giới vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng
tồn tại trong vận động và gắn liền với vận động; trong tự nhiên có nhiều hình
thức vận động và các hình thức này có thể chuyển hố lẫn nhau, khi chuyến
hố lẫn nhau năng lượng của nó được bảo toàn. Phát minh thứ hai chứng minh
cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp của


9

thế giới sinh vật. Nó cung cấp quan điểm duy vật biện chứng tạo tính khái
quát thống nhất về thế giới vật chất. Phát minh thứ ba giải thích tính chất biện
chứng của sự phát triển phong phú đa dạng của các giống loài trong thế giới
tự nhiên hữu sinh. Chứng minh con người là kết quả của sự tiến hố của vật
chất chứ khơng phải là do thượng đế hay một đấng tối cao nào sinh ra. Ba

phát minh này cùng với nhiều thành tựu lớn khác của khoa học tự nhiên đã
giáng một đòn rất mạnh vào chủ nghĩa duy tâm tơn giáo và phương pháp siêu
hình trong quan niệm về thế giới nó đã tạo điều kiện cho Mác và Ăngghen
khái quát lên những luận điểm cơ bản của triết học duy vật biện chứng.
Mác và Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử như một triết học phù hợp với sự phát triển của các khoa
học cụ thể (cả các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), đồng thời trở thành
thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học đó.
2. Vai trị nhân tố chủ quan của C.Mác và Ăngghen trong sự hình
thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát
triển tất yếu từ nhân tố có tính chất tiền đề khách quan về phương diện kinh tế
- xã hội, lý luận và khoa học tự nhiên như đã dẫn ở trên mà còn là kết quả của
sự vận động và phát triển của nhân tố chủ quan. Đó là thiên tài của Mác và
Ăngghen, lập trường giai cấp vơ sản và tình bạn vĩ đại của hai ông, Lê nin chỉ
rõ rằng: “Thiên tài của Mác chính là ở chỗ ơng đã giải đáp được những vấn đề
mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại nêu ra”.
C.Mác ngoài với tư cách là một nhà khoa học vĩ đại còn là một nhà
cách mạng nồng nhiệt. Ông coi khoa học trước hết là một động lực cách
mạng, triết học phải góp phần thúc đẩy sự nghiệp tổ chức phong trào công
nhân và cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, dành thắng
lợi cho chủ nghĩa xã hội. Ơng có một trí tuệ un bác đặc biệt, có sự nhạy


10

cảm chính trị và tầm nhìn rộng lớn bao qt mọi lĩnh vực và ở nhiều lĩnh vực
ông đã đưa ra được những kết luận thiên tài.
Do ảnh hưởng của giáo dục gia đinh, nhà trường mà C.Mác sớm có tinh
thần nhân đạo, yêu thương con người và yêu tự do; là người sớm có tinh thần

dân chủ cách mạng và vơ thần; có niềm say mê nghiên cứu khoa học và ước
mơ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bất cơng, nơ dịch. Ngay
từ hồi cịn học phổ thông C.Mác đã viết: “Nếu con người làm việc chỉ vì bản
thân mình thì may ra có thể trở thành một nhà bác học nổi tiếng, một nhà
thông tái vĩ đại, một nhà thơ ưu tú, nhưng không bao giờ có thể trở thành con
người thực sự hồn thiện và vĩ đại. Nếu ta chọn một nghề trong đó ta có thể
làm việc được nhiều hơn cho nhân loại, thì ta sẽ khơng cịng lưng dưới gánh
nặng của nó, bởi vì đó là sự hi sinh vì mọi người”. Rõ ràng, những đức tính và
phẩm chất ấy của C.Mác đã góp phần quan trọng trong việc hình thành nên
học thuyết triết học duy vật, biện chứng, nhân đạo vĩ đại mang tên ơng.
C.Mác đã tìm ra được ở Ăngghen một người cùng tư tưởng, một người
bạn, người đồng chí trung thành, người trợ lực gắn bó mật thiết trong sự
nghiệp khoa học và đấu tranh cách mạng. Ngay từ khi cịn tuổi thiếu thời,
Ăngghen ln căm ghét sự chuyên chế, độc đoán của quan lại nhà nước
phong kiến. Chính những trải nghiệm đời sống thực tiễn đã giúp ông hiểu và
thông cảm với cuộc sống vất vả của những người công nhân. Cũng từ đây tinh
thần dân chủ cách mạng, vơ thần, tình u thương những người cơng nhân, sự
đồng cảm với cuộc sống của họ ở Ăngghen được củng cố và phát triển.
Có thể nói, tình u thương những người cơng nhân nói riêng, những
người lao động nói chung, tinh thần hi sinh khơng mệt mỏi vì sự nghiệp giải
phóng họ, niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân,
cùng sự thông minh hơn người của C.Mác và Ăngghen là những nhân tố chủ


