Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn " GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN TTTT VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.21 KB, 104 trang )



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
TTTT VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG
TIỀN TỆ QUỐC TẾ
MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTTT 1
I/ Tổng quan về TTTT 1
1. Khái niệm TTTT 1
2. Chức năng, vai trò và đặc điểm của TTTT 1
2.1_Chức năng của TTTT 1
2.2_Vai trò của TTTT 2
2.3_Đặc điểm của TTTT 3
3. Phân loại TTTT 4
3.1_Căn cứ vào đối tượng giao dịch 4
3.1.1_TTTT sơ cấp 4
3.1.2_TTTT thứ cấp 4
3.2_Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch 5
3.2.1_TTTT liên ngân hàng 5
3.2.2_TTTT mở rộng 5
3.3_Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá giao dịch 6
3.3.1_Thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn 6
3.3.2_Thị trường giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn 6
4. Chủ thể của TTTT 7
4.1_Ngân hàng Trung Ương 7
4.2_Ngân hàng thương mại 8


4.3_Kho bạc Nhà nước 8
4.4_Người đầu tư 9
4.5_Người môi giới và kinh doanh 9
5. Các công cụ trên TTTT 10
5.1_Tín phiếu kho bạc 10
5.2_Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng 10
5.3_Thương phiếu 10
5.4_Chấp phiếu ngân hàng 11
5.5_Hợp đồng mua lại 11
5.6_Eurocurrency 12
II/ Tổng quan về TTTT Quốc tế 13
1. Khái niệm TTTT Quốc tế 13
2. Đặc trưng của TTTT Quốc tế 14
3. Ưu và nhược điểm của TTTT Quốc tế 15
3.1_Ưu điểm 15
3.2_Nhược điểm 16
4. Công cụ trên TTTT Quốc tế 17
4.1_Tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency 17
4.2_Chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng 18
4.3_Chứng chỉ và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi 18
4.4_Khả năng phát hành chi phiếu 19
4.5_Hoạt động ngân hàng hải ngoại của ngân hàng nội địa 19
4.6_Hợp đồng tương lai bảo hiểm rủi ro lãi suất 19
4.7_Các hợp đồng kì hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất 20
CHƯƠNG II: TTTT VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP TTTT QUỐC TẾ 21
I/ Thực trạng TTTT Việt Nam 21
1. Quá trình hình thành và phát triển của TTTT Việt Nam 21
2. Tình hình TTTT Việt Nam 22
2.1_Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng 22

2.2_TTTT liên ngân hàng 28
2.3_Thị trường tín phiếu kho bạc 33
II/ Tác động của các diễn biến trên TTTT Quốc tế đến TTTT
Việt Nam 35
1. Tác động của chính sách lãi suất 35
2. Tác động của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 38
3. Tác động của sự ra đời đồng Euro 40

III/ Đánh giá về mức độ phát triển và hội nhập Quốc tế của TTTT
Việt Nam 42
1. Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách 42
1.1_Môi trường pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên TTTT 42
1.2_Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với TTTT 44
2. Các công cụ trên TTTT 45
2.1_Tín phiếu kho bạc 45
2.2_Tín phiếu NHNN 46
2.3_Các giấy tờ có giá ngắn hạn do TCTD phát hành 47
2.4_Thương phiếu 49
2.5_Hợp đồng mua lại 49
3. Cơ chế lãi suất 50
4. Mức độ hội nhập của TTTT Việt Nam 57
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN TTTT VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TTTT QUỐC TẾ 60
I/ Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc phát triển
và hội nhập TTTT Việt Nam trong thế kỉ 21 60
II/ Các yêu cầu đặt ra đối với việc hội nhập TTTT 64
III/ Các giải pháp nhằm phát triển TTTT Việt Nam trong điều kiện hội
nhập TTTT Quốc tế 65
1. Các giải pháp về môi trường pháp lý và cơ chế chính sách 65
1.1_Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của TTTT 66

1.2_Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ 67
2. Các giải pháp về cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của TTTT 68
2.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp, hình thành và phát triển TTTT thứ cấp 68
2.1.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp 68
2.1.2_Hình thành và phát triển TTTT thứ cấp 68
2.2_Hoàn thiện các loại hình TTTT hiện có ở nước ta hiện nay 70
2.2.1_Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng truyền thống 70
2.2.2_Hoàn thiện TTTT liên ngân hàng 73
2.2.3_Hoàn thiện thị trường mua bán các loại chứng khoán
ngắn hạn 74
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên 78
3.1_Ngân hàng Nhà nước 78
3.2_Ngân hàng thương mại 80
3.3_Tổ chức môi giới 81
3.4_Công ty tài chính 82
4. Đa dạng hoá và phát triển các công cụ mới của TTTT 82
4.1_Các hợp đồng mua lại 83
4.2_Các công cụ khác 84
5. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực 84
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1. Khái niệm TTTT:
TTTT là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mà mọi chủ thể kinh tế đều có thể
tham gia giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn hoặc mua bán các công cụ nợ
ngắn hạn theo cơ chế thị trường.

