Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Luận văn "TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐẾN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.84 KB, 129 trang )

Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
***





KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
ĐẾN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY




Giáo viên hướng dẫn : TS Nguyễn Văn Hồng
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thuý Hằng
Lớp : Pháp 2 - K38 E




HÀ NỘI - 2003


Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỔI MỚI
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
1. Đặc điểm của kinh tế Việt Nam
Qua hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm thế và lực để
bước vào giai đoạn phát triển mới. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu to
lớn như nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, kiềm chế và đầy lùi được nạn siêu lạm phát,
nâng cao đời sống nhân dân. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng
Việt Nam vẫn đang còn là một nước nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé,
kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa xây dựng
được bao nhiêu. Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhưng năng suất, chất
lượng và hiệu quả còn thấp. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chưa cao. Nhà
nước còn quản lý rất chặt chẽ nhiều lĩnh vực quan trọng như ngân hàng, bưu
điện, điện lực…Những tệ nạn như tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỷ cương
còn nặng và phổ biến.
Tuy nhiên khó khăn còn đang tồn tại và sẽ tiếp tục phát sinh nhưng
những thách đố gay go nhất của thời kỳ chuyển toàn bộ nền kinh tế từ cơ chế
quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới và sự hẫng hụt về viện trợ, đảo lộn về
ngoại thương do có sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu đã qua
rồi. Không có khó khăn nào có thể lớn hơn những khó khăn đã gặp phải trong
những năm đầu khởi động chương trình đổi mới. Khó khăn đang tồn tại và sẽ
phát sinh chỉ là khó khăn của yêu cầu phát triển, tăng tốc độ nền kinh tế chứ
không phải là khó khăn có thể dẫn đến nền kinh tế sụp đổ như những năm
trước đây.

Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
3
Mặt khác, bên cạnh những khó khăn, thách đố, nền kinh tế Việt Nam còn
có thời cơ và thuận lợi, nội lực và ngoại lực. Nếu khai thác tốt các yếu tố
thuận lợi, tận dụng được thời cơ sẽ cho phép khắc phục khó khăn, vượt qua
thách đố, hành trang của nền kinh tế Việt Nam trên con đường hội nhập chứa
đựng thuận lợi nhiều hơn khó khăn, thời cơ lớn hơn thách đố.
2. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân
nói chung và đối với ngoại thương nói riêng.
Hoạt động kinh tế trong một nền mậu dịch tự do diễn ra theo các quy
luật kinh tế, đó là quy luật về giá cả, cung cầu, quy luật cạnh tranh …, các quy
luật kinh tế này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. Nếu một nền
kinh tế nào hoạt động dưới tác động, điều tiết của quy luật kinh tế thì sẽ tối đa
hoá được lợi nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có.
Nhưng với một nền kinh tế thị trường không có sự quản lý của Nhà nước
sẽ dễ dàng nảy sinh ra những khuyết tật của thị trường như tình trạng phân
hoá giàu nghèo rất cao, tình trạng thất nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng mà
từ đó sẽ nảy sinh ra những tệ nạn xã hội, hoặc có những lĩnh vực có ích cho
cộng đồng và phát triển kinh tế như xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư vào giáo
dục, y tế cần nhiều vốn nhưng thời gian thu hồi chậm và lợi nhuận thu được ít
thì sẽ không được các nhà đầu tư quan tâm.
Chính vì những lý do trên, để hướng nền kinh tế phát triển theo hướng có
lợi nhất và phù hợp nhất với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia, chính sách tự
do hoá thương mại cũng cần có sự quản lý của Nhà nước dù ở mức độ can
thiệp, quản lý của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường như thế nào lại phụ
thuộc vào điều kiện lịch sử và quan điểm nhận thức của mỗi nước. Vì vậy,
chúng ta thấy hiện nay các nước đều sử dụng chính sách thương mại của mình
để can thiệp vào thị trường, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển bền vững,

ổn định và khuyến khích xuất khẩu, xâm nhập ra thị trường nước ngoài.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
4
Chính sách thương mại là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện
pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để quản lý, điều chỉnh các hoạt động
thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ, nhằm đạt được các mục đích đã
định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó.
Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà
mỗi quốc gia xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây
dựng nên một cách phù hợp. Ngoài ra chính sách thương mại của một nước
chịu ảnh hưởng và cũng chi phối hoạt động ngoại thương của các nước khác.
Ở Việt Nam, chính sách thương mại đã dần xoá bỏ được các định kiến.
Chuyển đổi chính sách thương mại từ quản lý theo mô hình kế hoạch hoá tập
trung sang kiểu quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1995 ta đã sửa đổi lại chính sách thuế, chính sách phi quan thuế,
chính sách tài chính tiền tệ… phù hợp với yêu cầu của Hiệp định CEPT, Hiệp
định thuế quan của khối APEC và của Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Những thay đổi đó đã được các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế công
nhận, qua đó vị thế của nền kinh tế nước ta trên trường quốc tế đã thay đổi
đáng kể. Nền kinh tế của ta đang và sẽ hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết để
hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào quá trình tự do hóa thương mại đang
diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới.
Riêng đối với lĩnh vực ngoại thương, chính sách thương mại chịu ảnh
hưởng và cũng chi phối rất lớn đến lĩnh vực này. Chính sách thương mại đã
thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất
khẩu, góp phần làm kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ cao. Cơ chế xuất
nhập khẩu thể hiện trong chính sách của Nhà nước ngày càng mở rộng, linh
hoạt đã tạo điều kiện và cơ hội cho các doanh nghiệp chủ động tìm đối tác và

