Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận CCLL, tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản trong tác phẩm đường cách mệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.52 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện đảng cộng sản Việt
Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt suất, Người khai
sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Ngày nay là nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam.
Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Việt Nam ta chìm đắm trong
cảnh nơ lệ, lầm than, nhân dân ta một cổ hai tròng. Trước cảnh nước mất, nhà
tan, chủ tịch Hồ Chí Minh ( khi đó là Nguyễn Tất Thành) đã ra đi tìm đường
cứu nước. Sau nhiều năm bơn ba ở nước ngồi, Người đã đến Pháp, đi qua các
nước châu Phi-khi đó đang là các nước thuộc địa của các nước đế quốc châu ÂuNgười sang Mỹ, rồi quay lại nước Anh, rồi lại về Pháp, Người đã nghiên cứu
nhiều cuộc cách mạng tư sản của các nước Pháp, Anh, Mỹ… và Người nhận ra
rằng, sau các cuộc cách mạng này, nhân dân vẫn khổ, vẫn chịu cảnh áp bức, bóc
lột. Sau cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên
do Lê-nin lãnh đạo đã làm chấn động địa cầu, Người đã tìm thấy ở đó con đường
giải phóng cho dân tộc Việt Nam : con đường cách mạng giải phóng dân tộc
theo xu hướng cách mạng vơ sản. Người đã sang Nga-trung tâm của cách mạng
vô sản-học tập kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười, học tập lý luận cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Năm 1924, Người rời Liên Xơ về Trung Quốc,
ở đó Người tổ chức, vận động, giáo dục, rèn luyện nên những người cộng sản
Việt Nam đầu tiên, là cơ sở cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam sau này.
Những bài giảng của Người cho những lớp học đầu tiên ở đây, sau được xuất
bản thành cuốn sách « Đường cách mệnh ». Đây là tác phẩm lý luận có ý nghĩa
như một cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người xây dựng, là cơ sở cho
việc đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản Việt Nam sau
này.
Tháng 10 năm 1947, sau khi nước Việt nam dân chủ cộng hịa ra đời, cách
mạng đứng trước tình thế « ngàn cân treo sợi tóc ». Để bảo vệ chính quyền non
trẻ, bảo vệ thành quả của cách mạng, xây dựng chính quyền nhân dân, Người và
1



Đảng ta đã thi hành nhiều chính sách nhằm làm trong sạch bộ máy chính quyền
cách mạng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cách mạng. Trong hồn
cảnh đó Người đã viết cuốn sách « Sửa đổi lối làm việc », nhằm giáo dục đạo
đức cáh mạng, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là tác
phẩm quan trọng không chỉ đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên mà cịn có ý nghĩa
to lớn trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân, là cơ sở
cho việc xây dựng một nền văn hóa mới tiến bộ, là vũ khí lý luận để quét sạch
những tàn dư văn hóa lạc hậu, phản động dưới chế độ xã hội cũ.
Tháng 9 năm 1969, Người ra đi mãi mãi. Nhưng trước khi Người ra đi,
Người đã kịp để lại cho Đảng, cho dân tộc ta những lời di huấn bất hủ. Tác
phẩm « Di chúc » của Bác là lời dăn dò chan chưa tình thương u, là lời dặn dị
của Người cha già đối với dân tộc, là lời căn dặn của Lãnh tụ vĩ đại đối với toàn
Đảng, toàn dân.
Trong cuộc đời hoạt động của Người, Người đã viết và nói nhiều về Đảng
và xây dựng Đảng. Tuy nhiên, trong phần tiểu luận này, theo yêu cầu của đề bài
tôi chỉ đề cập vấn đề trên trong ba tác phẩm mà phần trên đã giới thiệu.

2


NỘI DUNG
I/ QUAN NIỆM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN Ở MỘT NƯỚC
THUỘC ĐỊA NỬA PHONG KIẾN.
1/ Tính tất yếu phải có Đảng lãnh đạo cách mạng :

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở Việt Nam xuất hiện nhiều
phong trào yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống thực dân Pháp, các
phong trào, các tổ chức ấy đó để lại nhiều trang sử vẻ vang, nhiều tấm gương
oanh liệt, thôi thúc tinh thần đấu tranh của nhân dân cả nước. Nhưng do bị hạn
chế trong khung khổ ý thức hệ phong kiến hay tư sản, thiếu đường lối đúng đắn,

thiếu sự lãnh đạo của một chính đảng… nên tất cả đều bị đàn áp và đi đến thất
bại. Đứng trước vấn đề đó, trong nhân dân và những người làm cách mạng đã
xuất hiện sự lo lắng về con đường cách mạng. Vậy cách mạng là gì? làm cách
mạng có dễ khơng? Bác Viết : « Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội
mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc
làm được, thế thì khơng khó. Khó dễ cũng tại mình, mình quyết chí làm thì làm
được.”[1, tr267]
Nhưng muốn là cách mạng, phải là thế nào? Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” Bác giảng giải:
“A- Tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy tơn giáo và văn hố làm cho
dân ngu, lấy pháp luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý
làm cho dân tham. Nó làm cho dân nghe đến 2 chữ cách mệnh thì sợ rùng mình.
Vậy cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ.
B- Dân khổ quá hay làm bạo động, như dân An Nam ở Trung Kỳ kháng
thuế, Hà Thành đầu độc, Nam Kỳ phá khám; khơng có chủ nghĩa, khơng có kế
hoạch, đến nỗi thất bại mãi.
Vậy cách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu.