11

quan đóng vai trị quan trọng nhất cho sự hình thành và phát triển của chủ
nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Nói về tình bạn vĩ đại này Lênin viết: “Giai cấp vơ sản châu Âu có thể
nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà khoa học kiêm

chiến sỹ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những
truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.
Trước khi học thuyết của Mác và Ăngghen xuất hiện phong trào cơng
nhân châu Âu cịn mang tính chất tự phát, khơng có tổ chức. Giai cấp vô sản
chưa giác ngộ về địa vị thực sự của mình chưa thấy con đường và biện pháp
đấu tranh đúng đắn chống áp bức bóc lột tư sản. Sống trong phong trào công
nhân được tận mắt chứng kiến sự bất công giữa ông chủ tư sản và người lao
động và thông cảm với họ nên Mác và Ăngghen đã đứng về phía những người
cùng khổ, đấu tranh khơng mệt mỏi vì lợi ích của họ, trang bị cho học một
cơng cụ sắc bén để nhân thức và cải tạo thế giới với thiên tài khoa học, lập
trường giai cấp vô sản kiên định và tình bạn vĩ đại. Mác và Ăngghen đã làm
cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ không tưởng trở thành khoa học.
II. BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA MÁC
1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Mác và Ăngghen đã tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao nhất của phép biện chứng là
phép biện chứng duy vật. Trong triết học Mác xít, chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trị hết sức to lớn trong sự
phát triển của khoa học trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm, những trong thời kỳ cổ đại thì chỉ là chủ nghĩa duy vật chất phát ngây
thơ, tự phát, còn ở thời cận đại thì chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc. Nó
khơng thể khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm và vạch ra được những


12

nguyên nhân phát triển của tự nhiên và xã hội, khơng vạch ra được phép biện
chứng của q trình nhận thức và những con đường cải tạo thế giới. Tuy
nhiên, trong học thuyết duy vật trước Mác cũng chứa đựng một số tư tưởng

biện chứng nhất định nhưng do hạn chế về trình độ phát triển khoa học và về
lịch sử, nên triết học trước Mác mới có những thiếu sót nói trên.
Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tính tất yếu kém của chủ nghĩa duy vật
tự phát, siêu hình và đã tiến hành đấu tranh quyết liệt chống lại nó. Phép biện
chứng lại được quan tâm nghiên cứu và được phát triển trong một hệ thống
triết học duy tâm, nhất là triết học Hêghen. Hêghen là người có công lao to
lớn trong việc khôi phục và phát triển phép biện chứng nhưng dưới cái vỏ duy
tâm thần bí đó khơng thể tạo ra được phép biện chứng khoa học. Triết học của
chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa
duy vật của thế kỷ XVIII mà đưa nó lên một trình độ cao hơn bằng cách tiếp
thu có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là của hệ
thống triết học Hêghen, với thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học
thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện
chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, vì vậy để sử dụng phép biện
chứng đó Mác, Ănghen đã cải tạo nó, đặt nó trên cơ sở duy vật. Trong khi
thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học
Phoiơbắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất
là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Phoiơbắc. Sự phê phán sâu
rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng
quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoiơbắc đã tăng cường mạnh
mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của Mác.
Chính trong q trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, cải
tạo chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và phát triển tiếp chủ nghĩa duy vật, trên cơ
sở khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên và thực tiễn xã hội giữa thế kỉ