thị trường xuất khẩu. Mặt khác, sự cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và
thị trường quốc tế đã buộc các doanh nghiệp phải cải tiến mẫu mã sản phẩm,
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
5
áp dụng kỹ thuật công nghệ mới, do đó đã nâng cao được khối lượng kim
ngạch và chất lượng xuất khẩu.
Một vấn đề rất đáng chú ý là chính sách thương mại đã thúc đẩy xuất
khẩu tới thị trường đích và nhập khẩu từ thị trường nguồn. Chính sách tự do
hoá thương mại và các quy chế cụ thể đã giúp các doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư chế biến hàng xuất khẩu để đưa tới thị trường tiêu dùng (thị trường
đích) và nhập khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc thiết bị từ thị trường có công
nghệ hiện đại (thị trường nguồn).
Chính sách thương mại của nước ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước, đưa nước ta từ một nền kinh tế đóng sang
một nền kinh tế mở, đã và đang gặt hái được nhiều thành công rất đáng khích
lệ.
3. Tính cấp thiết phải đổi mới chính sách thương mại
Chính sách thương mại là một trong những chính sách quan trọng mà
mỗi quốc gia, xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây
dựng nên một cách phù hợp. Tuy nhiên, không có chính sách thương mại nào
là phù hợp cho tất cả các quốc gia, trong mọi thời điểm bởi vì các quy luật
kinh tế chi phối nền kinh tế của thế giới cũng như của các quốc gia luôn luôn
biến động, sự biến động của các quy luật này kéo theo sự thay đổi chiến lược
kinh tế của từng quốc gia, do đó chính sách thương mại tất yếu cũng thay đổi
theo.
Hiện nay, xu hướng phát triển kinh tế của thế giới đang thay đổi và xu
thế tự do hoá thương mại ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Tất cả
các quốc gia, nếú không muốn đứng ngoài dòng chảy của sự phát triển kinh tế

thế giới thì buộc phải tham gia vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh
tế, từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Cụ thể là phải mở cửa nền kinh tế,
thực hiện tự do hoá thương mại, giảm bớt các hàng rào thuế quan, phi thuế
quan, các biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước, ban hành những chính
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
6
sách kinh tế thông thoáng hơn để thu hút đầu tư nước ngoài và kích thích sản
xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Chính
vì những yêu cầu thực tiễn trên mà các nhà hoạch định chính sách không thể
không nghĩ đến vấn đề cải cách và đổi mới chính sách thương mại của nước
mình để phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn thế giới.
Đối với Việt Nam, chúng ta không thể duy trì mãi chính sách khép kín,
chia cắt trong hoạt động thương mại và cô lập trong quan hệ quốc tế đã góp
phần làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế không
phát triển và tụt hậu so với các nước khác trên thế giới. Trong hơn 15 năm
qua, Việt Nam đã không ngừng cải cách, đổi mới chính sách thương mại và
thành công của công cuộc đổi mới đã được thể hiện bằng những kết quả đáng
ghi nhận như tốc độ tăng trưởng GDP, kim ngạch xuất nhập khẩu …
Có thể nói, đổi mới chính sách thương mại là một lựa chọn tất yếu không
chỉ riêng Việt Nam mà còn là của tất cả các nước trên thế giới.
II. NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI
1. Khái quát chính sách thương mại trước đổi mới.
1.1. Chính sách thương mại trước đổi mới.
Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, nền kinh tế nước ta vẫn là
một nền kinh tế lạc hậu, lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, phụ tùng và
thiết bị của bên ngoài. Nhà nước vẫn duy trì chính sách kinh tế đóng, quan hệ
buôn bán với nước ngoài chưa phát triển, chủ yếu là buôn bán với các nước

XHCN, hoạt động xuất nhập khẩu còn manh múm, chính vì vậy, chính sách
thương mại thời kỳ này chủ yếu là quản lý, điều chỉnh các quan hệ kinh tế
trong nước và giữa nước ta với các nước XHCN.
Xuất phát từ nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu và
mô hình kế hoạch hoá tập trung ảnh hưởng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
7
độc quyền Nhà nước đối với ngoại thương đã trở thành quy phạm pháp luật
có tính bắt buộc. Điều này có thể thấy được thông qua các khía cạnh sau:
- Nhà nước độc quyền quản lý về ngoại thương
Mọi hoạt động ngoại thương đều tập trung vào Nhà nước, Bộ Ngoại
thương là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước quản lý hoạt động ngoại
thương. Bộ Ngoại thương xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu và trực tiếp
phân bổ kế hoạch chó các doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất nhập
khẩu, đồng thời Bộ trực tiếp điều tiết, quản lý hoạt động ngoại thương bằng
các chỉ tiêu pháp lệnh và thông qua hệ thống cấp giấy phép xuất nhập khẩu.
Vì vậy, Bộ Ngoại thương thay mặt Nhà nước trực tiếp kiểm tra, giám sát việc
thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Trong quá trình
thực hiện, nếu gặp khó khăn, vướng mắc, các doanh nghiệp phải báo cáo Bộ
và xin ý kiến chỉ đạo, không được tự ý sửa đổi kế hoạch.
- Nhà nước độc quyền kinh doanh ngoại thương
Các quan hệ thương mại, kinh tế giữa nước ta với các nước XHCN kế
khác đều mang tính chất Nhà nước và được thực hiện trên cơ sở các hiệp định
và Nghị định thư mà Chính phủ ta ký kết với chính phủ các nước XHCN.
Hoạt động kinh doanh ngoại thương do Nhà nước độc quyền, Bộ Ngoại
thương cho phép một số doanh nghiệp quốc doanh được phép kinh doanh
xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài, các doanh nghiệp này chỉ được kinh
doanh những mặt hàng và ngành hàng được cho phép. Thực chất đây cũng là

