Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Lạm phát và các giảI pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.36 KB, 31 trang )


A.Lời mở đầu
Sự vận động và diễn biến của sức mua tiền tệ trên thị trường luôn
luôn là tấm gương phản ánh một cách đầy đủ nhất thực trạng kinh tế xã hội
của đất nước trong từng thời kỳ phát triển. Vì thế, sức mua của tiền tệ và sự
ổn định của nó luôn là một nhiệm vụ kinh tế quan trọng bậc nhất và cũng là
nhiệm vụ chính trị mà các nhà chức trách của bất kỳ đất nước nào cũng phảI
đặc biệt quan tâm. Cũng bởI vì thế mà vấn đề lạm phát, chống lạm phát, kiềm
chế và kiểm soát lạm phát là một trong những vấn đề đầu tiên trong việc
hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Và cũng là vấn đề mà các
nhà khoa học, nhà nghiên cứu và các nhà quản lý dày công nghiên cứu và có
nhiều tranh cãi. Lạm phát, nó luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó kích thích
tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, khi lạm phát cao và không kiểm soát được thì
nó để lạI hậu quả nghiêm trọng đốI vớI nền kinh tế, cũng như xã hội. Vấn đề
đặt ra là phảI giữ lạm phát ở mức nào là phù hợp để đạt mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao. Và khi lạm phát bùng nổ thì những biện pháp nào là hữu
hiệu để khống chế và kiểm soát nó.
Bởi vai trò quan trọng của lạm phát đối với nền kinh tế, nên em đã
chọn đề tài: “Lạm phát và các giảI pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
hiện nay” để nghiên cứu. Đây là một vấn đề kinh tế phức tạp và có nhiều
quan điểm khác nhau. VớI thời gian và khả năng hạn chế, em mong nhận
được sự góp ý chân thành của thầy và các bạn để bài nghiên cứu của em
được hoàn thiện hơn.
1
B. NộI dung
I. Cơ sở lý luận
1. Lý luận chung về lạm phát
1.1. Thế nào là lạm phát:
Lạm phát đã được đề cập rất nhiều trong các công trình nghiên cứu
của các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình, các nhà kinh tế đưa ra các khái
niệm về lạm phát.


Theo Các Mác trong bộ tư sản: Lạm phát là việc làm tràn đầy các kênh,
các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông
cho rằng lạm phát là bạn đường của Chũ nghĩa Tư bản (CNTB). Ngoài việc
bóc lột ngườI lao động bằng giá trị thặng dư, CNTB còn gây ra lạm phát để
bóc lột ngườI lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của
người lao động giảm xuống.
Theo nhà kinh tế học Samuelson thì: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên
trong mức giá cả chung. Theo ông thì: “ Lạm phát xảy ra khi mức chung của
giá cả và chi phí tăng lên. Giá bánh mỳ, dầu, xăng, xe ôtô tăng…”
Còn theo Milton Friedman thì quan niệm: “Lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài”. Ông còn cho rằng: “Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là
một hiện tượng tiền tệ”. Ý kiến này đã được sự tán thành của đa số các nhà
kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes.
Ngày nay, lạm phát thường được hiểu là: “Sự gia tăng liên tục của
mức giá cả chung theo thời gian. Hay là sự sụt giảm liên tục của sức mua
đồng tiền trong một khoảng thời gian”. Và mức giá chung của nền kinh tế
thường được xác định qua việc đo lường chỉ số giá tiêu dùng (CPI). CPI tính
chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường. Các nhóm chính
đó là: Hàng lương thực, thực phẩm, nhà cửa, chất đốt, vật tư y tế. Để tính
2
CPI ngườI ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi
tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát.
1.2. Quan điểm của các trường phái khác nhau về lạm phát:
Do quan điểm nhìn nhận khác nhau về nguyên nhân và hậu quả của
lạm phát gắn liền vớI vấn đề chung của sự phát triển và kém phát triển của
nền kinh tế, cũng như các yếu tố về thể chế, chính sách.. Vì thế, mà có các
trường phái khác nhau về lạm phát. Trong đó có một số quan điểm chính sau:
1.2.1. Lý thuyết cơ cấu về lạm phát:
Theo quan điểm của trường phái này thì, nguyên nhân của lạm phát là
do sự mất cân đốI về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phốI gây ra tăng giá.