Các công cụ nợ ngắn hạn trên TTTT bao gồm: tín phiếu kho bạc, tín phiếu
ngân hàng, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi,… chúng có độ rủi ro thấp, tính
lỏng cao và được giao dịch với thời hạn từ 1 năm trở xuống cho đến qua đêm
(cũng có nước qui định tới 2-3 năm trở xuống, nhưng phổ biến là dưới 1 năm)
và nó luôn đổi mới với những công cụ nợ ngắn hạn mới, có hiệu quả.
Theo nghĩa này thì thị trường tiền tệ là giai đoạn phát triển cao hơn của thị
trường tiền gửi truyền thống (hay thị trường tín dụng) giữa các ngân hàng với
khách hàng của họ. Thị trường tiền tệ có tính đa biên và công khai hơn so với thị
trường tín dụng, nơi quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là song biên, riêng
biệt và khép kín (không thể chuyển nhượng).
2. Chức năng, vai trò và đặc điểm của TTTT:
2.1_ Chức năng của TTTT:
TTTT có các chức năng chính sau:
- Tạo ra một thị trường công khai mà các tổ chức kinh tế tạm thời dư thừa
vốn có thể tìm thấy nơi hứa hẹn sinh lời cho nguồn vốn dư thừa ấy, cũng như
các tổ chức đang thiếu vốn tìm được nơi đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Đó là
quan hệ cung – cầu tín dụng ngắn hạn với lãi suất thoả thuận. Như vậy, TTTT ra
đời nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn ngắn hạn bằng cách ghép nối những
người có vốn tạm thời nhàn rỗi với những người thiếu vốn tạm thời, làm lợi cho
cả hai bên tham gia. Do nhu cầu bổ sung thanh khoản, cho nên việc vay thường
có thời hạn ngắn, có khi rất ngắn (1 ngày). Và như vậy, nó có tác dụng cân bằng
khả năng thanh toán giữa các cơ sở tín dụng với nhau.
- Cung cấp các phương tiện, thông qua đó NHTW thực thi được chính
sách tiền tệ, điều phối được mức cung ứng tiền, mức độ mở rộng tín dụng, kiểm
soát được tỷ lệ dự trữ của các NHTM. Ví dụ: khi nền kinh tế bị đình đốn, để
kích sản xuất phát triển, NHTW sẽ thông qua TTTT mua các chứng khoán ngắn
hạn từ các NHTM, tức “bơm” tiền vào lưu thông, đồng thời giúp các NHTM có
thể mở rộng tín dụng. Điều này làm cung tiền tăng và lãi suất ngắn hạn có xu
hướng giảm xuống. Việc lãi suất giảm sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước tăng lợi nhuận, tăng khả năng của hàng hoá xuất khẩu, tăng tiêu

dùng xã hội, kích thích đầu tư, từ đó giúp phát triển nền kinh tế.
- Qua hoạt động của TTTT, các nguồn vốn nhàn rỗi, đơn lẻ được tập hợp
chuyển đến nơi thiếu hụt và có nhu cầu đầu tư, hay nó tập hợp và cung cấp một
nguồn vốn ngắn hạn cho các tổ chức kinh tế và tư nhân cần nó.
2.2_ Vai trò của TTTT:
TTTT có các vai trò sau:
- TTTT giúp làm tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro đối với những người
có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng hoặc đang chờ đợi các cơ hội đầu tư trong tương
lai.
- TTTT là nơi cung cấp vốn cho những người thiếu vốn để bổ sung thanh
khoản. Điều này đặc biệt có ý nghĩa, nhất là đối với các ngân hàng. Các ngân
hàng thường có tham vọng thu lợi cao, muốn vậy họ phải cho vay nhiều và dự
trữ thừa còn lại thấp. Khi có các luồng tiền gửi rút ra với số lượng lớn, họ phải
đối phó và một trong những biện pháp hiệu quả là tìm đến TTTT để vay.
- Trên bình diện toàn xã hội, TTTT đã góp phần chuyển các nguồn vốn
tiết kiệm thành nguồn vốn đầu tư sinh lời, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn và
tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
- TTTT là công cụ để chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cụ thể:
 Thông qua chính sách tiền tệ, NHTW điều tiết cung – cầu tiền và lãi
suất bằng cách trực tiếp tham gia mua bán vốn trên thị trường, từ đó
tác động đến đầu tư, chi tiêu, sản lượng, giá cả v.v… của nền kinh tế.
 Thông qua chính sách tài chính, kho bạc Nhà nước tìm kiếm nguồn
vốn trên thị trường tiền tệ để bổ sung thiếu hụt ngân sách tạm thời và
cân bằng thu chi của ngân sách Nhà nước.
- Lãi suất được hình thành trên TTTT là cơ sở để NHNN xác định lãi suất
cơ bản và xây dựng chính sách lãi suất trong từng thời kì, đồng thời nó cũng là
cơ sở để các TCTD tham khảo, hình thành lãi suất kinh doanh của mình.
2.3_ Đặc điểm của TTTT:
- TTTT là tập hợp của một số công cụ tài chính riêng biệt, đó là những
công cụ ngắn hạn, có tính lỏng cao và độ rủi ro thấp như: tín phiếu, kho bạc,

thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi… mỗi loại tạo nên một thị trường riêng của
mình và giữa các thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
- TTTT là thị trường mang tính chất bán buôn, có khối lượng giao dịch
lớn. Đơn vị tính toán tiêu chuẩn của TTTT thường là rất lớn (như ở TTTT New
York, đơn vị bán là 1 triệu USD).
- TTTT có số người tham gia đông đảo, được chuyên môn hoá ở trình độ
cao của người môi giới và người kinh doanh. TTTT khác thị trường thông
thường là cần có người trung gian để chắp nối cung cầu và họ phải đáp ứng
những yêu cầu chuyên môn cao. NHTW là người quản lý, kiểm soát, bảo trợ,
điều hoà, giữ cho TTTT luôn ổn định.
- TTTT hoạt động dựa trên cơ sở tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau, và
thông qua các phương tiện thông tin hiện đại chứ không diễn ra ở một địa điểm
cụ thể nào. Nó là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa cung và cầu để hình
thành giá cả. Thị trường này hoạt động suốt ngày đêm (24 giờ một ngày) thông
qua một mạng lưới điện thoại telex, computer nối mạng giữa những người mua
và người bán, giữa các phòng giao dịch của TTTT, giữa TTTT và khách hàng
của nó.
- Hình thức giao dịch của TTTT rất đa dạng như: mua bán trả tiền ngay,
mua bán chịu, cầm cố, thế chấp khoản vay, cho vay khống, thoả thuận mua lại…
3. Phân loại TTTT:
3.1_Căn cứ vào đối tượng giao dịch
3.1.1_TTTT sơ cấp:
Là thị trường thực hiện việc mua bán lần đầu các chứng khoán mới của Ngân
hàng, Công ty tài chính, kho bạc, Doanh nghiệp như Tín phiếu kho bạc, tín
phiếu NHTW, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi…. Các loại chứng khoán này
mới được mua bán với khối lượng lớn (theo từng lô) và thể thức mua bán chủ
yếu qua đấu giá. Đối tượng bán các chứng khoán này là những người cần vốn
phục vụ cho mục đích chi tiêu như kho bạc Nhà nước, các Ngân hàng và các
Công ty kinh doanh…còn đối tượng mua (cho vay) chủ yếu là các Ngân hàng
thương mại, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các nhà kinh

doanh tiền tệ và đông đảo công chúng, họ mua với mục đích để đầu cơ hoặc
bán lại kiếm lời.
3.1.2_TTTT thứ cấp:
Là thị trường chuyên tổ chức mua bán các chứng khoán đã phát hành ở
thị trường sơ cấp. Sau khi đã mua hàng ở thị trường sơ cấp, những người chủ sở
hữu các chứng khoán đó không chờ đến hạn để thu hồi vốn và lãi, mà họ đem
bán một phần hay toàn bộ số hàng hoá đó trên thị trường thứ cấp. Sau mỗi lần
giao dịch, quyền sở hữu và quyền đòi nợ các chứng khoán đó được chuyển từ
người này sang người khác, nhưng người mắc nợ (tức người phát hành) có
nghĩa vụ trả nợ thì không thay đổi. TTTT thứ cấp mang tính chất chuyển hoá
hình thái vốn.
Trên thị trường này, người bán chứng khoán thường là các trung gian
chuyên kinh doanh tiền tệ, như các Ngân hàng, các Công ty kinh doanh và môi
giới tiền tệ và các định chế tài chính khác…họ mua chứng khoán ở thị trường sơ
cấp và bán lại trên thị trường này theo giá thoả thuận hoặc giá niêm yết (giá định
trước).

3.2_Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch
3.2.1_TTTT liên ngân hàng
Là thị trường vốn ngắn hạn do NHTW tổ chức để giải quyết nhu cầu của
các NHTM muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời thừa ở một số ngân
hàng này với các khoản vốn tạm thời thiếu ở một số ngân hàng khác thông qua
các tài khoản của họ ở NHTW nhằm bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc,
đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bù đắp số thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ giữa các ngân hàng…Do đó, việc tham gia thị trường này chỉ hạn
chế dành cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng hoạt động theo
quy chế của thị trường.
Trên thị trường này, lãi suất thị trường được hình thành trên cơ sở cung
cầu với tính chất bán buôn vì đây là thị trường giữa các nhà chuyên kinh doanh
tiền tệ hiểu biết lẫn nhau. NHTW tham gia thị trường với tư cách người quản lý:

Quản lý thị trường và thông qua việc mua bán trên thị trường để điều hành lưu
thông tiền tệ và lãi suất, không vì mục đích kinh doanh.
Trên thị trường này, việc mua bán thường diễn ra theo phương thức đấu
giá trực tiếp. Bên mua và bên bán báo giá và số lượng định mua bán đến trung
tâm xử lý thông tin (thường được đặt tại NHTW). Trung tâm này sẽ tổng hợp số
lượng và mức giá từng loại chứng khoán mua bán trong thời điểm đó và tuỳ theo
sự can thiệp mua bán của NHTW để quyết định giá mua và lượng mua.
Hoạt động của TTTT liên ngân hàng được thể hiện qua hình thức vay
mượn có thế chấp hoặc không có thế chấp hoặc chiết khấu các chứng khoán
ngắn hạn chưa đáo hạn.
3.2.2_TTTT mở rộng
Là thị trường mà các chủ thể tham gia được mở rộng hơn so với TTTT
liên ngân hàng, bao gồm các Ngân hàng, các Công ty kinh doanh, môi giới và
công chúng…. Đặc trưng của thị trường là mua bán qua trung gian môi giới tiền
tệ. Giá cả có thể là giá đấu thầu hoặc giá thoả thuận. Thị trường này là thị trường
của những nhà kinh doanh, nghĩa là họ bán ra chứng khoán theo từng lô nhỏ, lẻ,
với giá định trước hoặc bán ra những loại chứng khoán lớn bằng cách đấu giá.
So với thị trường liên ngân hàng thì thị trường này có chủ thể tham gia mua bán
rộng hơn còn cách thức mua bán cũng tương tự. Do có các chủ thể được mở
rộng nên đây là môi trường thuận lợi cho NHTW can thiệp điều tiết lượng cung
ứng tiền tệ thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường
này.
3.3_Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá (công cụ) giao dịch
3.3.1_Thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn
Là thị trường chuyên giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn có thể
chuyển nhượng được như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi
ngân hàng… Chúng được mua bán trên thị trường theo phương thức chiết khấu.
Đây là thị trường năng động, sôi nổi. Chúng là bộ phận quan trọng nhất của
TTTT và phát triển rất nhanh chóng. Các chứng khoán ngắn hạn này là những
công cụ chủ yếu của TTTT và thường có thời hạn dưới 1 năm, có độ rủi ro thấp,

tính lỏng cao. Các chứng khoán này cũng là đối tượng để NHTW sử dụng nhằm
điều hành chính sách tiền tệ của mình qua nghiệp vụ thị trường mở. Trên thị
trường này, tuỳ đặc điểm riêng của các chứng khoán ngắn hạn nên chúng có thể
được phân chi tiết thành các thị trường như:
 Thị trường tín phiếu kho bạc
 Thị trường thương phiếu
 Thị trường chứng chỉ tiền gửi ngân hàng
 Thị trường các phiếu thuận trả của ngân hàng, thị trường tín phiếu ổn
định tiền tệ
 ……
3.3.2_Thị trường giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn
Đây là thị trường chuyên giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn, các
khoản vốn này được định giá trên cơ sở lãi suất và không chuyển nhượng được.
Đây là thị trường rất nhậy cảm với những thay đổi trong chính sách tiền tệ của
NHTW cũng như các tác động khác từ bên ngoài và phụ thuộc và điều kiện, tập
quán, tâm lý của từng vùng. Nó có thể đáp ứng được những nhu cầu rất lớn về
vốn ngắn hạn. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà chúng được định giá theo nhiều
cách khác nhau, từ đó hình thành các loại lãi suất khác nhau như lãi suất đơn, lãi
suất kép và lãi suất hoàn vốn.
Dựa vào đặc điểm của các khoản vốn vay mà thị trường này lại được chia
thành hai thị trường nhỏ:
Thị trường vay mượn ngắn hạn giữa các ngân hàng hay còn gọi là thị
trường tín dụng ngắn hạn liên ngân hàng.
Thị trường tín dụng: là thị trường nhỏ mà ở đó các NHTM và các TCTD
vay tiền của những người có vốn để sau đó cho những người cần vốn vay lại
nhằm mục đích kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đi vay và lãi suất cho vay
lại. Một trong những điểm quan trọng nhất của thị trường tín dụng là có thể “tạo
tiền” qua nghiệp vụ tiền gửi của các ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng thêm
lượng tiền cung ứng cho lưu thông nên cần thiết phải có sự quản lý điều tiết của
NHTW.

4. Chủ thể của TTTT
4.1_Ngân hàng Trung Ương
NHTW là chủ thể quan trọng và đặc biệt trên TTTT. NHTW thường là
người đưa ra các chính sách tiền tệ, các thiết chế nhằm ổn định tiền tệ, ổn định
giá trị đồng tiền và đảm bảo một TTTT hoạt động năng động, có hiệu quả, có tổ
chức. NHTW can thiệp vào hoạt động của thị trường bằng cách can thiệp vào
quá trình tạo lập ra tiền của các TCTD và làm thay đổi lãi suất thị trường qua
việc tác động đến cung cầu tiền tệ chủ yếu là thông qua các công cụ quản lý gián
tiếp.
Ngoài ra NHTW còn đóng vai trò là người môi giới trung gian ở TTTT,
giúp các ngân hàng trung gian trong việc thanh toán bù trừ những món nợ với
nhau mà không phải di chuyển tiền bạc bằng cách thiết lập phòng giao hoán tại
trụ sở của NHTW.
NHTW còn thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới các
hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy
tờ có giá ngắn hạn, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn khác.
NHTW can thiệp vào thị trường chủ yếu thông qua các chính sách tiền tệ
bao gồm: chính sách cung ứng tiền, chính sách tín dụng, chính sách đối với ngân
sách Nhà nước. Để đảm bảo thực hiện tốt các chính sách, NHTW các nước
thường sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, bao gồm các công cụ quản lý
trực tiếp và gián tiếp như: hạn mức tín dụng, kiểm soát tín dụng chọn lọc, cung
ứng tiền mặt pháp định, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở….
4.2_Ngân hàng thương mại
Các NHTM có thể nói là những trung gian hoạt động chính trên TTTT.
NHTM tham gia thị trường này nhằm duy trì khả năng thanh toán hay chi trả của
Ngân hàng, tận dụng vốn tạm thời nhàn rỗi để kiếm lời cũng như vay vốn cần
thiết với mức phí thấp nhất phục vụ mục tiêu trên. Sự có mặt của NHTM với các
tính năng hoạt động riêng biệt của nó sẽ là động lực chính để thúc đẩy hoạt động
của TTTT.