những tổ chức kinh doanh độc quyền về các mặt hàng và ngành hàng được
giao. Tính độc quyền của Nhà nước trong kinh doanh ngoại thương rất cao và
gần như là tuyệt đối. Số lượng các doanh nghiệp được phép kinh doanh ngoại
thương là rất nhỏ, tính đến năm 1981, chỉ có 12 doanh nghiệp Nhà nước được
phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đến năm 1987 là 35 doanh nghiệp.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
8
Tính độc quyền trong kinh doanh ngoại thương còn được thể hiện trong
quá trình thực hịên hoạt động ngoại thương, các doanh nghiệp phải thực hiện
theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, điều đó nghĩa là sản xuất cái gì, xuất
khẩu, nhập khẩu mặt hàng gì, trị giá bao nhiêu, thị trường nào hầu như đều do
Nhà nước chỉ đạo, thậm chỉ trong nhiều trường hợp ngay cả giá cả cũng do
Nhà nước quy định.
Hạch toán kinh tế ở giai đoạn này chỉ mang tính chất hình thức. Thông qua
chế độ “thu bù chênh lệch ngoại thương”, các khoản được coi là lãi phải nộp
cho Nhà nước, các khoản được coi là lỗ thì được Ngân sách Nhà nước cấp bù.
Tuy nhiên, từ khi Nghị định số 40/CP ngày 7/2/1980 ra đời, quyền kinh
doanh ngoại thương được mở rộng hơn cho các địa phương thông qua các tổ
chức ngoại thương địa phương. Mở rộng quyền xuất khẩu trực tiếp cho các
liên hiệp xí nghiệp. Các liên hiệp xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trực
thuộc các Bộ quản lý sản xuất. Từ quy định này hình thành nên Bộ quản lý
Nhà nước về ngoại thương (Bộ Ngoại thương) và Bộ chủ quản của các tổ
chức sản xuất được quyền hoạt động ngoại thương (Bộ quản lý ngành).
Ngoài ra, Nghị định này còn đề cập đến việc sửa đổi công tác kế hoạch
hoá xuất khẩu theo hướng thu hẹp các chỉ tiêu pháp lệnh đối với hàng xuất
khẩu, cho phép xuất khẩu những sản phẩm ngoài kế hoạch, do đó đã hình
thành hàng xuất khẩu theo kế hoạch và hàng xuất khẩu ngoài kế hoạch.
- Nhà nước độc quyền về tài sản trong kinh doanh ngoại thương

Do hoạt động kinh doanh ngoại thương tập trung vào các doanh nghiệp
Nhà nước, tài sản phục vụ cho lưu thông và hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp trong kinh
doanh ngoại thương.
Trong một thời gian dài, nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương
được mở rộng ra toàn bộ các lĩnh vực kinh tế đối ngoại và được ghi vào Hiến
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
9
pháp Việt Nam năm 1980: “Nhà nước độc quyền ngoại thương và các quan
hệ kinh tế đối ngoại” (Điều 21). Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta được
thực hiện theo cơ chế quản lý tập trung, hoạt động ngoại thương được tập
trung vào tay Nhà nước. Bộ Ngoại thương có chức năng quản lý Nhà nước
(hoạch định chính sách, soạn thảo pháp luật, kiểm tra, giám sát các hoạt động
ngoại thương…) đồng thời có chức năng chỉ đạo các nghiệp vụ kinh doanh
(ấn định các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường, phương thức mua
bán, giá cả ) từ đó dẫn đến sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và
chức năng kinh doanh và quản lý kinh doanh.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có thể thực hiện
được trong điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội nhất định. Ngày nay, hệ
thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan vỡ, cùng với xu hướng quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế – xã hội, Việt Nam cũng phải thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển sản xuất hàng hoá với nền kinh tế
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, do đó chính sách thương
mại thời kỳ này với việc Nhà nước độc quyền ngoại thương không còn phù
hợp nữa. Chính vì thế, Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới về chính sách và
cơ chế quản lý đề ngày càng phù hợp hơn với xu thế tự do hoá thương mại
đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực và trên toàn thế giới.
1.2. Hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1976-1985:

Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất, hoạt động ngoại thương có
những thuận lợi mới, đồng thời có những khó khăn mới. Đất nước được thống
nhất, chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác có hiệu quả tiền năng của
đất nước (đất đai, rừng, biển, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh,
nguồn lao động và yếu tố con người, vị trí của Việt Nam …) để đẩy mạnh
xuất khẩu, phát triển du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, phát triển ngoại thương
mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài, thu hút vốn và kỹ
thuật nước ngoài. Nhưng bên cạnh những thuận lợi mới, chúng ta cũng đứng
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
10
trước những khó khăn gay gắt bắt nguồn từ trình độ phát triển kinh tế của cả
nước còn thấp, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn thấp lém, kinh tế hàng hoá chưa
phát triển, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, nền kinh tế còn bị lệ thuộc
nặng nề vào bên ngoài. Chiến tranh kéo dài làm đã để lại những hậu quả kinh
tế nặng nề làm cho đất nước phát triển chậm lại nhiều năm. Bên cạnh đó, một
số nước phương Tây đã thực hiện chính sách cấm vận và phân biệt đối xử với
nước ta.
Hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi đó đã gây ra cho nước ta không ít
khó khăn, nhưng kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng vẫn được tiếp
tục phát triển.
Sau đây là kết qủa hoạt động xuất, nhập khẩu giai đoạn 1976 -1985:
Qua bảng thống kê sau chúng ta thấy:
- Kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua các năm. Tỷ lệ tăng trưởng bình
quân trong 10 năm (1976 - 1985) của xuất khẩu tăng cao hơn tỷ lệ tăng của
tổng kim ngạch buôn bán hai chiều và của nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ tăng
trưởng bình quân trong 10 năm của xuất khẩu là 13,5% thì của XNK cộng lại
là 8,4%, và của nhập khẩu chỉ có 7%/ năm.
- Trị giá xuất khẩu tuy có tăng nhưng trong 10 năm (1976-1985) xuất

khẩu cũng chỉ đảm bảo được 30,8% tổng số tiền nhập khẩu.
- Cán cân thương mại quốc tế luôn nghịch sai (nhập siêu) và nhập siêu
có xu hướng tăng.
Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976 -1985
Đơn vị: Triệu rúp – USD
Cán cân thương mại Năm Tổng
KNXNK
Xuất khẩu Nhập khẩu