Và họ cũng cho rằng: Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng
trưởng kinh tế cao nhưng lạI tồn tạI nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém.
Lạm phát cơ cấu có thể viết dướI dạng phương trình sau:
l = α.d/GDP +β. Log (GDP)+δ.log(e)+γ.
Trong đó: d là mức thâm hụt ngân sách nhà nước
e là tỷ giá hốI đoái.
l là tỷ lệ lạm phát.
Có thể giảI thích cụ thể như sau:
- Mất cân đốI giữa cung và cầu lương thực, thực phẩm do quá trình đô
thị hoá, những ngườI sống ở đô thị có thu nhập cao và ngày càng đông nên
nhu cầu lớn. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp lạI chưa được quan tâm
phát triển đúng, nên cung lạI bị hạn chế. Kết quả đẩy giá lên cao.
- Mất cân đốI cung- cầu ngoạI tệ do nhà nước nhập nhiều hơn xuất
dẫn đến cán cân thanh toán quốc tế của những nước này lâm vào tình trạng
khó khăn và buộc họ phá giá đồng tiền. Dẫn đến, lạm phát tăng lên.
- Kinh tế tăng trưởng nhanh lạI đòi hỏI nguồn vốn lớn. Nhưng nguồn
vốn trong nước lạI hạn chế, thu ngân sách có hạn, chi nhiều. Nên nhiều nước
3
đã phát hành tiền cho ngân sách đảm bảo chi và đây cũng là nguyên nhân
dẫn đến lạm phát.
Đây là quan điểm xuất phát từ các nước đang phát triển nghiên cứu.
Nên, nó chủ yếu dựa trên đặc điểm các nước đang phát triển để đưa ra kết
luận của mình. Chẳng hạn như các đặc điểm: Cơ cấu thị trường chưa hoàn
chỉnh, các nguồn vật liệu có giới hạn, năng lực sản xuất không khai thác
hết…Và đã đưa ra những nguyên nhân của lạm phát, nhưng lạm phát không
đơn thuần như vậy. Nó xuất phát từ nhiều yếu tố và nó cũng cộng hưởng của
nhiều yếu tố mà thành. Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh phát triển của mỗI
nước mà có nguyên nhân, đặc điểm riêng hình thành nên lạm phát, cũng có
những biện pháp kiểm soát riêng. Chẳng hạn như: Tăng xuất khẩu, hạn chế
chi tiêu chính phủ khai thác hết mọI tiềm lực.

1.2.2. Trường phái tiền tệ:
Trường phái này cho rằng, lạm phát là một hiện tượng thuần tuý tiền
tệ, giá tăng lên ít nhiều là do cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Theo
quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có một lượng tiền bơm vào lưu
thông lớn hơn khốI lượng cần thiết cho lưu thông tiền tệ. Thường là ngân
hàng nhà nước cung ứng để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước và mở
rộng tín dụng cho ngân hàng thương mại. Do đó, ngoài thị trường, cung tiền
tệ lớn hơn cầu tiền tệ và khan hiếm hàng hoá, dẫn đến lạm phát.
Lạm phát tiền tệ được viết dướI dạng phương trình:
L=m – g
m là tốc độ tăng trưởng kinh tế.
g là tốc độ tăng GDP thực.
Tuy nhiên, trong dài hạn thường dùng phương pháp xấp xỉ:
L = α.m+β.g+δ (với β<0).
Các nhà tiền tệ cũng không phản đối những mất cân đối của nền kinh
tế tác động gây cho giá tăng lên. Nhưng họ lý giảI rằng chung qui vẫn là do
4
lượng cung tiền tệ vượt quá cầu. Nếu không có hiện tượng cung tiền tệ tăng
lên thì cầu hàng hoá sẽ bị khống chế lại và giá cũng không tăng lên do đã tạo
ra được một sự cân bằng thị trường mới ở mức cung tiền tệ và hàng hoá giới
hạn.
Hiện nay, ngườI ta thống nhất làm phát là một căn bệnh tiềm ẩn của
mọI nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Lạm phát xuất hiện khi mất cân đốI
giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và mất cân đốI giữa cung- cầu tiền tệ.
1.3. Thước đo của lạm phát.
Khi muốn nói đến thước đo của lạm phát, tưc là nói đến mối quan hệ
giữa lạm phát và chỉ số giá. Nhưng trong thực tế, việc dùng chỉ số giá để đo
lạm phát thường không được chính xác, bởi nó luôn luôn có khuynh hướng
phóng đạI lạm phát thực do giá bán lẻ nó không phản ánh đầy đủ sự cảI thiện
chất lượng sản phẩm, không phản ánh sự cảI tiến kỷ thuật. Vì thế, cần