3


C- Dân vì khơng hiểu tình thế trong thế giới, khơng biết so sánh, khơng có
mưu chước, chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm).
Cách mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân.
D- Dân thường chia rẽ phái này bọn kia, như dân ta người Nam thì nghi
người Trung, người Trung thì khinh người Bắc, nên nỗi yếu sức đi, như đũa mỗi
chiếc mỗi nơi.
Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách
mệnh."[ 1, tr 267]
Trong q trình bơn ba ở nước ngồi, qua hoạt động thực tiễn và học hỏi lý

luận, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ ngĩa Mác-lênin và tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc, trong đó có lý luận về xây dựng đảng cộng sản. Người quyết
định đi theo con đường cách mạng tháng Mười Nga (1917), Người tham gia
sáng lập đảng cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên
(1920). Người khẳng định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập
dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng
định “ Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.[1, tr
267- 268]
Đảng cách mạng mà Hồ Chí Minh nói chính là Đảng của giai cấp vô sản,
Đảng ra đời đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu
khách quan của quá trình phát triển của phong trào cách mạng nước nhà. Trong
quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng, Đảng ln được nhân dân tín nhiệm và
tỏ rõ vai trò của một tổ chức lãnh đạo, tiên phong trong cuộc đấu tranh giành
độc lập tự do cho dân tộc, đưa người dân từ nô lệ lên làm chủ, góp phần vào sự
tiến bộ chung chủa nhân loại.
2/ Vai trò của Đảng :

Theo qua điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, đảng cộng sản là đội tiền phong
của giai cấp cơng nhân, đảng có nhiệm vụ tổ chức và lãnh đạo giai cấp công
4


nhân đấu tranh lật đổ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, lật đổ chế độ xã hội
tư bản chủ nghĩa xây dựng chế độ xã hội mới khơng cịn người bóc lột ngườichế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Nói về nhiệm vụ của Đảng ta, trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”, Người viết : “ Đảng không phải là một tổ chức để làm
quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng.”[2 ,tr 249]
Đối với Đảng ta, Đảng ra đời đáp ứng nhu cầu lãnh đạo cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc khỏi ách áp bức của đế quốc, thực dân Pháp và bè lũ phong kiến

tay sai. Vì thế, Đảng “ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng khơng có
lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân
để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hố, chính trị của nhân
dân. Vì tồn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng.”[2 , tr250].
Trong “ Di chúc”, vấn đề đầu tiên Bác đề cập đến là về Đảng. Điều đó thể
hiện sự quan tâm lớn nhất của Người: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ
đồn kết chặt chẽ, một lịng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và
lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.”[3, tr 497]
3/ Nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm “cốt”, trong
Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu bằng một câu theo ý của Lênin:
“Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động … chỉ có theo
lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiền phong.” Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam.” [1,tr 268] Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”[1, tr268]. Nhờ lý luận ấy, Người đã tìm thấy con đường cứu nước, đã
5


xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và trang bị cho Đảng vũ khí tinh thần để
đảng làm trịn vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo cách mạng.
4/ Lực lượng cách mạng của Đảng:

Cũng trong tác phẩm “ Đường cách mệnh”, Bác chỉ ra lực lượng chính

của cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân“Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng)
làm gốc” [1, tr 280]
5/ Đảng là một tổ chức thống nhất, có kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh, tự giác:

Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Nguyên tắc này yêu cầu phải “giữ gìn sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ con ngươi của mắt mình”. Nếu trong
Đảng khơng đồn kết thống nhất thì tổ chức Đảng sẽ bị rệu rã, bị chia rẽ, bè
phái, khơng khí sẽ bị "âm u". Đồn kết thống nhất trong Đảng phải dựa trên cơ
sở chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng, Điều lệ Đảng.
Muốn thực hiện được đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải thực hành dân chủ
rộng rãi, thường xuyên nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, thường
xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, ra sức chống mọi biểu hiện tiêu cực. Người
đặt ra yêu cầu: cán bộ lãnh đạo phải là những người đoàn kết trước hết: "Đảng
phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đồn kết họ thành
nhóm trung kiên lãnh đạo.”
Đảng Cộng sản phải được tổ chức theo nguyên tắc của một đảng kiểu mới.
Điều này cịn thể hiện ở tính kỷ luật nghiêm minh, kỷ luật sắt, tự giác. Hồ Chí
Minh yêu cầu mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, làm bất kỳ việc gì cũng phải
chấp hành tốt kỷ luật của Đảng, Nhà nước, đoàn thể; mọi đảng viên đều bình
đẳng trước Điều lệ Đảng. Việc coi thường kỷ luật Đảng, không tự giác chấp
hành kỷ luật của Đảng sẽ làm suy yếu và tan rã Đảng. Trong tác phẩm “ Đường
cách mệnh” Bác viết: “Đảng lãnh đạo cách mạng phải là đảng có ý chí kiên
cường, bền bỉ với phong trào cách mạng, Phải biết hy sinh, chịu gian khổ và

6


đồn kết thống nhất: , phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất.”[1,tr 280]

Còn trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” Bác viết: “Đảng phải giữ kỷ luật
rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động
phải nhất trí. Kỷ luật này là do lịng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ
đối với Đảng.
Trước khi đi xa, Người cịn dặn dị: “ĐỒN KẾT là một truyền thống cực kỳ
quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.”[3,tr
498]
6/ Tự phê bình và phê bình:

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng, là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người chỉ
rõ: mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa
chữa cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ.
Cũng vì đối tượng phê bình là đồng chí của mình và bản thân mình, mục đích vì
sự vững mạnh và tiến bộ của Đảng, nên việc phê bình và thực hiện tự phê bình
vừa phải nghiêm túc nhưng cũng rất thân ái: tự phê bình mình cũng như phê
bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, khơng nể nang, không thêm bớt. Phải
vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai,
chua cay, châm chọc. Phê bình việc làm, chứ khơng phải phê bình người. Người
nêu lên những căn bệnh mà người cán bộ thường mắc phải cần phê bình, sửa
chữa. Đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hịi và bệnh ba hoa.
Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành trên nguyên tắc triệt để, thật
thà, thẳng thắn, chân thành, không nể nang, không giấu giếm và cũng không
thêm bớt khuyết điểm của nhau; phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Tự
phê bình và phê bình phải được tiến hành cơng khai, có tổ chức và phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục. “Đảng không che giấu những khuyết điểm của
mình, khơng sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa
7



chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”[2, tr250]
“Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ
đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức là "quan liêu hoá", tức là tự mãn
tự túc, tức là "mèo khen mèo dài đuôi".[2,tr 261]
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời trong một nước nông nghiệp lạc hậu, phân
đông dân số là nơng dân, giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé và chưa có tác phong
của một giai cấp cơng nghiệp hiện đại, Đảng ta mở rộng cho nhiều thành phần
xuất thân vào Đảng, vì thế những tập tục, lối sống, tác phong lạc hậu, chậm tiến
bộ cũng theo vào trong Đảng. Do đó, để Đảng ln vững mạnh thì phải tăng
cường cơng tác tự phê bình và phê bình, coi việc tự phê bình và phê bình như
“chữa bệnh”: “Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã
hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song
cũng khơng tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã
hội bên ngồi, nó lây, ngấm vào trong Đảng.
Nhưng khơng vì thế mà kinh sợ. Ta đã thấy rõ những bệnh ấy thì ta tìm được
cách chữa.
Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai
có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn
nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình.
Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết
điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán bộ ngày càng
trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng phát triển.[2,tr 261-262]
Muốn cơng tác tự phê bình và phê bình được tốt, thì Đảng phải coi đó là
trách nhiệm trước hết của Đảng, phải kiên quyết chữa trị cho được chứng bệnh
đó: “Đảng một mặt phải làm cơng việc giải phóng dân tộc, một mặt phải giáo
dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hoá những phần tử xấu, sửa chữa
những thói xấu cịn lại. Phải cố sửa chữa cho tiệt nọc các chứng bệnh, khiến cho
Đảng càng mạnh khoẻ, bình an.”[2,tr 262-263]
8



Và đối với mỗi cán bộ, đảng viên, Bác cũng căn dặn: “Trong công tác, trong
tranh đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi
mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Ln ln dùng và khéo dùng cách
phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định
thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi.”[2,tr 265]
Nhấn mạnh trách nhiệm của người lãnh đạo trong cơng tác tự phê bình và
phê bình, Bác viết: “Sự sửa đổi khuyết điểm, một phần cố nhiên là trách nhiệm
của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo.”[2,tr
284]
Phê bình cũng có mặt trái của nó. Nhiều người lợi dụng việc phê bình để moi
móc khuyết điểm của nhau, làm mất uy tính của nhau, nhằm hạ bệ nhau. Lường
trước việc này, Bác nói: “ Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp
nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết
và thống nhất nội bộ.
Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật
thà, khơng nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm.
Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm,
chứ khơng phải phê bình người.
Những người bị phê bình thì phải vui lịng nhận xét để sửa đổi, khơng nên vì
bị phê bình mà nản chí, hoặc ốn ghét.”[2,tr232]
Tự phê bình và phê bình chính là hình thức thực hành dân chủ trong Đảng, là
cơ sở để củng cố đoàn kết thống nhất, nâng cao sức mạnh, sức chiến đấu cho
Đảng. Trong “ Di chúc” Bác dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng
cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí
thương u lẫn nhau” [ 3, tr 497-498]
7/ Tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân:


Sức mạnh của Đảng là nơi dân. Đảng lãnh đạo nhưng dân làm chủ. Cho nên, đây
9


là một nguyên tắc trong hoạt động của Đảng. Người yêu cầu: Đảng phải lắng
nghe, học hỏi nhân dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân; Đảng phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; thường xuyên vận động nhân dân tham gia
xây dựng Đảng; Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí đồng thời Đảng phải là
đội tiên phong về mọi mặt, không được theo đuôi quần chúng; Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, biệt sử dụng
tài dân sức dân mà làm lợi cho dân: “Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên
tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu khơng vậy, thì chẳng những
khơng lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng.
Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến
của dân chúng.”[2, tr 250]
Trong công tác lãnh đạo của Đảng, Bác đòi hỏi “người lãnh đạo ắt phải có
mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng.
Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi.
Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như
đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại.[2,tr 286]
Đảng từ nhân dân mà ra, Đảng có mối quan hệ “máu thịt” với nhân dân,
Đảng ln ln quan tâm đến lợi ích của quần chúng, nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của quần chúng, dẫn dắt phong trào quần chúng, tổng kết phong trào quần
chúng, định ra xu hướng phát triển của phong trào, tránh cho phong trào rơi vào
xu hướng tự phát, tránh được tổn thất dễ mắc phải do chủ nghĩa kinh nghiệm
gấy ra. Tổng kết vấn đề này, Bác nói: "Phải đưa chính trị vào giữa dân gian".
Trước kia, việc gì cũng từ "trên dội xuống". Từ nay việc gì cũng phải từ "dưới
nhoi lên".
Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ phát

triển rất mau chóng và vững vàng.[2,tr 298].
Gần gũi nhân dân, đi sâu, đi sát phong trào quần chúng, từ phong trào quần
10


chúng để định ra đường lối, nghị quyết, nhưng không theo đi quần chúng.
Đấy chính là thể hiện vai trị tiền phong của Đảng: “Chúng ta tuyệt đối không
nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng,
hố nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so
sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hố nó thành cách chỉ đạo nhân dân.”
8/ Tính quốc tế của đảng.