Trị giá Tỉ lệ %
1976 1.226,8 222,7 1.004,1 -881,4 22,2
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
11
1977 1.540,9 322,5 1.218,4 -815,9 28,3
1978 1.630,0 326,8 1.303,2 -976,4 25,1
1979 1.846,6 320,,5 1.562,1 -120,5 21,0
1980 1.652,8 338,6 1.314,2 -975,6 25,8
1981 1.783,4 401,2 1.382,2 -981,0 29,0
1982 1.998,8 526,6 1.472,2 -945,6 35,8
1983 2.143,2 616,5 1.526,7 -910,2 40,4
1984 2.394,6 649,6 1.745,0 -1.095,4 37,2
1985 2.555,9 698,5 1.857,4 -1.158,9 37,6
Tổng số 18.773,0 4.423,5 14.349,5 -9.926,0 30,8
Nguồn: Giáo trình Kinh tế ngoại thương - 1997
Hầu hết các loại hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều phải
nhập khẩu toàn bộ hay một phần di sản xuất trong nước không đảm bảo.
Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị còn nhập khẩu cả hàng tiêu
dùng. Kể cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng

được như lúa gạo, vải mặc. Trong những năm 1976 -1985 đã nhập khẩu 60
triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy ra gạo.
Xuất khẩu tuy có tăng nhưng trị giá xuất khẩu quá thấp. Hàng xuất khẩu
chủ yếu dựa vào thu gom sản phẩm từ nền sản xuất hàng hoá kém phát triển:
63% trị giá xuất khẩu của năm 1985 là nông, lâm, thuỷ sản: 28,9% là hàng
công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
12
2. Nội dung cơ bản của đổi mới chính sách thương mại:
2.1. Mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 của Chính phủ về quản lý Nhà nước
đối với hoạt động xuất nhập khẩu là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự
thay đổi tương đối cơ bản về chính sách xuất nhập khẩu nước ta. Từ năm
1994 trở về trước, có thể nói Nhà nước ta độc quyền về ngoại thương, hoạt
động xuất nhập khẩu hầu như chỉ thực hiện theo cơ chế Nghị định thư và giao
cho các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện; các biện pháp quản lý chủ yếu là
phi thuế quan.
Từ năm 1994 trở đi, với sự ra đời của Nghị định 33/CP, công cụ phi thuế
quan chỉ còn giá trị đối với một số mặt hàng thuộc danh mục cấm xuất khẩu,
nhập khẩu, còn “tất cả hàng hoá đều được xuất, nhập khẩu và chịu điều tiết
bằng thếu theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trừ một số mặt hàng
thuộc danh mục còn chịu sự điều chỉnh bằng những biện pháp quản lý phi
thuế quan” (Điều 4 Nghị định 33/CP) áp dụng với các mặt hàng: hàng cấm
xuất, nhập khẩu, hàng quản lý bằng hạn ngạch, hàng chuyên dụng và hàng có
liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế.
Nghị định 33/CP ra đời đã mở rộng quyền tham gia kinh doanh cho tất
cả các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện mà Nhà nước đặt ra. Thứ nhất, các

doanh nghiệp có vốn lưu động bằng tiền Việt Nam tương đương 200.000
USD (với doanh nghiệp lưu thông), có ưu tiên cho các doanh nghiệp ở các
tỉnh miền núi hoặc khó khăn về kinh tế (100.000 USD), thứ hai, phải có đội
ngũ cán bộ có đủ trình độ kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương thì được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập
khẩu, ngoài giấy đăng ký kinh doanh bình thường.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được phép
tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Mặc dù thời kỳ này chưa có những cơ
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
13
chế khuyến khích xuất khẩu thích đáng. Các doanh nghiệp này chỉ được xuất
khẩu những sản phẩm hàng hoá do chính mình làm ra.
Việc xuất nhập khẩu do khu chế xuất thực hiện đã không được tính vào
kim ngạch xuất nhập khẩu chung của cả nước. Tuy những năm này, kim
ngạch xuất nhập khẩu của các khu chế xuất chưa đáng kể, nhưng theo thông
lệ ngoại thương quốc tế, kết quả xuất khẩu của khu vực này thuộc phạm vi
của xuất nhập khẩu.
Hoạt động gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài ngày
càng được phát triển. Riêng về gia công, hàng năm kim ngạch hàng gia công
của nước ta chiến không dưới 20% tổng kim ngạch, còn hoạt động đại lý cũng
đặt ra yêu cầu ngày càng bức xúc, song trong nhiều năm qua, các lĩnh vực
hoạt động này chưa có những quy chế điều hành một cách có hệ thống, nên
các doanh nghiệp cũng như các cấp quản lý còn nhiều lúng túng.
Bên cạnh những điểm tích cực, Nghị định 33/CP còn nhiều hạn chế và
trên thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường đã dần dần
bộc lộ những tồn tại. Đó là quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp bị hạn chế bởi những yêu cầu mang nặng tính thủ tục. Việc cấp giấy
phép xuất nhập khẩu theo quy định trên tuy có mặt tích cực nhất định trong

giai đoạn đầu để tiếp tục quản lý chặt chẽ hoạt động ngoại thương ở nước ta
nhưng tác động rõ nét nhất là gây phiền hà cho doanh nghiệp, phải mất nhiều
thời gian lo các thủ tục để được giấy phép xuất nhập khẩu, kể cả có nhiều
doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đối phó với các yêu cầu về vốn, về trình
độ cán bộ… Đồng thời cũng là điều kiện làm xuất hiện nhiều thủ tục hành
chính rườm rà, tạo kẽ hở cho sự hối lộ, tham nhũng phía người xin giấy phép
lẫn người cấp giấy phép.
Trước những vấn đề đó Nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài; Quyết định
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
14
55/QĐ-TTg ngày 03/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Danh mục hàng hoá xuất khẩu có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đã
giải phóng xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần
kinh tế và việc ban hành Quyết định 0321/1998/QĐ-BTM ngày 14/03/1998,
Quyết định 0625/1998/QĐ-BTM ngày 03/06/1998 của Bộ Thương mại về
xuất nhập khẩu, tiêu thu sản phẩm tại Việt Nam và gia công của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, là hết sức cần thiết và đáp ứng được những
nhu cầu rất bức xúc của thực tiễn.
Nghị định 57/CP đã quy định rộng hơn nhiều so với Nghị định 33/CP
trước đây và vấn đề quan trọng nhất là từ năm 1998, Nhà nước đã ban hành
Luật Thương mại Việt Nam điều chỉnh mọi hoạt động thương mại.
Tại Điều 5 – Luật Thương mại quy định thương nhân được hiểu “gồm cá
nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên”. Điều kiện để trở thành thương
nhân cũng hết sức đơn giản “ Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh

doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động
thương mại thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.” (Điều 17 – Luật Thương mại)
Đối với thương nhân Việt Nam, xuất nhập khẩu hàng hoá kể cả xuất
nhập khẩu uỷ thác và uỷ thác xuất nhập khẩu, được thực hiện theo giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh (Điều 3 – Nghị định 57) không cần phải xin giấy
phép xuất nhập khẩu qua Bộ Thương mại nữa. Các chi nhánh công ty, công ty
cũng được xuất nhập khẩu hàng hoá thích hợp, theo uỷ quyền của tổng giám
đốc, giám đốc doanh nghiệp. Những hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hoặc xuất
nhập khẩu có điều kiện sẽ do Chính phủ trực tiếp phê duyệt hoặc uỷ quyền
cho các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ
có thể quyết định tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu với một thị trường hoặc
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
15
với một số mặt hàng nhất định để thực hiện quyền tự vệ theo pháp luật và
thông lệ quốc tế.
Mọi thương nhân kinh doanh cùng ngành hàng đều được phép thành lập
hội liên hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo quy chế của Bộ
Thương mại.
Mọi thương nhân Việt Nam được phép nhận gia công cho thương nhân
nước ngoài, không hạn chế số lượng, chủng loại; những mặt hàng cấm xuất
khẩu, nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu được điều chỉnh thông
qua Bộ Thương mại, đồng thời được quyền gia công ở nước ngoài các loại
hàng hoá đã được phép lưu thông trên thị trường Việt Nam để kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp được
phép xuất khẩu, tiêu thụ những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất hoặc
không do doanh nghiệp sản xuất theo quy định của giấy phép đầu tư, trên tinh

thần mở rộng tối đa quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp FDI và khuyến
khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu đối với khu vực này.
2.2. Chính sách đa dạng hoá mặt hàng và thị trường.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) thông qua cương lĩnh xây dựng đất
nước trong 10 năm trong bối cảnh mới của đất nước và của thế giới. Đại hội
đã nhất trí với chủ trương “đa dạng hoá và đa phương hoá” các quan hệ đối
ngoại, thực hiện chính sách mở cửa để phát triển kinh tế, xuất nhập khẩu được
xác định là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình “Việt Nam làm bạn với tất
cả các nước”.
Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) đã đưa ra một nghị quyết riêng về
kinh tế đối ngoại theo hướng “xây dựng một nền kinh tế mở, hướng mạnh về
xuất khẩu”. Như vậy, từ đây chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
16
đã được khẳng định, điều này cũng đồng nghĩa với việc coi thị trường bên
ngoài là một động lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Nước ta tiếp tục mở rộng quan hệ buôn bán với tất cả các nước (không
phân biệt chế độ chính trị) theo phương thức đa dạng hoá và đa phương hoá
thị trường. Mở rộng thị trường mới, khai thông những thị trường cũ đã bị ách
tắc.
Ở giai đoạn này các chính sách nhằm vào đa dạng hoá các mặt hàng
xuất, khẩu khai thác tiềm năng các mặt hàng truyền thống và các mặt hàng
mới mà nước ta đang có lợi thế.
Trong những năm 1991-1995, nhờ chuyển hướng kịp thời sang thị
trường các nước trong khu vực, nước ta khắc phục được tình trạng hẫng hụt
khi mất thị trường các nước XHCN trước đây, nhờ đó hoạt động xuất nhập
khẩu vẫn đạt được mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác
nhau, nước ta lại bị rơi vào thế phụ thuộc nặng nề vào thị trường các nước

châu Á. Trong khi đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta với nhiều
nước trong khu vực lại tương đồng, các nước này chỉ nhập khẩu hàng hoá của
nước ta ở dạng thô để chế biến và tái xuất đi các thị trường khác nên hiệu quả
xuất khẩu của nước ta rất thấp. Mặt khác, nhập khẩu của nước ta từ các nước
này chưa phải là các công nghệ nguồn nên ảnh hưởng của nhập khẩu đến biến
đổi cơ cấu kinh tế còn rất hạn chế.
Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta kiên trì đường lối đa dạng
hoá và đa phương hoá thị trường, tìm cách để doanh nghiệp Việt Nam có thể
thâm nhập vào thị trường tiềm năng ở các khu vực địa lý khác nhau. Bên cạnh
việc tiếp tục khôi phục các thị trường truyền thống, Nhà nước đã quan tâm
đặc biệt đến các thị trường không đòi hỏi hạn ngạch và những thị trường ít
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua.
Nhà nước tăng cường vai trò của hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước
ngoài; ngoài việc cung cấp thông tin thường xuyên còn được giao nhiệm vụ
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
17
tìm kiếm thị trường, kể cả việc đăng ký chỉ tiêu xuất khẩu vào thị trường để
trực tiếp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu.
Những năm cuối của thập kỷ 90, nước ta đã tích cực nối lại các mối quan
hệ hợp tác toàn diện với các nước XHCN trước đây, đồng thời thúc đẩy việc
mở rộng thị trường sang các thị trường quan trọng như EU, Nhật, ASEAN…
Đặc biệt là việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã mở
ra một thị trường đầy tiềm năng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Về chính sách mặt hàng: Nhà nước bắt đầu chú ý đến việc xây dựng các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo mọi điều kiện đẩy mạnh sản xuất và xuất
khẩu tối đa các mặt hàng chủ lực như dầu thô, dệt may, thuỷ sản, gạo, cà phê,
giày dép, cao su, hạt điều, than đá, thủ công mỹ nghệ; đồng thời khuyến khích
mở rộng thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới như rau, hoa quả, thịt,