NHTM là thành viên đặc biệt của TTTT, vừa là người cho vay, vừa là
người đi vay. Họ là chủ thể quan trọng nhất, thu hút tiền gửi có kỳ hạn và không
kỳ hạn.
Trên TTTT, NHTM thường sử dụng các công cụ như chứng chỉ tiền gửi,
chấp nhận hối phiếu, khoản vay ngắn hạn giữa các Ngân hàng nhằm phục vụ
cho các hoạt động tín dụng của mình thông qua các nghiệp vụ NHTM. NHTM là
yếu tố quan trọng để luồng vốn luân chuyển có hiệu quả trên TTTT.
4.3_Kho bạc Nhà nước
Kho bạc Nhà nước tham gia TTTT chủ yếu để vay nợ, để bù đắp thiếu hụt
tạm thời của ngân sách bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc. Đối tượng
thường xuyên mua tín phiếu kho bạc là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân
cư…. Qua việc vay nợ và trả nợ dân, kho bạc có tác động tích cực đến quá
trình hình thành và phát triển TTTT vì thị trường tín phiếu kho bạc là thị
trường lớn trong các bộ phận TTTT, hơn nữa, tín phiếu kho bạc là một trong
những công cụ quan trọng để NHNN điều hành chính sách tiền tệ.
4.4_Người đầu tư
Những người đầu tư của TTTT bao gồm:
a. Các tổ chức kinh tế tham gia thị trường
Đó là các Tổ chức tài chính và các doanh nghiệp phi ngân hàng như: Hiệp
hội tiết kiệm và cho vay, Công ty bảo hiểm, Ngân hàng tiết kiệm tương trợ, quỹ
tín dụng, quỹ tương trợ TTTT, các tổ chức xã hội, các tổ chức tài chính quốc tế,
Công ty nước ngoài (tài chính và phi tài chính)…. Họ là những tác nhân đông
đảo của thị trường, tham gia với mục đích: Duy trì khả năng thanh toán; cho vay
khoản vốn dư thừa để kiếm lãi; đi vay nguồn vốn cần thiết. Họ không tham gia
vào quá trình tạo tiền.
b. Người đầu tư tư nhân
Khi lãi suất tăng lên, người đầu tư tư nhân tham gia TTTT. Họ tham gia
với mục đích: thanh toán những khoản vay mượn và mua sắm; đề phòng những
tình huống chưa dự kiến trước được; đầu cơ, hy vọng có thay đổi về lãi suất để
kiếm lời.

4.5_Người môi giới và kinh doanh (Brokers và Dealers)
Các thị trường dành cho tất cả các công cụ trên TTTT đều do người môi
giới và người kinh doanh thực hiện.
Người kinh doanh tạo ra thị trường cho các công cụ TTTT bằng cách báo
giá chào mua và giá bán với những người khác, những người phát hành và
những người đầu tư. Họ mua và bán cho những tài khoản sở hữu của họ.
Người môi giới là những người thực hiện việc đưa người mua và người
bán lại với nhau để hưởng hoa hồng. Chức năng của họ là cung cấp thị trường
cho những người tham gia thị trường. Phần lớn hoạt động môi giới ở TTTT xuất
hiện giữa các ngân hàng đang mua vốn hay đang bán vốn với các ngân hàng
khác, và giữa những người kinh doanh các công cụ trên TTTT.

5. Các công cụ trên TTTT
5.1_Tín phiếu kho bạc (Treasury bills)
Tín phiếu kho bạc là chứng nhận nợ ngắn hạn của Chính phủ do kho bạc
Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời cho ngân sách Nhà nước và
là một công cụ quan trọng để NHTW điều hành chính sách tiền tệ qua nghiệp vụ
thị trường mở. Chúng không mang lãi suất hoặc có lãi suất rất thấp, được phát
hành với thời hạn thông thường là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và phát hành
bằng cách đấu giá. Việc mua bán thường được thanh toán bằng tiền mặt. Kho
bạc Nhà nước thường phát hành tín phiếu với hình thức vô danh.
Các tín phiếu kho bạc thường có mức độ rủi ro thấp đối với người đầu tư,
nó là công cụ lỏng nhất trong các công cụ của thị trường tiền tệ.
5.2_Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (Bank certificates of deposit):
Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người
gửi tiền với lãi suất được quy định cho từng kỳ hạn nhất định, phần lớn là từ 30
ngày đến 12 tháng, được thanh toán lãi hàng năm. Các chứng chỉ tiền gửi ngân
hàng thường là vô danh. Các chứng chỉ tiền gửi cũng tương tự như các loại tiền
gửi có kỳ hạn khác nhưng chúng có thể được bán (hoặc chuyển nhượng) cho
một bên thứ ba mà không bị phạt bởi các ngân hàng phát hành.