13

19, Mác, Ănghen đã sáng tạo phép biện chứng duy vật hay chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Vì vậy để xây dựng triết học duy vật biện chứng Mác đã phải cải

tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, siêu hình và cả phép biện chứng duy tâm. Giải
thoát chủ nghĩa duy vật khỏi hạn chế siêu hình và phép biện chứng ra khỏi
chủ nghĩa duy tâm. Mác đã tạo ra được sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới
quan duy vật và phép biện chứng Mac xít là phép biện chứng duy vật.
2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là
mở rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực lịch sử xã hội loài người, hình thành
nên chủ nghĩa duy vật lịch sử. V.I.Lênin đánh giá rằng: “Trong khi nghiên cứu
sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới
chỗ hồn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến nhận
thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong
các quan niệm về lịch sử và chính trị.”
Chủ ngĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động
của lịch sử xã hội loài người, sự thay thế của các hình thái kinh tế xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy
luật biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trị quyết
định. Các quan hệ về kinh tế quyết định các quan hệ về kiến trúc thượng tầng.
Triết học lịch sử cũng phát hiện ra vai trị sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, thực hiện cách mạng xã hội
chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu giải phóng con người. Với bản chất duy vật
triệt để trong lĩnh vực xã hội, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để nhận
thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất, một sự nhảy vọt so
với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.


14

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn thuần là sự vận dụng chủ

nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Để có chủ nghĩa duy vật lịch
sử, Mác đã phải tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán tồn bộ tư
tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới. Lênin viết “tất cả những cái
mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phê phán
và đã thông qua phong trào công nhân mà kiểm tra lại”. Với quan niệm duy
vật về lịch sử của Mác, lồi người tiến bộ đã có một cơng cụ vĩ đại trong việc
nhận thức và cải tạo thế giới.
3. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm
thực tiễn
Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy
luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học
thuyết nhằm mục đích cải tạo thế giới. Vì vậy, sự thống nhất biện chứng giữa
lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết học Mác.
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật đã trải qua q trình phát triển lịch sử lâu
dài, nó đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần vào việc xác lập
quan niệm duy vật về thế giới, vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo vào quá trình biến đổi thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thành
tựu đó triết học trước Mác khơng thể khơng tránh khỏi những thiếu sót, những
hạn chế mang tính lịch sử của mình.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của ý
thức, không thấy sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật
chất trong hoạt động thực tiễn của con người. Mác nhận xét rằng khuyết điểm
chủ yếu của chủ nghĩa duy vật cũ đã thiếu quan điểm thực tiễn, do đó lý luận
của nó mang tính trực quan và khơng thể giải quyết một cách khoa học, duy
vật triệt để vấn đề cơ bản của triết học.


15

Việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận Mác khơng những thực hiện

cuộc cách mạng triết học mà cịn tạo ra cơ sở để khắc phục những hạn chế của
chủ nghĩa duy vật cũ và thuyết không thể biết. Chỉ khi triết học Mác ra đời,
vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận và thực tiến mới được xem là
một nguyên tắc căn bản, chi phối mọi hoạt động.
Chủ nghĩa duy vật Mác xít khẳng định rằng, vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là nguyên tắc xuất phát của chủ nghĩa
duy vật Mác xít. Mặc khác, khi khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật
chất, chủ nghĩa duy vật Mác xít đồng thời cũng vạch ra sự tác động trở lại của
ý thức đối với vật chất. Ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình
con người tác động cải tạo thế giới bằng thực tiễn.
C.Mác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ
trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái
cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức
trực quan, chứ khơng được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”. “Vấn đề tìm hiểu xem tư
duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn không
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực
và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực
hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh
viện thuần túy”. “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Đó là biểu hiện của tính hiện thực,
tính thực tiễn vơ cùng sâu sắc trong triết học Mác – Lênin.
Sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức, trong đó vật chất là cái
quyết định, diễn ra trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất muốn được “di chuyển và
cải biến trong bộ óc con người” (C.Mác) phải thơng qua hoạt động thực tiễn.