hàng chế tạo cơ khí, hàng điện tử – tin học…vào các thị trường truyền thống
như Liên bang Nga, cộng đồng các quốc gia độc lập SNG, Đông Âu và khu
vực, nhằm tạo cơ sở vững chắc cho tăng trưởng xuất khẩu.
Đối với những loại vật tư hàng hoá được đáp ứng chủ yếu từ nguồn sản
xuất trong nước như thép xây dựng, xi măng đen các loại, giấy viết, giấy
trong và giấy bao bì, đường kính, giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì
cùng Bộ Tài chính và các bộ sản xuất, Bộ Thương mại xác định nhu cầu nhập
khẩu bổ sung và xây dựng quy chế điều hành theo nguyên tắc: chỉ nhập khẩu
những vật tư, hàng hoá với chủng loại, quy cách sản phẩm trong nước chưa
sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu. Đối với loại trong nước chưa
sản xuất, sẽ điều tiết chủ yếu bằng thuế.
Hàng tiêu dùng nhập khẩu sẽ điều tiết chủ yếu bằng thuế và có điểm mới
là các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng phải cân đối ngoại tệ từ nguồn
thu của mình do xuất khẩu hoặc hoạt động dịch vụ mang lại.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
18
Đối với hàng quản lý chuyên ngành, sẽ rà soát để xử lý theo hướng giảm
hơn nữa danh mục và số lượng nhập khẩu.
Đồng thời tiếp tục đề nghị tăng thêm phụ thu đối với một số mặt hàng
như đò điện gia dụng, trái cây tươi, khô, mỹ phẩm… Ngoài các chính sách
chung, có chính sách và cơ chế điều hành tiêng cho từng nhóm mặt hàng tuỳ
theo đặc điểm của từng loại:
- Loại có thị trường tiêu thụ và có năng lực sản xuất trong nước được tập
trung ưu tiên khai thác hết tiềm năng cho sản xuất; đặc biệt lưu ý trước hết
đến các mặt hàng có kim ngạch lớn, thu hút nhiều lao động và có thể đẩy
nhanh được xuất khẩu như hàng dệt và may mặc, giày dép, thủy hải sản, hàng
thủ công mỹ nghệ… Chính sách chủ yếu đối với các mặt hàng này là đầu tư
cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm … để

một mặt củng cố vị thế ở các thị trường truyền thống, mặt khác rất quan trọng
là để tiếp cận và mở rộng xuất khẩu vào các thị trường không hạn ngạch và
các thị trường mới cũng có những lợi thế so sánh.
- Loại có thị trường tiêu thụ nhưng năng lực sản xuất trong nước có hạn
như gạo, dầu thô, cà phê…sẽ được tăng cường chính sách tiếp thị để nắm
chắc giá cả trong nước và trên thế giới, đồng thời nghiên cứu chính sách đầu
tư chế biến linh hoạt để tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm qua chế biến, thu lại
giá trị xuất khẩu cao hơn.
- Loại có năng lực sản xuất trong nước dồi dào nhưng còn thiếu “đầu ra”
do chưa tìm thấy thị trường hoặc do chủng loại, chất lượng chưa phù hợp
hoặc do phương thức thanh toán còn khó khăn, như lạc, dệt may, giày dép,
thuỷ hải sản, thịt chế biến, rau quả… sẽ cố gắng tìm thị trường, đổi mới công
nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng và tăng cường đàm phán ở các
cấp có thẩm quyền để cải thiện các thủ tục thanh toán hoặc áp dụng rộng hình
thức hàng đổi hàng…
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
19
Chính sách khuyến khích mở rộng thị trường và mặt hàng được ban
hành: Quyết định 746/QĐ-TTg ngày 24/08/1998 về lập quỹ thưởng xuất
khẩu. Theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Thương mại, doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thành tích xuất khẩu xuất sắc, hiệu
quả cao, đều được xét khen thưởng. Các tiêu chuẩn cụ thể để xét khen thưởng
được quy định cho các doanh nghiệp lần đầu tiên xuất khẩu những sản phẩm
sản xuất trong nước hoặc xuất sang các thị trường hoàn toàn mới mà có hiệu
quả; các doanh nghiệp mở rộng được thị trường truyền thống hoặc thị trường
mới với những mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá khuyến khích xuất khẩu,
có hiệu quả, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên 20%/năm; các
mặt hàng xuất khẩu đạt chất lượng cao được quốc tế công nhận; các doanh

nghiệp có kim ngạch xuất khẩu từ 10 triệu USD/năm trở lên đối với xuất khẩu
hàng gia công chế biến bằng nguyên vật liệu trong nước chiếm từ 60% trở lên
hoặc mặt hàng sản xuất trong nước thu hút nhiều lao động, như hàng thủ công
mỹ nghệ, nông, lâm, thuỷ, hải sản chế biến, hàng may mặc không hạn ngạch;
có kim ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng ngoài kim ngạch hoặc ngoài chỉ
tiêu được phân từ 50 triệu USD/năm trở lên…
Ngoài ra, Nhà nước sẽ dành một phần thích đáng cho các doanh nghiệp
có thành tích xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường không hạn ngạch
hoặc xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng phần lớn các nguyên, phụ liệu trong
nước. Đối với các mặt hàng nhập khẩu còn quản lý giấy phép, nói chung, Nhà
nước ưu tiên phân cho các doanh nghiệp có xuất khẩu để khích lệ họ đẩy
mạnh xuất khẩu, gắn xuất khẩu với nhập khẩu. Mặt khác đề nghị thực hiện
phụ thu và điều chỉnh mức phụ thu theo sự biến động của thị trường thế giới
và dùng nguồn thu này để góp phần hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp có
thành tích cao hoặc có nhiều nỗ lực để xuất khẩu được mặt hàng mới hoặc mở
thêm được thị trường mới.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
20
2.3. Thuế xuất, nhập khẩu có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện
hơn.
Thuế là một vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm chú ý.
Trong những năm qua, đi đôi với việc sửa đổi cơ chế quản lý ngoại tệ, xây
dựng một chính sách tỷ giá thích hợp, chính sách thuế xuất nhập khẩu cũng
được hết sức quan tâm. Hàng loạt những thay đổi, những quy định mới đã
được đưa ra để dần hoàn thiện theo hướng mở cửa, dần hội nhập vào nền kinh
tế thế giới và khu vực. Cụ thể như: lập lại danh mục hàng hoá theo cách phân
loại của thị trường quốc tế; quy định rõ những hàng hoá cấm nhập, cấm xuất,
những hàng hoá xuất nhập khẩu phải quản lý bằng hạn ngạch và các biện