Nói về tính quốc tế của đảng, chủ nghĩa Mác – Lê nin cho rằng cách
mạng vô sản của mỗi nước là một bộ phân của cách mạng thế giới. Trong tác
phẩm “ Đường cách mệnh” Bác đã sơ lược về lịch sử phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế: quá trình hình thành và phát triển của ba Quốc tế cộng
sản; vai trò của Quốc tế một đối với phong trào công nhân thới Mác; Quốc
tế hai và vai trị của nó thời kỳ đầu thành lập khi Ăng ghen còn sống; sự
phản động của Quốc tế hai sau khi Ăngghen mất và lãnh đạo Quốc tế hai đi
vào con đường cơ hội, ủng hộ cho chiến tranh đế quốc chủ nghĩa; sự ra đời
của Quốc tế ba và sự ủng hộ của Quốc tế ba đối với phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Xác định cách mạng Việt Nam nằm trong trào
lưu của cách mạng vô sản thế giới, Người viết: “Cách mệnh An Nam cũng là
một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều
là đồng chí của dân An Nam cả.” [2, tr301]. Và vai trò của Quốc tế ba đối
với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người khẳng định: “Xem những việc ấy thì
đủ biết rằng An Nam muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc
tế.”
II/TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
1/ Xây dựng đảng về chính trị:


Xây dựng đảng về chính trị là xây dựng đường lối, chủ trương chính sách
của đảng và tổ chức thực hiện đường lối đó, biến đường lối đó trở thành hiện
thực trong đời sống xã hội. Đường lối chính trị của một đảng phải xuất phát từ
cuộc đấu tranh giai cấp do đảng lãnh đạo, phải xuất phát từ tình hình thực tiễn
11


khách quan của đời sống chính trị xã hội mà đảng hoạt động và đấu tranh. Tình
hình thực tiễn đó không chỉ phản ánh những điều kiện của một địa phương,
trong nước, mà còn phản ánh những điều kiện của tình hình quốc tế. Trong tác
phẩm “ Sửa đổi lối làm việc”, Bác dạy cán bộ ta rằng: ‘Khi đặt ra khẩu hiệu và
chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở
các nước, ở trong nước và ở địa phương.”[2, tr 249]. Khẩu hiệu, chỉ thị của
Đảng phản ánh đường lối, sách lược của Đảng trong mỗi thời điểm cụ thể của
phong trào cách mạng, đường lối ấy phản ánh mối quan hệ lợi ích giai cấp, các
tầng lớp nhân dân mà Đảng vận động đấu tranh nhằm giành lấy. Đảng ta là đại
diện cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc,
Đảng ta tranh đấu khơng vì lợi ích của bản thân mình mà vì lợi ích của đại bộ
phận quần chúng nhân dân lao động. Do đó. Đường lối của đảng phải bắt nguồn
từ nới quần chúng nhân dân và được quần chúng nhân dân kiểm sốt. Đây là tư
tưởng mang tính sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về vai trị của quần
chúng nhân dân tham gia vào cơng tác xây dựng Đảng. Nếu như Mác, Ăngghen
mới chỉ bàn đến mối liên hệ bản chất giữa đảng vô sản với giai cấp công nhân,
Lê- nin bàn đến vấn đề kiểm kê, kiểm soát của nhân dân vào trong quá trình tổ
chức sản xuất và quản lý nhà nước, thì ở đây, Bác mở rộng hơn vai trò của quần
chúng nhân dân trong lĩnh vực kiểm soát đường lối của Đảng: “Phải ln ln
do nơi quần chúng mà kiểm sốt những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay
khơng.”[T5,tr 249] Và cũng từ việc đứng trên quan điểm vì lợi ích của quần
chúng nhân dân, coi lợi ích của quần chúng nhân dân là trên hết, coi mọi hoạt

động của Đảng là nhằm đến đích phục vụ nhân dân nên Bác nhắc nhở: “Phải
luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng ln
ln phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm,
liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.”[2,tr 249].
Trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Đảng, để đảm bảo
đường lối chính trị được đúng đắn, Bác chỉ dẫn: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên,
cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng khơng
làm nên.
12


Tính đảng là gì?
Một là: Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết.
Hai là: Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến
chốn.”[2,tr266] và phải bảo đảng tính cách mạng: “Mỗi cơng việc của Đảng phải
giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành
cho hoạt bát.
Nếu khơng vậy thì khơng biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách
thức tổ chức, khơng biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân
chúng.”[2,tr 249, 250]
Trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ cách mạng, việc nghiên cứu kỹ tình hình
đối tượng tham gia phong trào cách mạng do Đảng lanh đạo là rất quan trọng. Vì
vậy, Bác dạy rằng: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp
trình độ văn hố, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu,
lịng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm
việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng.
Nếu không vậy, nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của
mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào "khoét chân cho vừa giầy".
Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai cũng đóng giầy
theo chân. Khơng ai đóng chân theo giầy.[2, tr 248]

Nói về cách lãnh đạo của Đảng, Bác cho rằng, lãnh đạo là quyết định công
việc cho đúng, tổ chức công việc cho đúng và kiểm tra cho đúng. Tổ chức công
việc là việc đưa đường lối, nghị quyết của Đảng vào hiện thực hóa trong đời
sống thực tiễn, là đưa lý lận cách mạng vào phong trào quần chúng, là thực hành
công tác cách mạng trong phong trào quần chúng nhân dân. Nói về mối quan hệ
giữa lý luận cách mạng và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, Bác
viết: “Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.[2,tr 266-267]
2/ Xây dựng Đảng về tư tưởng.

Khi đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng cho Đảng,
13


cho phong trào cách mạng Việt Nan, Người tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác_
Lê nin vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước
Việt Nam. Trong tác phẩm “ Đường cách mệnh”, Bác chỉ rõ cách mạng có 3
loại: tư bản cách mạng, dân tộc cách mạng và giai cấp cách mạng. Bác phân tích
rõ nguyên nhân của các cuộc cách mạng. Tư bản cách mạng là cách mạng dân
chủ tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp
phong kiến thiết lập nên nền cộng hòa dân chủ tư sản. Đây là cuộc cách mạng
đem lại sự tiến bộ trong lịch sử, mở đường cho phương thức sản xuất mới ra đời
và phát triển-phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng này,
giai cấp công nhân đi theo giai cấp tư sản làm cách mạng. Nhưng khi cách mạng
thành công, giai cấp tư sản phản bội lại giai cấp công nhân, tước đoạt thành quả
của cuộc cách mạng. Giai cấp công nhân vẫn chịu cảnh áp bức bóc lột, lầm than.
Vì thế giai cấp công nhân vẫn phải mưu toan làm cách mạng một lần nữa.
Dân tộc cách mạng là cuộc cách mạng của các dân tộc thuộc địa chống lại
ách áp bức của các nước đế quốc, ngoại xâm, nhằm đánh đuổi chúng, giải
phóng dân tộc, giành lại nền độc lập cho dân tộc, giành quyền tự do cho nhân
dân. Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây đều do các giai cấp phong