nghiên cứu chính xác sao cho sự sai lệch là ít nhất.
Cho đến nay việc tính tỷ lệ lạm phát còn có nhiều vấn đề phảI bàn
nhưng có thể tính theo công thức sau
L
t
= Trong đó: L
t
: tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
t : giai đoạn tính lạm phát
p
t
:tổng giá cả giai đoạn t
p
t-1
: tổng giá cả giai đoạn t-1
Có 1 số phương pháp tính tổng mức giá:
1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
2. Chỉ số giảm phát GDP
3. Chri số giá sản xuất: PPI
Trong đó, chỉ số tiêu dùng CPI là chỉ số quan trọng mà một số nước
thường lấy để đo tỷ lệ lạm phát và được xem là để đo lường chi phí liên quan
đến rổ hàng hoá và dịch vụ cụ thể được ngườI lao động mua. Công thức
5
n
CPI =
Cách tính chỉ số CPI không phảI cộng tất cả các giá cả lạI và chia cho
tổng khốI lượng hàng hoá mà cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng
của nó trong nền kinh tế. Còn chỉ số giảm phát GDP được coi là chỉ số phản
ánh bình quân giá của tất cả hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. Nên,
chỉ số này được coi là toàn diện hơn chi số giá tiêu dùng CPI và bao quát hết

tất cả các loạI hàng hoá dịch vụ.
L
GDP
= =
Trong thực tế, các nước lấy chỉ số CPI là cơ sở để xem xét mức giá
tăng lên trong nền kinh tế. Các chỉ số khác cũng quan trọng nhưng áp dụng
có chừng mực.
1.4. Hậu quả của lạm phát:
Lạm phát thường được chia làm 3 loại:
- Lạm phát chấp nhận được: Là lạm phát một con số.
- Lạm phát cao: Lạm phát hai con số đến 50%: Đây là mức lạm phát
báo động gây hậu quả xấu không chỉ cho nền kinh tế và cả xã hộI
- Lạm phát phi mã: Trên 50%: Đây là mức lạm phát phá vỡ hoàn toàn
mọI cân đốI và hệ thống tài chính- tiền tệ rốI loạn, kinh tế xã hộI có nhiều báo
động xấu.
Về mặt lý thuyết thì: Nếu lạm phát ở mức có thể dự đoán thì có thể
tránh được những hậu quả xấu có thể xảy ra. Còn nếu không thể dự đoán,
6
P
it
: giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn t
P
i0
: giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở
q
i0:
tổng lượng hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở

n
I=1

P
it
q
it
n
I=1

P
i0
q
it

n
I=1
P
it
q
it
n
I=1

P
i0
q
it

I=1
P
it
q

i0
n
I=1

P
i0
q
i0
thì hậu quả sẽ là ghê gớm và khó có thể lường trước được. Nó được thể
hiện ở:
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế: Khi lạm phát xảy ra
nó sẽ lam lệch lạc cơ cấu giá, kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nguồn
nhân lực không được phân bố hiệu quả, kết cục làm cho tăng trưởng chậm.
- Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu
tư dài hạn: Khi không dự đoán được lạm phát dẫn đến không dự đoán được
lãi suất thực, thì nhà đầu tư sẽ không mong muốn đầu tư. Mặt khác, khi
không chắc chắn mức độ lạm phát thì chủ nợ sẽ đẩy lãi suất thực lên cao để
đảm bảo cho mức rủI ro lớn, dẫn đến kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ
tăng trưởng.
- Lạm phát làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và càng làm cho
lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn. Vì khi đó: Dân chúng sẽ
không gửI tiền tiết kiệm để hưởng lãi hay đầu tư kiếm lợI nhuận mà họ sẽ
mua hàng hoá tích trữ.
- Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hộI của quốc gia: Vì khi lạm phát cao, sức mua đốI nộI của đồng tiền giảm
sút, lòng tin của dân chúng cũng như các nhà đầu tư vào sự ổn định giá trị
đồng tiền, vào hệ thống ngân hàng và cao hơn nữa vào chính phủ sẽ bị xói
mòn.
- Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà
nước: Được xét trên hai phương diện: Một mặt, lạm phát cao dẫn đến sản