pháp hành chính khác; dùng thuế làm công cụ chính để điều tiết xuất nhập
khẩu. Thuế suất được xây dựng tuỳ thuộc vào mức độ khuyến khích hay hạn
chế xuất nhập khẩu, vào mức chênh lệch giữa giá cả quốc tế với giá cả trong
nước. Thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý đối với sản xuất trong nước. Quy
chế ban hành thuế suất được thay đổi để có thể điều chỉnh kịp thời theo những
biến động của thị trường. Công tác hải quan cũng được tăng cường, phối hợp
với các Bộ ngành và với các nước có chung biên giới để chống buôn lậu, áp
dụng biện pháp truy thu thuế đối với hàng ngoại trốn thuế nhập khẩu lưu
thông trong nội địa.
Về chính sách cụ thể nhằm đổi mới và thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VI có nêu rõ: “Sửa đổi thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện
cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu được thuân lợi, kịp thời.
Nhà nước thu thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có hiệu suất thu
ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá đối với một số mặt hàng khác…
Ban hành chính sách thuế đối với hàng nhập khẩu theo hướng khuyến
khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng thiết bị, hạn chế việc nhập hàng tiêu
dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được”.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
21
Đối với thuế xuất nhập khẩu, ở Việt Nam từ năm 1979 với mười mức
thuế suất đối với 12 mặt hàng xuất khẩu và 28 mức thuế suất đối với mặt hàng
nhập khẩu hình thành nên một hệ thống thuế xuất nhập khẩu phức tạp, khó
quản lý về mặt vĩ mô.
Luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam được ban hành vào năm 1987 và
đã sửa đổi hoàn thiện 3 lần vào các năm 1991,1993 và 1998. Nhưng thực chất
Luật thuế ban hành năm 1987 đã được thay thế gần như toàn bộ bằng Luật
thuế năm 1991 với lý do quan hệ thương mại của thời điểm này khác hoàn

toàn so với năm 1987.
Lĩnh vực hoạt động buôn bán với các nước có chung biên giới cũng được
quy định cụ thể. Quyết định số 78/TTg ngày 28/02/1994 của Thủ tướng Chính
phủ quy định chấn chỉnh việc quản lý tình hình buôn bán giữa Việt Nam với
các nước có chung biên giới, thực hiện theo đúng Hiệp định thương mại đã ký
kết với các nước và tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt trong tình hình
kinh tế mới, để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, ngày
08/08/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/1998/QĐ-TTg sửa
đổi chế độ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiểu ngạch. Quyết định này bãi bỏ
chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch quy định tại Quyết định số
115/HĐBT ngày 09/02/1992 của Hội đồng Bộ trưởng, áp dụng chế độ thuế
hàng hoá xuất nhập khẩu chính ngạch đối với hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu
ngạch để thống nhất chế độ thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu; quản lý tốt hơn
hoạt động xuất nhập khẩu.
Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu cũng được lập lại cụ thể hơn, hoàn
thiện hơn, phù hợp với tình hình mới, với tiến trình hội nhập kinh tế. Năm
1992 theo Quyết định số 172/TCTK-QĐ ngày 01/1/1992, Tổng cục Thống kê
đã ban hành Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam trên cơ sở hệ
thống điều hoà (HS) của Hội đồng hợp tác Hải quan thế giới (CCC). Trong
bảng danh mục này, hàng hoá được phân theo phần, chương, nhóm, phân
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
22
nhóm và mặt hàng đến cấp mã 6 chữ số. Kể từ khi ban hành, bảng danh mục
đã phục vụ có kết quả cho nhiều mục đích trong đó có công tác xuất nhập
khẩu. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động thương mại quốc tế
nước ta trong quá trình đổi mới và việc nước ta trở thành thành viên ASEAN,
danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta cũng đã được hoàn thiện thêm
và phân loại chi tiết hơn. Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Văn bản

số 5469/KHTH ngày 29/09/1995), Tổng cục Thống kê cùng với Tổng cục Hải
quan và Tổng cục Thuế hoàn thiện bảng danh mục ở cấp mã 8 chữ số. Ngày
26/12/1995, Tổng cục Thống kê đã ban hành “Danh mục hàng hoá xuất nhập
khẩu Việt Nam” phân loại chi tiết đến cấp mã 8 chữ số theo Quyết định
324/TCTK-QĐ và được áp dụng kể từ ngày 01/01/1996. Nghị định này quy
định cụ thể về việc ban hành Danh mục hàng hoá của Việt Nam. Mức thuế
suất giảm dần đối với phần lớn hàng hoá tham gia chương trình CEPT.
Danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT, gồm danh mục
giảm thuế (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục nhạy cảm (SL)
và danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL).
- Các mặt hàng thuộc danh mục IL bắt đầu cắt giảm thuế từ 01/01/1996
và kết thúc với mức thuế suất 0-5% vào ngày 01/01/2001 đối với các mặt
hàng đang có thuế suất ≤ 20%, các mặt hàng có thuế suất > 20% phải giảm
xuống 20% vào 01/01/2001 sẽ phải giảm xuống 0-5% vào ngày 01/01/2003.
- Các mặt hàng thuộc danh mục TEL được chuyển sang IL trong vòng 5
năm kể từ ngày 01/01/1999 đến 01/01/2004 và thực hiện cắt giảm để đạt mức
thuế suất 0-5% vào năm 2006. Mỗi năm phải đưa 20% số mặt hàng từ TEL
sang danh mục IL.
- Các mặt hàng thuộc danh mục SL bắt đầu cắt giảm thuế từ 01/01/2004
và kết thúc vào năm 2013 với mức thuế suất cuối cùng là 0-5%.
Do nước ta có số lượng lớn hàng hoá có mức thuế suất từ 0-5% so với
các nước ASEAN nên từ tháng 12/1995 Việt Nam đã đệ trình cho ASEAN
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
23
danh mục hàng hoá thuộc diện cắt giảm thuế quan đầu tiên bao gồm 1633 mặt
hàng. Những mặt hàng được đưa vào danh mục này chủ yếu có mức thuế
quan thấp. Các năm 1996, 1997 đã đưa thêm các mặt hàng vào Danh sách cắt
giảm thuế nhưng vẫn chủ yếu là các mặt hàng sẵn có mức thuế quan thấp.