16


Bằng hoạt động thực tiễn con người cải biến sự vật trong hiện thực, nhờ đó
mới cải biến sự vật trong hình ảnh tư tưởng của nó. Phạm trù thực tiễn, do vậy
có ý nghĩa thế giới quan trọng góp phần làm cho quan điểm Mác xít về vật
chất và ý thức mang tính duy vật triệt để, khơng chỉ duy vật trong tự nhiên mà
còn duy vật cả trong đời sống xã hội.
4. Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. Tính
khoa học càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới
thì tính cách mạng càng cao, càng triệt để. Thể hiện thế giới quan của giai cấp
tư sản cách mạng, tạo nên sự thống nhất tính cách mạng với tính khoa học,
thống nhất hệ tư tưởng với lý luận khoa học trong triết học Mác.
Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở trong bản chất khoa học của
học thuyết, trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản. Triết học Mác đã chứng minh, bằng sức mạnh của
phương pháp biện chứng, sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ
nghĩa là một tất yếu lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã
chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nơ lệ về tinh
thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay”.
Triệt học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vơ sản, cịn giai cấp vơ sản là
vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai.
Triết học Mác xít là thế giới quan của giai cấp công nhân - giai cấp tiến
bộ và cách mạng của thời đại. Lợi ích của giai cấp cơng nhân phù hợp với lợi
ích của nhân dân lao động. Cho nên với triết học Mác ra đời lần đầu tiên trong
lịch sử, nhân dân lao động có thế giới quan thực sự của mình. Đó là thế giới
quan khoa học và cách mạng, là vũ khí tư tưởng trong cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể nhân dân loại khỏi
một áp bức và bốc lột. Lênin viết “Triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật


17


triết học hồn bị, nó cung cấp cho lồi người và nhất là cho giai cấp công
nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” .
Chủ nghĩa Mác nói chung , triết học Mác nói riêng mang đặc tính bản
chất bên trong là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Lênin
viết “sự hấp dẫn khơng gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ
nghĩa của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chổ nó kết hợp tính
chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội)
với tinh thần cách mạng và kết hợp khơng phải một cách ngẫu nhiên, khơng
phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết bên trong bản thân mình
những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng mà là kết hợp trong
chính bản thân lý luận ấy một sự kết hợp nội tại và khăng khít”.
Triết học Mác là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, một hệ tư tưởng
đã được luận chứng bằng lý luận khoa học, phản ánh những qui luật phát triển
khách quan của lịch sử. Vì vậy nó là hệ tư tưởng khoa học chứa đựng sự
thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, giữa tính thực tiễn và tính lý luận.
Nhờ đó, triết học Mác mang sức mạnh cải tạo thế giới bằng cách mạng và
không đội trời chung với chủ nghĩa chủ quan duy ý chí cũng như chủ nghĩa
giáo điều, bảo thủ. Luận điểm đó của Mác nói lên thực tế cũng như vai trò xã
hội của triết học Mác, chỉ rõ lý do tồn tại và phương hướng phát triển của nó.
5. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước Mác coi “triết học
là khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan niệm
đó, đồng thời, xác định đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, không những không tách
rời, mà trái lại, triết học Mác ngày càng có mối liên hệ thống nhất và độc lập
với các khoa học chuyên nghành. Sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác
nhau trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những