Chứng chỉ tiền gửi có khả năng thanh toán rất cao. Chúng có lãi suất cao
hơn lãi suất của các tín phiếu kho bạc nhưng thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn.
Trái ngược với phần lớn các công cụ khác trên TTTT - là những công cụ
được giao dịch trên cơ sở khấu trừ lãi, chứng chỉ tiền gửi được trả lãi sau khi
đến hạn, trừ trường hợp các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn trên một năm thì được
trả lãi nửa năm một.
5.3_Thương phiếu (Commercial Paper)
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền nhất định trong một thời gian
xác định, hay nói cách khác là giấy nhận nợ đặc biệt mà người giữ nó có quyền
đòi trả tiền khi đến hạn, do các công ty nổi tiếng phát hành. Thương phiếu có thể
được chiết khấu ở NHTM để thu hút vốn về cho người sở hữu thương phiếu
trước kỳ hạn thanh toán. Thương phiếu có độ rủi ro thấp và thời hạn thanh toán
ngắn nên được dùng thay thế cho các công cụ của TTTT như tín phiếu kho bạc
và chứng chỉ tiền gửi.
Thời hạn của thương phiếu tối đa có thể là 270 ngày nhưng phần lớn
thương phiếu được bán có thời hạn 30 ngày hay nhỏ hơn. Lãi suất của thương
phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh toán, khối lượng vay, mức lãi suất chung của
TTTT và sự xếp loại tín nhiệm của người phát hành.
Thương phiếu bao gồm các loại sau:
Hối phiếu (Bill of exchange)
Lệnh phiếu (Promissory note)
Kỳ hoá phiếu (Warehouse Receipt)
5.4_Chấp phiếu ngân hàng (Banker’s acceptance)
Là hối phiếu do Công ty kinh doanh ký phát, trong đó ghi rõ thanh toán
vào một ngày nhất định trong tương lai, thường phát hành trong 90 ngày và
được một ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên
hối phiếu đó. Do được ngân hàng đảm bảo thanh toán nên uy tín của nó tương
đối cao và dễ dàng được chuyển nhượng trên TTTT.

Các phiếu thuận trả của ngân hàng là những hối phiếu ngắn hạn, không
mang lãi suất và được bán ở mức chiết khấu. Các phiếu thuận trả của ngân hàng
có độ rủi ro thấp do đó được bán với mức lợi tức nhỏ.
5.5_ Hợp đồng mua lại ( Repurchase Agreement)
Hợp đồng mua lại (viết tắt là Repo hay RP) thực tế là những món vay ngắn
hạn (kỳ hạn thanh toán ngắn hơn 2 tuần lễ), trong đó một vài chứng khoán–
thường là tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho khoản vay đó.
Tuy nhiên, người đi vay cam kết sẽ mua lại chứng khoán này theo giá cũ,
cộng thêm một khoản lãi quy định. Kỳ hạn của hợp đồng mua lại có thể được
ấn định hoặc thoả thuận tự do, trong cả hai trường hợp cả người đi vay và
người cho vay đều có thể kết thúc thoả thuận này bất kỳ lúc nào. Hợp đồng
này mang lại lợi ích lớn cho cả hai bên và sự linh hoạt của nó làm cho nó
phát triển rất mạnh trong TTTT thời gian gần đây.
Thông thường, các NHTM là những nhà cung cấp vốn lớn cho các nhà
giao dịch chứng khoán chính phủ dưới dạng hợp đồng mua lại. Mặc dù vậy, một
phần lớn vốn của các NHTM được giữ dưới dạng chứng khoán chính phủ và họ
cũng thích sử dụng hợp đồng mua lại như một nguồn tài trợ vốn.
Hợp đồng mua lại đã cung cấp cho các NHTM một phương tiện huy động
vốn tích cực. Nguồn vốn này thuộc diện không phải áp dụng các quy định về dự
trữ bắt buộc và mức khống chế trần lãi suất, do đó chi phí đối với hợp đồng mua
lại cũng thấp hơn so với tiền gửi và không có khống chế trần lãi suất nên các
NHTM có thể linh hoạt trong khi cạnh tranh thu hút vốn trên TTTT. Ngoài ra,
với các NHTM có sẵn chứng khoán Chính phủ trong danh mục đầu tư của mình
có thể sử dụng chúng cho các thoả thuận mua lại để đi vay, từ đó tạo ra nguồn
vốn khả dụng mới.
5.6_Eurocurrency
Eurocurrency là đồng đôla hoặc đồng ngoại tệ tự do có thể quy đổi đư
ợc
ký gửi tại ngân hàng bên ngoài nước bản xứ. Eurocurrency có tính lỏng cao. Kỳ
hạn gửi tiền phần lớn là ngắn hạn, khoảng 1/3 số tiền gửi này có kỳ hạn không

quá 8 ngày và gần 90% có kỳ hạn không quá 6 tháng.
Ngoài các công cụ trên, tuỳ từng nước mà còn có thêm một số các công
cụ khác được giao dịch trên thị trường tiền tệ như: Các khoản vay liên ngân
hàng, Tín phiếu ổn định tiền tệ hay tín phiếu NHTW, Các khoản tiền gửi lưu
thông trong thị trường tiền tệ, Quỹ liên bang, trái phiếu đô thị chính quyền địa
phương, quỹ tương trợ thị trường tiền tệ…. Thị trường tiền tệ càng phát triển thì
càng có nhiều loại công cụ mới được ra đời.