Chương trình cắt giảm thực sự được bắt đầu từ năm 1998 với số lượng
1719 mặt hàng.
Đến năm 2000, Việt Nam đã đưa khoảng 4200 dòng thuế vào cắt giảm
theo CEPT/AFTA.
- Cùng với quá trình cắt giảm thuế quan theo chương trình CEPT, giai
đoạn 1996-2000 nước ta đồng thời thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu hàng
hoá từ các nước EU theo thoả thuận Hiệp định đã ký kết giữa hai bên vào năm
1995.
- Đồng thời với việc thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan , nước ta đã
quan tâm đến những yêu cầu về kỹ thuật như điều hoà thống nhất danh mục
biểu thuế quan, điều hoà thống nhất hệ thống giá trị tính thuế quan .
- Đặc biệt để phù hợp với các quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ
tham gia, Quốc hội đã ban hành Quyết định số 4/1998/QH ngày 20/05/1998
về luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu. Trong đó:
+ Sửa đổi quy định về thuế suất ưu đãi: thuế suất ưu đãi được áp dụng
cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận về
đối xử MFN trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
+ Sửa đổi quy định về thuế suất thông thường: thuế suất thông thường
được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ nước hoặc khối nước không có thoả
thuận về đối xử MFN trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất
thông thường được quy định cao hơn thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
24
+ Bổ sung thuế suất ưu đãi đặc biệt: áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có
xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận ưu đãi đặc biệt trong quan hệ
buôn bán với Việt Nam.
+ Quy định thu thuế nhập khẩu bổ sung đối với ba trường hợp:

. Hàng hoá bán phá giá
. Hàng được nước xuất khẩu trợ cấp làm cho giá hàng nhập khẩu thấp
hơn giá của hàng cùng loại bán trong nước.
. Hàng nhập khẩu từ các nước có chính sách đặc biệt đối xử hàng nhập
khẩu có xuất xứ từ Việt Nam.
So trước, hệ thống thuế xuất nhập khẩu Việt Nam được đơn giản hoá qua
các năm thể hiện qua số lượng thuế suất giảm từ 38 mức năm 1995 xuống còn
26 mức năm 1996, 19 mức năm 1999 và năm 2000 còn 15 mức cơ bản. Mức
thuế suất cao nhất giảm từ 200% năm 1995 xuống còn 60% năm 1999. Mức
thuế trung bình tăng từ 12,8% năm 1995 lên 15,9% nhưng độ chênh lệch
chuẩn tính theo tỷ lệ của thuế suất trung bình giảm từ 131% năm 1995 xuống
117% năm 1999.
Biểu thuế xuất khẩu gồm 175 dòng, các mặt hàng xuất khẩu trong mục
thuế xuất khẩu thuộc 17 nhóm khác nhau. Mức thuế xuất khẩu cao đối với
mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế và mức thuế thấp đối với mặt hàng sử dụng
nhiều lao động, chế biến sâu. Chẳng hạn, mức thuế xuất khẩu đối với mặt
hàng gỗ: 20% đối với gỗ cây, 15% đối với gỗ cột.
Ngoài biểu thuế xuất khẩu và nhập khẩu, nước ta còn dùng biện pháp
phụ thu đánh vào một số mặt hàng xuất nhập khẩu như xăng dầu, một số loại
sắt thép, phân bón, cà phê, điều thô và cao su. Chế độ phụ thu lúc thì áp dụng,
lúc thì bỏ và mức phụ thu cũng thường xuyên thay đổi.
Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần
đây
Đỗ Thuý Hằng – P2-K38E
25
2.4. Nhà nước tiến hành nới lỏng kiểm soát hành chính đối với hoạt
động xuất nhập khẩu và các biện pháp hạn chế số lượng.
Với sự đổi mới tư duy của Đảng và Nhà nước, thực hiện mở cửa nền
kinh tế trong đó có hoạt động ngoại thương, Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách khác nhau tạo điều kiện vừa thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu

vừa thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước theo định hướng đã vạch ra.
Một trong những chính sách đó là chính sách phi thuế quan.
Trong giai đoạn 1986-1990, chính sách phi thuế quan của Việt Nam vẫn
chưa rõ nét bởi hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là doanh
nghiệp nhà nước, hoạt động theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Những chỉ
tiêu này là chỉ tiêu pháp lệnh buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Từ việc
doanh nghiệp nào được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu mặt
hàng gì, tại thị trường nào, số lượng bao nhiêu, bán cho ai đến vốn kinh doanh
đều do Nhà nước chỉ định, cung cấp, lãi thì Nhà nước thu, lỗ thì Nhà nước bù.
Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu.
Tuy nhiên đến giai đoạn từ 1990-1995, ở Việt Nam, các doanh nghiệp
muốn kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải có giấy phép kinh doanh và giấy
phép xuất nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp mới được quyền kinh doanh.
Giáy phép này được cấp trên cơ sở các doanh nghiệp được thành lập theo
Nghị định 388/CP, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Công ty chứng nhận
pham vị kinh doanh những mặt hàng với nước ngoài. Bộ Thương mại chỉ cấp
giấy phép xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu những mặt
hàng trong phạm vi hạn ngạch quy định, còn những mặt hàng ngoài hạn
ngạch thì các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ việc đăng ký tại Bộ
Thương mại mà không hạn chế số lượng cũng như về chất lượng.
Nhằm đơn giản hoá thủ tục và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, ngày
15/12/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/CP cho phép bãi bỏ thủ

×