xuất đình đốn làm cho nguồn thu ngân sách giảm cả qui mô và chất lượng.
Mặt khác, lạm phát cao đồng nghĩa vớI đồng tiền bị mất giá. Do vậy, cùng
một khốI lượng tiền thu từ thuế dẫn đến giá trị thực giảm.
Tóm lạI, hậu quả của lạm phát là to lớn, có sức tàn phá ghê gớm, tác
động xấu đốI vớI nền kinh tế, xói mòn vấn đề xã hộI và có thể công phá cả
vào sự ổn định của chính trị. Do vậy: Mục tiêu hàng đầu trong chính sách kinh
tế vĩ mô của các quốc gia là: Ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát.
7
2. Lạm phát vớI các biến số vĩ mô trong nền kinh tế:
2.1. Lạm phát và tăng trưởng:
Theo các nhà kinh tế,sau khi đã thí nghiệm nhiều nền kinh tế trên thế
giớI cho thấy lạm phát và tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ thuận khi tỷ lệ lạm
phát ở mức thấp có thể chấp nhận được và ổn định. Còn khi tỷ lệ lạm phát
cao và không ổn định thì mốI quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng trở thành
mốI quan hệ tỷ lệ nghịch. Đây là biểu hiện rõ nhất tính hai lưỡI của lạm phát.
Khi lạm phát ở mức thấp và ổn định thì nó được coi là yếu tố tích cực
để thúc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Vì lạm phát sẽ làm tăng tiết kiệm và
đầu tư do chuyển thu nhập từ những ngườI làm công ăn lương sang thu
nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng
làm tăng khoản tiết kiệm từ lợI nhuận cao hơn, tăng khoản tiết kiệm từ tiền
lương. Mức đầu tư và tiết kiệm sẽ tăng lên. Kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế.
Còn khi lạm phát ở mức cao và luôn biến đổI thì đầu tư khu vực ngoài
quốc doanh sẽ dồn sang đầu tư thu lợI nhuận nhanh và giảm đầu tư dài hạn.
Do đó, chất lượng đầu tư giảm sút. Hơn nữa, khi lạm phát cao một mặt, vốn
trong nước dư thừa nhưng ít có đầu tư dài hạn vì rủI ro lớn. Mặt khác, vốn
ngoài nước sẽ khan hiếm do không có đầu tư nước ngoài lạI mạo hiểm đầu
tư vào. Đồng thờI, sự mất giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ gia hốI đoái tăng, trong khi
nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm dẫn đến làm cán cân thương mạI bị thâm
hụt trầm trọng. Kết quả làm cho nền kinh tế bị rốI loạn làm cho tăng trưởng

kinh tế giảm sút.
Đồng thờI, nếu lạm phát quá thấp: Ở mức bằng không hoặc âm và kéo
dài thì nguy cơ tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp cũng có thể xảy ra, dẫn đến trì
trệ của nền kinh tế. BởI vì, khi lạm phát xuống quá thấp thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế sẽ chậm lạI và thất nghiệp có thể tăng ở các nước đang phát triển,
nếu lạm phát xuống thấp thì biểu hiện dấu hiệu cắt giảm chi tiêu, thắt chặt
8
tiền tệ, làm vốn đầu tư hạn chế, nên các nhà sản xuất khó có thể đầu tư mở
rộng năng lực sản xuất và cuốI cùng khi năng lực sản xuất không tăng, sản
xuất đình đốn thì tăng trưởng của nền kinh tế cũng giảm theo và đây là thờI
kỳ nền kinh tế trì trệ, thụt lùi.
2.2. Lạm phát vớI đầu tư và thu chi ngân sách nhà nước:
Ở trên chúng ta đã nói về những nguyên nhân chung gây ra lạm phát.
Vì thế, khi xét mốI quan hệ giữa lạm phát vớI đầu tư và thu chi ngân sách nhà
nước chúng ta sẽ hiểu hơn một phần nào căn nguyên gây ra lạm phát.
Trước hết, xét mốI quan hệ đầu tư và lạm phát: Đầu tư và lạm phát có
mốI quan hệ khăng khít vớI nhau. Nếu không tăng đầu tư sẽ dẫn đến tăng
trưởng kinh tế chậm và tỷ lệ lạm phát cũng giảm. Việc đầu tư nó tác động
trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Khi đầu tư kém thì việc mở rộng năng lực
sản xuất kém dẫn đến nền kinh tế tăng trưởng kém. Còn nếu tăng đầu tư qúa
mức và nếu đầu tư không hiệu quả thì cũng dễ dẫn đến lạm phát.
Một trong những yếu tố để khuyến khích đầu tư phát triển là sự ổn định
nền kinh tế. Mặt khác, ta cũng thấy rằng: Nguồn đầu tư lớn đó là thu ngân
sách nhà nước. Vì trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước thì đầu tư tăng
chiếm tỷ trọng lớn. Vậy, thu chi ngân sách nhà nước tác động đến đầu tư và
cũng tác động đến lạm phát. Vì thế, ngân sách nhà nước có mốI quan hệ
nhân quả vớI lạm phát. Nếu thâm hụt ngân sách nhà nước quá mức có thể
dẫn đến lạm phát cao, để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước thì thường
thực hiện việc phát hành tiền. Mà việc bơm vào lưu thông một lượng tiền lớn
thì đó là yếu tố dẫn đến lạm phát. Còn ngược lạI, nếu thắt chặt chi tiêu ngân