kiến hoặc giai cấp tư sản lãnh đạo. Sau khi giành được độc lập các dân tộc đó sẽ
đi theo con đường phát triển dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong kiến hoặc giai
cấp tư sản. Kết quả, nhân dân lao động vẫn phải chịu cảnh lầm than, áp bức của
giai cấp bóc lột.
Giai cấp cách mệnh là cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân liên
minh với giai cấp nông dân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản- bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng này nhằm lật
đổ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, lật đổ nền thống trị của giai cấp tư
sản, thiết lập nền thống trị của giai cấp vô sản, giành lấy tự, do dân chủ cho giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động. Cuộc cách mạng này có
ý nghĩa triệt để, người lao động được giải phóng tồn diện khỏi ách áp bức, bất
công, được hưởng tự do hạnh phúc toàn diện. Học tập kinh nghiệm cách mạng
14


thế giới, Bác chỉ ra rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư
bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc
địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế
giới.”[1,tr 280]
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại thực dân Pháp và bè lũ
phong kiến tay sai là cuộc cách mạng vừa mang tính chất của cuộc cách mạng
dân tộc, vừa tính chất của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, lại phải hướng đến
cuộc cách mạng vô sản. Mà trong tình hình của Việt nam ta lúc bấy giờ, vai trò
của giai cấp phong kiến đã đi vào con đường phản động, hại dân, hại nước,
khơng cịn là ngọn cờ đoàn kết dân tộc, cổ vũ nhân dân kháng chiến được nữa.
Giai cấp tư sản dân tộc thì nhỏ bé, yếu ớt, bọn tư sản mại bản ôm chân Đế quốc
phản lại phong trào công nhân, phong trào dân tộc. Đứng trước tình hình đó, giai

cấp cơng nhân Việt Nam tuy nhỏ bé, nhưng đã sớm trưởng thành và sớm có
được lãnh tụ và đội tiền phong của mình, sớm tiếp thu được kinh nghiệm của
cách mạng thế giới, sẵn sàng bước lên vũ đài chính trị lãnh đạo dân tộc trong
cuộc cách mạng “một mất, một còn” với bọn đế quốc và tay sai. Trong cuộc
chiến đấu này, nếu có mất, thì dân tộc ta chỉ có mất “xiềng, gơng và nơ lệ”, cịn
được thì được cả “bầu trời tự do” và tương lai tươi sáng. Muốn cách mạng đi
đến thành cơng “thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin.”[1,tr 280]. Bởi vậy, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin.”[1, tr 268]
Với tác phẩm “ Đường cách mệnh”, Bác đã đặt nền móng cho sự thống nhất
về mặt tư tưởng, đem lại sự nhận thức đầy đủ cho cán bộ của Đảng, cho phong
trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam về con đường cách mạng Việt
15


Nam phải đi, là cơ sở tư tưởng cho việc xây dựng cương lĩnh của Đảng sau này.
Tác phẩm này là tài liệu quan trong cho việc học tập lý luận của cán bộ đảng, là
tài liệu tuyên truyền của Đảng vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, là một yếu tố để đi tới thành lập Đảng công sản Việt nam ( ngày 3 tháng 2
năm 1930)
3/ Về công tác tư tưởng của Đảng.

Công tác tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu của công tác đảng. Mỗi cán bộ,
đảng viên phải luôn quán triệt quan điểm này trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng. Trước khi có được quyền uy về mặt tổ chức, Đảng phải xây dựng được
cho mình quyền uy về mặt tư tưởng. Muốn được như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên
phải làm tốt công tác tư tưởng. Trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc”, Bác nói
hết sức giản dị vai trị của công tác tư tưởng: “Muốn làm bạn, phải hiểu nhau.

Nếu không hiểu nhau, không thành bạn.”[2, tr 300].
- Công tác tuyên truyền: Để cho quần chúng nhân dân hiểu Đảng và đi theo
Đảng thì mọi cán bộ, đảng viên phải làm công tác tuyên truyền cách mạng, đưa
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến với quần chúng nhân
dân, để quần chúng nhân dân hiểu, nắm rõ các đường lối, chủ trương chính sách
đó. Hiểu rõ rồi, quần chúng nhân dân sẽ tin tưởng, đi theo Đảng, biến niềm tin
đó thành động lực trong phong trào cách mạng sơi nổi. Nhưng cơng tác tun
truyền phải có phương pháp khoa học, khơng thể bạ đâu nói đó được: “Người
tuyên truyền không điều tra, không phân tách, không nghiên cứu, khơng hiểu
biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất bại.”, “Chúng
ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của quần chúng, mới nói lọt
tai quần chúng.
Tục ngữ có câu: "Học ăn, học nói, học gói, học mở". Nói cũng phải học, mà
phải chịu khó học mới được. Vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát,
rất thiết thực, mà lại rất giản đơn. Anh em đi tuyên truyền chưa học được cách
nói đó, cho nên khi viết, khi nói, khơ khan, cứng nhắc, khơng hoạt bát, khơng
thiết thực.”[2 ,tr 300].
16


Những ai là người làm công tác tuyên truyền? Hay nói cách khác chủ thể
cơng tác tuyền truyền là ai? Bác đã chỉ ra: “ Chẳng những các người phụ trách
tuyên truyền, những người viết báo, viết sách, những người nghệ sĩ là người
tuyên truyền, mà tất cả cán bộ, tất cả đảng viên, hễ những người có tiếp xúc với
dân chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì vậy, ai cũng phải học nói
nhất là học nói cho quần chúng hiểu.”[2,tr 301].
- Công tác cổ động: cổ động là hình thức của cơng tác tư tưởng, có tác dụng
thúc đẩy, cổ vũ động viên mọi người tham gia nhiệt tình, hăng say vào phong
trào cách mạng do Đảng phát động. Cổ động mang tính trực quan, mỗi câu khẩu
hiệu phải mang tính khái quát, dễ hiểu, phản ánh được mục đích của cuộc vận