18

khái quát mang tính phổ biến của triết học. Mặt khác, những kết luận của triết
học trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự
phát triển của các lĩnh vực khoa học. Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng,
những thành tựu nghiên cứu của các khoa học về tự nhiên và xã hội là tiền đề
cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học ngày càng vận động, phát triển, đồng
thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát
triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Khơng có triết học duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể
tiến lên. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, Mác và Ph.Ăngghen đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng
của nó và mối quan hệ với các khoa học khác. Triết học Mác khơng hịa tan
vào các khoa học cụ thể, cũng khơng có tham vọng đóng vai trị “khoa học
của mọi khoa học”, thay thế các khoa học hoặc tồn tại tách rời chúng mà nó là
cơ sở phương pháp luận của các khoa học cụ thể
Triết học Mác có chức năng cơ bản là xóa bỏ những cái kế thừa cũ và
tạo lập cái mới, luôn gắn liền hữu cơ với thực tiễn cuộc sống, với phong trào
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, cũng như với sự phát triển của
khoa học. Vì vậy, nó khơng phải là một học thuyết ngưng đọng mà trái lại là
một học thuyết sáng tạo, không ngừng được bổ sung, được làm phong phú
thêm bởi chính thực tiễn và cũng phát triển cùng với thực tiễn. Sự hình thành
các quan điểm triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen qua hàng loạt tác phẩm đã
cho thấy đó là một q trình phát triển liên tục, không ngừng. Sự ra dời của
tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848 tuy đánh đấu bước chuyển căn bản
của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về thế giới quan cũng như về lập trường chính trị
nhưng triết học Mác khơng phải dừng lại tại đó mà sau thời kỳ này hai ông đã
sáng tạo nhiều công trình triết học lớn nhằm tổng kết về mặt lý luận những
kinh nghiệm thực tiễn phong phú của phong trào đấu tranh cách mạng của



19

giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động tồn thế giới, đưa triết học Mác phát
triển lên một đỉnh cao mới.
Các nguyên lý triết học của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã được Lênin và
các đảng Mác xít làm sâu sắc thêm trong thực tiễn phát triển của thời kỳ lịch
sử mới. Cho nên, triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung như các
nhà sáng lập ra nó (C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin) đã nói, khơng phải là một tín
điều, một khuôn mẫu, một công thức mà là kim chỉ nam cho hành động, triết
học Mác dù đạt tới trình độ cao như thế nào vẫn chưa phải là đã “xong xi”
hẳn mà cịn tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm bổ sung và phát triển.


20

C. KẾT LUẬN
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát
triển triết học nhân loại. Sự thống nhất hữu cơ giữa tính cách mạng và tính
khoa học trong chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
đưa triết học Mác trở thành một học thuyết triết học hoàn mỹ và triệt để hơn
tất cả các trào lưu triết học trước đó. Sức mạnh tiềm tàng của triết học Mác là
sự thống nhất giữa giải thích thế giới trên quan điểm duy vật biện chứng một
cách triệt để và chỉ ra khả năng cải tạo thế giới thông qua hoạt động thực tiễn
vì mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại thốt khỏi áp bức, bóc
lột, bất công xã hội. Sức sống vĩ đại của triết học Mác là ở chỗ thường xuyên
được bổ sung và phát triển sáng tạo phù hợp với sự vận động và phát triển của
khoa học hiện đại và thực tiễn cách mạng. Mọi biểu hiện duy ý chí, bảo thủ,
trì trệ, tuyệt đối hố tính vĩnh cửu của các chân lý đều là những cản trở cho sự
phát triển của triết học Mác. Khi nghiên cứu triết học Mác và vận dụng vào

thực tiễn đầy sinh động của đời sống xã hội địi hỏi chúng ta khơng bao giờ
được thoả mãn với những ngun lý đã có sẵn mà phải ln luôn bổ sung phát
triển cho phù hợp.
Trong cuộc đấu tranh lý luận tư tưởng hiện nay, dù các học giả tư sản
và chủ nghĩa cơ hội xét lại có xuyên tạc như thế nào thì triết học Mác vẫn
chiếm lĩnh trái tim khối óc của hàng trăm triệu con người và soi sáng cho họ
vững tin trên con đường đi tới tương lai. Là những người cộng sản, hơn ai hết
chúng ta cần phải hiểu rõ về triết học Mác. Vì lẽ đó tìm hiểu và nghiên cứu
triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung là việc làm hết sức cần
thiết. Trong đó chúng ta tìm thấy cơ sở thể giới quan và phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Từ đó mỗi người sẽ có thêm kinh
nghiêm giàu thêm tri thức, vững vàng niềm tin, tiến cùng lịch sử trong nỗ lực
không mệt mỏi khám phá, cải tạo tự nhiên xã hội./.



×