sách nhà nước tránh thâm hụt thì có thể dẫn đến thiểu phát và không giảI
quyết được các vấn đề xã hộI cần thiết. Còn nếu tăng chi ngân sách nhà
nước để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư tăng
và tăng đầu tư phát triển dẫn đến tăng trưởng cao. Nếu chi quá mức dẫn đến
thâm hụt trở lạI vòng luẩn quẩn trên. Do vậy, cần chi tiêu ngân sách nhà
9
nước một cách hiệu quả và phù hợp để đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và
lạm phát thấp.
2.3. Lạm phát vớI việc làm:
Một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trong mà đa số chính phủ
các nước theo đuổI cũng thường gây nên lạm phát, đó là mục tiêu công ăn
việc làm cao. Như chúng ta đã biết: Sức lao động là hàng hoá thì thất nghiệp
là một căn bệnh kinh niên. Và để đạt được mục tiêu trên thì chính sách tiền tệ
hướng vào tác động đến đầu tư sản xuất, mở rộng hoạt động kinh tế, chống
suy thoái để đạt được mức tăng trưởng ổn định. Khi xem xét tổng quát thì
giữa lạm phát, tăng trưởng kinh tế, và việc làm có mốI quan hệ tỷ lệ nghịch.
Đó là:
- Khi khống chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế
giảm, dễ dẫn đến suy thoái và thất nghiệp
- Ngược lạI, khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái, tạo việc làm và
tăng trưởng kinh tế thì lạI khó khống chế lạm phát.
Các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng nền kinh tế thị trường luôn có
những thăng trầm, biến động mang tính chu kỳ của nó: Từ tăng trưởng kinh
tế quá mức đến lạm phát, rồI từ lạm phát nền kinh tế dễ rơi vào ngưng trệ, rồI
suy thoái, rồI lạI phục hưng và phục hưng lạI trở nên tăng trưởng mạnh.
Vì thế, vấn đề đặt ra đốI vớI từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ
phảI tìm giảI pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà
được các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nhà nước.
2.4. Lạm phát vớI sản xuất và thương mạI:
Như đã phân tích ở mục trên, một trong những nguyên nhân chung gây