động: “Mỗi khẩu hiệu của Đảng phải là cái ý nguyện và mục đích của hàng ức
đảng viên và của hàng triệu dân chúng. Mà muốn như thế, phải làm cho dân
chúng đều hiểu, phải học cách nói của dân chúng. Nếu khơng hàng vạn khẩu
hiệu cũng vơ ích.”[2,tr 305]
- Cơng tác lý luận của Đảng: là việc tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học
kinh nghiệm cho công tác cách mạng. Việc tổng kết kinh nghiệm là một việc
làm đòi hỏi phải cẩn thận, tỷ mỷ, có phương pháp khoa học. Việc phản ánh tình
hình thực tiễn qua các báo cáo tổng kết phải đảm bảo tính trung thực khách
quan, phản ánh được bản chất của sự vật hiện tượng, dự báo được xu hứng phát
triển của nó để từ đó có những chính sách tác động vào, định hướng nó vận động
đúng theo quy luật khách quan có lợi cho mục tiêu nhiệm vụ của Đảng.Trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác phê bình cách viết báo cáo “ Báo cáo lông
bông - Một là báo cáo giả dối. Thành công ít, thì st ra nhiều. Cịn khuyết điểm
thì giấu đi, khơng nói đến. Thành thử cấp trên khơng hiểu rõ tình hình mà đặt
chính sách cho đúng. Hoặc báo cáo chậm trễ. Thành thử khi cấp trên nhận được
báo cáo, thì việc đã trễ rồi, khơng đối phó kịp.
Hai là trong báo cáo chỉ thấy 1, 2, 3, 4 hoặc a, b, c, v.v.. Không nêu rõ vấn đề
ra. Không phân tách, không đề nghị cách giải quyết các vấn đề. Khơng nói rõ
tán thành hoặc phản đối.”
17


Và Bác chỉ bảo cho cách viết và nói: “Sao gọi là vấn đề ? Khi việc gì có mâu
thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết, tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải
nghiên cứu cho rõ cái gốc mâu thuẫn trong vấn đề đó là gì. Phải điều tra, phải
nghiên cứu cái mâu thuẫn đó. Phải phân tách rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ
cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải quyết.
Gặp mỗi vấn đề, đều phải kinh qua ba bước: đề nó ra, phân tách nó (điều tra,
nghiên cứu, sắp đặt), giải quyết nó.
Khi viết một bài hoặc khi diễn thuyết cho khỏi rỗng tuếch, cũng phải như

thế.”[2,tr 302]
4/ Vấn đề đảng viên.

Đảng viên là tế bào của Đảng, đảng viên tốt thì chi bộ tốt, chi bộ tốt thì Đảng
tốt. Đó là lời dạy của Bác. Để xây dựng nên một đảng trong sạch và vững mạnh,
Bác rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ đảng viên. Muốn xây dựng được
đội ngũ đảng viên, trước tiên phải có tiêu chuẩn đảng viên. Trong tác phẩm “
Sửa đổi lối làm việc” Bác nêu tư cách người đảng viên, nói rõ tiêu chuẩn và điều
kiện để trở thành người đảng viên:
“1. Tư cách
a) Thừa nhận chính sách của Đảng. Thực hành các nghị quyết của Đảng. Ra
sức làm công việc Đảng. Nộp đảng phí.
b) Những người trí thức, cơng nhân, nơng dân, phụ nữ, quân nhân, hăng hái
yêu nước, từ 18 tuổi trở lên đều được vào Đảng.
c) Mỗi người muốn vào Đảng phải có hai đảng viên cũ giới thiệu.
- Những người bỏ đảng phái khác mà vào Đảng, phải có ba người giới thiệu,
và phải được cấp trên của Đảng chuẩn y.
- Những người rời Đảng đã lâu, mà có người làm chứng rằng, trong thời gian
đó khơng hề làm việc gì có hại cho Đảng, thì được trở lại làm đảng viên.
d) Những người mới vào Đảng phải qua một thời kỳ dự bị. Nông dân và
18


cơng nhân hai tháng. Qn nhân ba tháng. Trí thức bốn tháng.
đ) Trong thời kỳ dự bị, Đảng phải dạy dỗ cho họ, và trao việc cho họ làm.
Đồng thời, Đảng phải xem xét tính nết, cơng tác và lịch sử của họ.
- Những người giới thiệu phải giúp đỡ họ học tập và công tác.
e) Những người dự bị phải cơng tác cho Đảng và nộp đảng phí.
Họ có quyền tham gia huấn luyện, đề ra ý kiến, bàn bạc các vấn đề, nhưng
khơng có quyền biểu quyết.

Họ cũng chưa có quyền giữ các trách nhiệm chỉ đạo như làm tổ trưởng, thư
ký, v.v.. (Trong những hoàn cảnh đặc biệt, như nơi đó mới bắt đầu có Đảng,
hoặc đại đa số đều đảng viên mới, thì khơng phải theo lệ này).”
Nhiệm vụ của đảng viên cũng được Bác nêu rõ:
“a) Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc.
b) Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết.
c) Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng.
d) Kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng.
đ) Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc.
e) Cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hoá. Phải gần gũi quần chúng, học
hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng.”[2,tr 265-266]
5/Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ

Cán bộ cách mạng là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng. Từ định hướng đó,
Người khẳng định, cán bộ là cái "gốc" của mọi công việc. Công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thực hiện tư tưởng của Người, các nghị
quyết của Đảng ta đều dành sự quan tâm cho công tác cán bộ. Đảng xác định,
cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; là khâu then chốt của
19


công tác xây dựng Đảng. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ, mức chính xác của
đường lối và việc cụ thể hóa đường lối chính xác, kịp thời cũng như việc thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng thắng lợi đều tùy thuộc ở chất lượng đội
ngũ cán bộ.
Công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trong của Đảng, nhằm tạo ra một đội ngũ
cán bộ cốt cán cho Đảng. Với quan điểm của Bác cán bộ là gốc của mọi cơng
việc. Do đó, cán bộ phải là những người có đủ phấm chất về tài và đức, trong đó

đức là quan trong hơn cả. Vì thế, để có được đội ngũ cán bộ hội đủ được cả đức
và tài thì Đảng phải làm tốt công tác cán bộ. Công tác cán bộ bao gồm nhiều
khâu, mỗi khâu có vị trí vai trị khác nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với
nhau, tạo nên một quy trình khép kín nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có đủ
phẩm chất và năng lực.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người phê bình những khuyết điểm,
yếu kém trong cơng tác cán bộ, đồng thời đề ra những quan điểm và giải pháp về
vấn đề cán bộ.
- Về việc đào tạo chun mơn, nghiệp vụ cho cán bộ. Vì cán bộ là cái "gốc"
của mọi cơng việc, do đó, huấn luyện cán bộ là công việc "gốc" của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ huấn luyện nghề nghiệp cho cán bộ là khâu đầu tiên. Vì,
vơ luận cán bộ ở môn nào, làm nghề nào, ngành nào cũng phải học cho thành
thạo công việc ở môn ấy; đồng thời, phải nghiên cứu những chính sách, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và Chính phủ; học tập những kinh nghiệm thành cơng và
thất bại; học tập lịch sử truyền thống cách mạng và sự phát triển trong từng thời
kỳ... Theo đó, việc huấn luyện phải sắp xếp cách dạy và học, kiểm tra kết quả,
sao cho cán bộ dần dần đi đến thạo cơng việc; huấn luyện chính trị, mơn nào
cũng phải có; cần coi trọng nâng cao kiến thức văn hóa.
- Về bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Đảng luôn nuôi dạy cán bộ như người
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu; trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng
mỗi một người có ích cho cơng việc chung của chúng ta. Theo tư tưởng của
Người, Đảng phải biết rõ cán bộ;... xem xét lại nhân tài và tìm nhân tài mới.
20


Phải cất nhắc cán bộ cho đúng; cán bộ phải được tập thể tin cậy, lại bố trí đúng
ngành nghề đào tạo, huấn luyện. Một trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm, đó là đặt đúng người vào đúng cơng việc thích hợp: Phải khéo dùng
cán bộ. Chúng ta phải biết tùy tài mà dùng người. Phải phân phối cán bộ cho
đúng. Phải dùng người đúng chỗ, đúng việc.

Khi đã đặt cán bộ thích hợp với cơng việc, cần tiếp tục giúp họ có điều kiện
hồn thành cơng việc một cách có hiệu quả: Ln ln dùng lòng thân ái mà
giúp đỡ, lãnh đạo cán bộ; giúp họ sửa chữa những chỗ sai lầm; khen ngợi họ lúc
họ làm được việc, và phải ln kiểm sốt cán bộ, giữ gìn cán bộ.
Người nhấn mạnh, đối với cơng tác cán bộ của Đảng ta, việc xây dựng quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc và kiểm tra cán bộ là một quy trình liên
hồn, u cầu thực hiện nghiêm túc, triệt để. Cán bộ được đề bạt là dựa vào cả
quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu. Sau khi nhận chức trách, lại tiếp tục
được tổ chức quan tâm theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra. Có như vậy, công tác cán bộ
của Đảng mới đem lại hiệu quả thiết thực cho sự nghiệp cách mạng.
- Xây dựng cơ chế làm việc cho cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra có
năm cách. Cách thứ nhất là chỉ đạo - thả ra cho họ làm, thử cho họ phụ trách, dù
sai lầm chút ít cũng khơng sợ. Nhưng phải ln ln tùy hồn cảnh mà bày vẽ
cho họ về phương hướng công tác, cách thức công tác để phát triển năng lực và
sáng kiến. Cách thứ hai là luôn bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tư tưởng, trình độ lý
luận và cách làm việc cho họ. Cách thứ ba là thường xuyên kiểm tra để giúp họ
rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Cách thứ tư là khi
họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục giúp họ sửa chữa, cải tạo. Cách thứ năm là
giúp đỡ họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Tùy hoàn cảnh mà giúp họ
khi ốm đau, khi gia đình họ gặp khó khăn. Những điều đó rất quan hệ với tinh
thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng.
- Về một số điểm lớn trong chính sách cán bộ. Theo Hồ Chí Minh: Cần hiểu
biết cán bộ. Vấn đề nhận xét và đánh giá cán bộ là vấn đề không đơn giản. Biết
người cố nhiên là khó, tự biết mình cũng khơng dễ. Nếu không biết sự phải trái
21


ở mình, thì chắc khơng thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu. Người còn chỉ rõ,
các chứng bệnh của cán bộ ta như: tự cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do
lịng u, ghét của mình mà đối với người; đem một cái khuôn khổ nhất định,

chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn bệnh đó
cũng như mắt đã mang kính có màu, khơng bao giờ thấu rõ cái mặt thật của
những cái mình trơng. Vì vậy, nhận xét cán bộ khơng nên chỉ xét ngồi mặt, chỉ
xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả tồn cơng việc của cán bộ. Do đó, nhận
xét đánh giá cán bộ phải xuất phát từ hiện thực khách quan, với quan điểm tồn
diện, lịch sử cụ thể. Qua đó mới biết chỗ tốt và chỗ xấu của cán bộ, từ đó mà
nâng cao chỗ tốt, sửa chữa chỗ xấu.
- Khéo dùng cán bộ. Mục đích khéo dùng cán bộ, cốt để thực hành đầy đủ
chính sách của Đảng và Chính phủ. Đồng thời chống những chứng bệnh như:
ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn
người ngồi. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình, mà chán ghét những người
chính trực... Vì những việc đó, kết quả là dù họ có làm bậy, mình cũng cứ bao
dung, che chở, bảo hộ khiến cho chúng ngày càng hư hỏng. Đối với những
người chính trực thì "bới lơng tìm vết" để trả thù. Như thế, cố nhiên hỏng cả
việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo.
- Phải có gan cất nhắc cán bộ. Phải vì cơng tác, tài năng, vì cổ động cho đồng
chí khác thêm hăng hái. Như thế, cơng việc nhất định chạy. Nếu vì lịng u
ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lơi thơi
trong Đảng. Như thế có tội với Đảng, có tội với đồng bào. Trước khi cất nhắc
cán bộ, phải nhận xét rõ ràng, phải căn cứ vào kết quả cơng việc họ làm, cách
nói, cách viết và cách sinh hoạt v.v..
- Thương yêu cán bộ là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ.
Hễ thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa ngay, để vun trồng cái thói có gan phụ
trách, cả gan làm việc của họ. Đồng thời phải nêu rõ những ưu điểm, những
thành công của họ. Làm thế không phải là làm cho họ kiêu căng, mà cốt làm cho
họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí khí của họ.
22