ra lạm phát là: Mất cân đốI giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá. Mà nguyên
nhân gây ra mất cân đốI đó là quá trình sản xuất và lưu thông. Đồng thờI, lạm
phát nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất và thương mại. Vì thế,
lạm phát với sản xuất và thương mạI có mốI quan hệ chặt chẽ.
10
Khi sản xuất trì trệ có hai khả năng: Lạm phát cao hoặc thiểu phát, bởi
lẽ lúc này mất cần bằng trầm trọng giữa cung cầu. Cầu cao hơn cung dẫn
đến lạm phát, cầu thấp hơn cung gây ra bảo hoà và thiểu phát. Đồng thời, khi
sản xuất trì trệ nó tác động trực tiếp đến thu ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, thì khi hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ, đặc
biệt là xuất khẩu làm cho nền kinh tế lành mạnh và tăng trưởng tốt, đưa đến
nền kinh tế ổn định và giúp làm cho tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức chấp
nhận được. Còn khi nền kinh tế chủ yếu nhập khẩu thì sẽ làm thâm hụt cán
cân thanh toán quốc tế dẫn đến lạm phát.
Tóm lạI, để khống chế được lạm phát ở mức hợp lý và hạn chế được
thiểu phát thì phảI đẩy mạnh sản xuất đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
đặc biệt là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm. BởI vì nó chiếm tỷ
trọng lớn trong chỉ số giá tiêu dùng.
2.5. Lạm phát vớI lãi suất:
Như chúng ta đã biết, lãi suất là giá tiền tệ, lạm phát là sự mất giá của
tiền tệ. Vì thế, khi sử dụng đồng tiền một thờI gian nhất định nào đó phảI cho
ngườI ta nhận được lợI nhuận tính theo đồng tiền tức là lãi suất trừ đi lạm
phát phảI là con số dương nào đó thì mớI có thể nói sử dụng đồng tiền có
hiệu quả. Nói cách khác, lãi suất dương là sự bảo toàn giá trị đồng tiền và lãi
suất dương là giá thực tế của đồng tiền. Khi lãi suất thấp, tương ứng vớI
chính sách tiền tệ mở rộng. Theo hướng này, chính sách tiền tệ nhằm tăng
lượng cung tiền, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc
làm. Khi đó tổng cung tiền tệ cao hơn tổng cầu tiền tệ, và tổng cầu hàng hoá
dịch vụ tăng lên, dẫn đến tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu. Kết quả
này làm giá cả hàng hoá dịch vụ tăng vọt và nếu tiến trình này đồng loạt xảy

ra thì kéo theo lạm phát.
Còn khi lãi suất tăng lên thì đồng nghĩa vớI việc đồng tiền được coi
trọng hơn hay tổng cung tiền tệ thấp hơn tổng cầu tiền tệ. Nhưng nếu lãi suất
11
tăng quá cao thì hiệu quả hay lợI nhuận do đồng tiền tạo ra sẽ thấp đi và nhu
cầu sử dụng đồng tiền sẽ giảm. Và ít ngườI muốn đầu tư. Nó được sử dụng
là công cụ chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu chống lạm phát và khắc
phục tình trạng ”quá nóng” của nền kinh tế.
2.6. Lạm phát vớI tín dụng:
Trong mốI quan hệ này, cái mà chúng ta quan tâm là vấn đề tăng cung
tiền là tác nhân quan trọng gây nên lạm phát. Khi cung ứng tiền tệ tăng, tức là
tổng phương diện thanh toán tăng lên do nhà nước phát hành thêm tiền và
do hệ số tạo tiền tăng lên. Thực tế, tiền cung ứng tăng lên sẽ dẫn đến tăng
tín dụng cho nền kinh tế, tăng cho vay chính phủ nên làm tổng phương diện
thanh toán tăng lên. Mà khi tổng phương diện thanh toán tăng mà không có
hàng hoá và dịch vụ tăng lên tương thích thì đưa đến cung tiền tệ lớn hơn
cầu tiền tệ, kết quả của vấn đề này là giá cả tăng lên và dẫn đến lạm phát.
Đồng thờI, hạn mức tín dụng là mức dư nợ tốI đa mà ngân hàng nhà
nước buộc các ngân hàng thương mạI phảI tôn trọng khi cấp tín dụng cho
nền kinh tế. Nó được sử dụng là một công cụ điều tiết trực tiếp lượng tiền
cung ứng. Và nó thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm
khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.
2.7. Lạm phát vớI tỷ giá hốI đoái:
Khi nghiên cứu các chính sách kinh tế mà nhà nước đã điều hành và
sử dụng trong hơn 20 năm đổI mớI của đất nước, thì có thể nói việc điều
hành, cảI cách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là một thành công lớn, vì nó phù
hợp với quá trình cảI cách nền kinh tế nói chung và quá trình cảI cách nền tài
chính tiền tệ nói riêng. Chính sách tỷ giá hối đoái đã góp phần kiềm chế lạm
phát , thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cảI thiện cán cân thanh toán quốc
tế, góp phần loạI trừ tách động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á.

Lạm phát và tỷ giá có quan hệ vớI nhau, nhưng là quan hệ gián tiếp có
độ trễ nhất định, cho nên sự thay đổI của lạm phát chưa gây tác động đến tỷ
12

×