- Phê bình cán bộ. Đối với cán bộ sai lầm, chúng ta khơng sợ có sai lầm và

khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và
càng sợ, những người lãnh đạo sẽ khơng biết tìm đúng cách để giúp cán bộ sửa
chữa sai lầm và khuyết điểm. Sự sửa chữa khuyết điểm, một phần cố nhiên là
trách nhiệm của cán bộ đó, nhưng cũng một phần trách nhiệm của người lãnh
đạo. Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách thuyết phục, giải thích, cảm hóa,
dạy bảo. Song khơng phải tuyệt nhiên khơng dùng xử phạt. Nếu khơng xử phạt
thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại.
Cách đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc vấn
đề cán bộ quyết định mọi cơng việc. Vì vậy, phê bình cho đúng, chẳng những
khơng làm giảm uy tín của cán bộ, của Đảng, mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh
mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm.
6/ Những khuyết điểm sai lầm và biện pháp sửa chữa

Bác nói: “Trong Đảng ta cịn có những người chưa học được, chưa làm được
bốn chữ "chí cơng vơ tư", cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ
bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau đây:
- Bệnh tham lam
- Bệnh lười biếng
- Bệnh kiêu ngạo
- Bệnh hiếu danh
- Bệnh hiếu danh
- Thiếu kỷ luật
- Óc hẹp hịi
- Ĩc địa phương
- Ĩc lãnh tụ
23


- Bệnh "hữu danh, vô thực

- Kéo bè kéo cánh
- Bệnh cận thị
- Bệnh "cá nhân"
- Bệnh lười biếng
- Bệnh xu nịnh, a dua ,
Khuyết điểm có nhiều thứ. Chúng ta có thể chia tất cả các khuyết điểm vào
ba hạng:
- Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan.
- Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với ngồi Đảng, tức là bệnh hẹp
hịi.
- Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa.
Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì
có hại vơ cùng.[ 2,tr 233]
Bệnh chủ quan. Đó là chứng bệnh nguy hiểm gây tác hại lớn cho cách mạng.
Vì mắc bệnh chủ quan, cán bộ, đảng viên ta thường giải quyết công việc xuất
phát từ ý muốn chủ quan, mà không căn cứ vào điều kiện cụ thể và quy luật
khách quan. Do không biết nhận rõ điều kiện, hoàn cảnh khách quan, khăng
khăng làm theo ý mình, nên kết quả thường nhận lấy thất bại. Người chỉ rõ
nguyên nhân của bệnh chủ quan là: Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý
luận suông. Người mắc bệnh chủ quan đều coi khinh lý luận, làm việc chỉ theo
kinh nghiệm của bản thân, không biết khái quát thành lý luận chung, giải quyết
công việc một cách sự vụ, vụn vặt. Đó là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Chủ
nghĩa kinh nghiệm chính là một biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, nguyên nhân
của bệnh chủ quan, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là do kém lý luận hay khinh lý
luận. Do đó, có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng, một
mắt mờ.
24


Vì vậy, khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Ngược lại, lý

luận là cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào
thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn cuốn lý luận, nếu
không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều
sách để mà lòe, để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận. Khi phân tích
các biểu hiện của bệnh chủ quan như: kém lý luận, khinh lý luận và lý luận
suông, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ bệnh lý luận sng là bệnh giáo điều chủ nghĩa.
Đó là sự bắt chước kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của các nước anh
em một cách máy móc, mù quáng; xem thường kinh nghiệm của quần chúng,
không năng đi xuống cơ sở để học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn...
Bệnh hẹp hòi. Đây là căn bệnh rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên
cịn mắc phải. Trong, thì bệnh này ngăn cản Đảng thống nhất và đồn kết.
Ngồi, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa
phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng,
tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa... đều do bệnh hẹp hịi mà ra! Biểu hiện
của bệnh hẹp hòi là ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận
nào thì lơi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, khơng ưa thì tìm cách
đẩy ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình mà qn cả Đảng.
Bệnh hẹp hịi trái hẳn với nguyên tắc tập trung và thống nhất trong Đảng. Từ
trước đến nay, vì bệnh hẹp hịi mà có những sự lủng củng giữa bộ phận và toàn
cục, đảng viên với Đảng, cán bộ địa phương với cán bộ phái đến, cán bộ quân sự
với cán bộ mặt trận, cán bộ mới và cán bộ cũ, cơ quan này và cơ quan khác.
Bệnh hẹp hòi của cán bộ, đảng viên cịn biểu hiện ở thói tự tơn tự đại, khinh
rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Những
cán bộ, đảng viên mắc bệnh này qn rằng: chỉ đồn kết trong Đảng, cách mạng
cũng khơng thành cơng được, cịn phải đồn kết nhân dân cả nước. Họ cố tình
khơng hiểu: so với nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người
dân mới có một người đảng viên. Nếu khơng có nhân dân giúp sức thì Đảng
khơng làm được việc gì hết. Cũng vì bệnh hẹp hịi mà khơng biết dùng nhân tài,
25



×