II/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ
1. Khái niệm thị trường tiền tệ Quốc tế (Eurocurrency)
Ngày nay, TTTT đã vượt ra ngoài biên giới truyền thống vốn có của
chúng, do đó, chúng ta có thể ký một tờ séc bằng đồng đôla Mỹ từ tài khoản mở
tại ngân hàng ở Tokyo, hoặc ký một tờ séc bằng Yên Nhật từ tài khoản mở tại
ngân hàng ở New York. Một thực tế là các đồng tiền khác nhau được duy trì bên
cạnh nhau trên các tài khoản ngân hàng. Tương tự, chúng ta cũng có thể có một
khoản tín dụng bằng đôla Mỹ tại Hồng Kông. Thị trường đi vay và cho vay
ngắn hạn đến một năm bằng các đồng tiền khác nhau trên tài khoản của các
ngân hàng nằm ngoài nước phát hành gọi là TTTT Quốc tế, hay còn gọi là
thị trường Eurocurrency.
Vì vậy, thị trường Eurocurrency được định nghĩa như là thị trường của
các ngân hàng hải ngoại (Eurobanks) trong lĩnh vực huy động và cho vay ngắn
hạn các đồng tiền lưu thông bên ngoài nước phát hành.
Từ định nghĩa này cần giải thích một số thuật ngữ:
Thứ nhất, các Eurobanks là những ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay
ngắn hạn các đồng tiền của một quốc gia bất kỳ, nhưng không chịu sự chi phối
bởi các quy định của NHTW phát hành đồng tiền này. Do đó các Eurobanks
chính là ngân hàng nước ngoài (hay còn gọi là ngân hàng không cư trú hay ngân
hàng hải ngoại) kinh doanh đồng tiền của một nước nhất định. Ví dụ: các ngân

hàng không thuộc hệ thống ngân hàng Mỹ (như ngân hàng Pháp, Anh,…) huy
động và cho vay ngắn hạn đôla Mỹ.
Thứ hai, Eurocurrency là đồng tiền của một nước được duy trì trên tài
khoản của các Eurobanks. Vì các Eurobanks không chịu sự chi phối bởi các quy
định của NHTW phát hành đồng tiền Eurocurrency, nên các Eurocurrency được
coi như đồng tiền quốc gia lưu hành “bên ngoài” nước phát hành. Ví dụ, những
đồng đôla Mỹ nằm trên tài khoản của các ngân hàng Pháp mở tại các ngân hàng
đại lý Mỹ gọi là Eurodollars; những yên Nhật nằm trên tài khoản của ngân hàng
Mỹ mở tại các đại lý Nhật gọi là Euroyens….
Thứ ba, sự di chuyển của bản tệ từ hệ thống ngân hàng nội địa sang các
Eurobanks gọi là sự di chuyển từ hệ thống lưu thông nội địa sang hệ thống lưu
thông Eurocurrency (bên ngoài, hải ngoại) và ngược lại.
Do được trải rộng về mặt địa lý nên các thị trường Eurocurrency (hay
Euromarkets) còn gọi là “Thị trường Hải ngoại – Offshore Markets”
Trên thực tế, thị trường Eurocurrency được cấu thành từ hoạt động nhận
tiền gửi và hoạt động cho vay. Hiện nay, hoạt động của thị trường Eurodollar
chiếm đa số tổng doanh số hoạt động của toàn thị trường Eurocurrency. Chính vì
vậy, theo nghĩa hẹp khi nói đến thị trường Eurocurrency thì người ta hiểu đó là
thị trường Eurodollar.
Có điều cần lưu ý rằng: tiền tố “Euro-” đứng trước tên các đồng tiền có
thể làm cho chúng ta dễ bị nhầm lẫn, do đó, cần thiết phải phân biệt nội dung
thuật ngữ “Euro-”: Eurocurrency là những đồng tiền trôi nổi bên ngoài nước
phát hành, do đó, những tiền gửi bằng USD tại các ngân hàng Hồng Kông,
Tokyo nằm ngoài nước Mỹ gọi là Eurodollar. Như vậy, tiền tố đứng trước
“Euro-” ở đây chỉ là quy ước chứ không nhất thiết chỉ tính từ về Châu Âu. Vì
vậy, để tránh nhầm lẫn, cần hiểu rõ và phân biệt giữa thị trường “Eurocurrency”
với thị trường “Tiền tệ Châu Âu”.
2. Đặc trưng của TTTT Quốc tế
TTTT Quốc tế (Eurocurrency) có những đặc trưng khác biệt với TTTT
quốc gia. Cụ thể:

- Đây là thị trường Quốc tế lớn, các NHTW rất ít có khả năng điều tiết các
hoạt động của thị trường này.
- Các nghiệp vụ tín dụng trên thị trường này không có quy định dự trữ bắt
buộc và phí bảo hiểm cho tiền gửi, tổng chi phí giao dịch sẽ giảm đi, do đó
lãi suất cho vay theo Eurocurrency thường thấp hơn lãi suất cho vay của
khoản vay tương ứng trong nước nên rất hấp dẫn cho các tập đoàn kinh
doanh đa quốc gia.
- Thị trường Eurocurrency thường là thị trường bán buôn, chủ yếu là thị
trường liên ngân hàng. Quy mô giao dịch vốn thường rất lớn, uy tín của các
thành viên trên thị trường rất cao, bao gồm một khối lượng lớn các chủ nợ và
khách nợ trên toàn thế giới.
- Thị trường Eurocurrency là nơi tích trữ khoản thặng dư có tính thanh khoản
cao. Các công ty, hãng, các ngân hàng thường gửi vốn nhàn rỗi của mình vào
thị trường này để hưởng mức tỷ suất lợi nhuận cao trong khi các khoản thu
nhập này không phải nộp thuế. Điều này khiến cho các nhà đầu tư nước
ngoài thực sự ưa thích.
- Thị trường này có tính lỏng cao bởi kỳ hạn tiền gửi phần lớn là ngắn hạn.
Mức lãi suất tín dụng Eurocurrency được hình thành trên cơ sở mức lãi
suất chào bán liên ngân hàng tại London (London Interbank Offer Rate-LIBOR)
áp dụng đối với từng đồng tiền. LIBOR là mức lãi suất áp dụng cho các giao
dịch liên ngân hàng (khi các ngân hàng vay mượn lẫn nhau), đồng thời là mức
lãi suất cơ bản áp dụng cho nhóm khách hàng phi ngân hàng. Mức lãi suất
LIBOR đối với mỗi đồng tiền là số trung bình của các mức lãi suất cho vay của
sáu ngân hàng hàng đầu ở London. Mức lãi suất cho vay đối với khách hàng phi
ngân hàng bằng mức lãi suất LIBOR cộng với mức lãi suất gia tăng (premium),
phụ thuộc vào độ tín nhiệm của từng khách hàng. Đối với những khoản tín dụng
trên 6 tháng, ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất thả nổi làm giảm rủi ro lãi
suất.
3. Ưu và nhược điểm của TTTT Quốc tế
Từ khái niệm và đặc trưng riêng của thị trường Eurocurrency, có thể nhận

thấy thị trường Eurocurrency có những ưu điểm và hạn chế như sau:
3.1_Ưu điểm
* Thị trường Eurocurrency ra đời đã góp phần làm tăng những phương
tiện sẵn có cho người đi vay và người cho vay.
* Lãi suất thả nổi là điểm khác biệt của thị trường Eurocurrency mà hầu
hết các thị trường nội địa không áp dụng, giúp cho các Eurobanks phòng ngừa
được sự biến động của lãi suất.
* Do tính cạnh tranh trên thị trường Eurocurrency rất cao, cho nên mức lãi
suất được hình thành trên thị trường này cũng có tính cạnh tranh cao, nó không
những tạo điều kiện cho vốn di chuyển giữa các chủ thể kinh tế tư nhân mà còn
giữa các quốc gia. Lợi thế cạnh tranh của Eurobanks được biểu diễn bằng sơ đồ
sau:
So sánh chênh lệch lãi suất giữa Eurodollars và USD tại Mỹ
Lãi suất cho vay ở Mỹ

Lãi suất cho vay Eurodollars
Chênh lệch Eurodollar Chênh lệch ở Mỹ
Lãi suất tiền gửi Eurodollars

Lãi suất tiền gửi ở Mỹ

Từ sơ đồ trên cho thấy, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi tại các Eurobanks là hẹp hơn so với tại các ngân hàng ở Mỹ.
*Ngoài ra, khi thị trường Eurocurrency ra đời đã tạo điều kiện tài trợ cho
những nước có thâm hụt cán cân thanh toán một cách dễ dàng và đỡ tốn kém
hơn nhiều so với thời kỳ thị trường này chưa ra đời.
*Hơn nữa, các Eurobanks tạo điều kiện cho những nhà đầu cơ tích luỹ
vốn và khi họ có trong tay một khối lượng lớn tiền tệ trên thị trường
Eurocurrency sẽ giúp duy trì kỷ luật đối với các chính phủ trong việc thực thi
các chính sách kinh tế vĩ mô, do đó các chính sách trở nên ổn định hơn và tỷ giá

cũng ổn định hơn.
3.2_Nhược điểm:
*Một trong những mối quan tâm chính đến thị trường Eurocurrency là thị
trường này bao gồm một khối lượng khổng lồ nguồn vốn có khả năng tạo tín
dụng nhưng lại không có bất cứ một quy chế nào điều chỉnh. Hoạt động của
Eurobanks là không bị điều chỉnh và không tồn tại cơ chế tiếp cận với “người
cho vay cuối cùng”. Vì vậy, nếu một Eurobank sụp đổ sẽ tạo ra hiệu ứng tàn
khốc làm sụp đổ các Eurobanks khác và sẽ làm tăng mối nguy hiểm đến toàn hệ
thống tài chính Quốc tế.
*Một mối quan tâm khác đến thị trường Eurocurrency là thị trường
Eurocurrency đã tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia tài trợ cho thâm hụt cán
cân thanh toán một cách dễ dàng. Thị trường Eurocurrency được coi như chiếc
cầu nối chuyển vốn từ những nước thặng dư đến những nước thâm hụt dẫn đến
nợ của các nước thâm hụt ngày càng tăng. Điều kiện đi vay dễ dàng đã kích
thích các nước thâm hụt đi vay quá mức.
*Eurobanks tạo điều kiện cho những nhà đầu cơ tích luỹ vốn nhằm mục
đích tấn công vào các đồng tiền, do đó làm cho môi trường tiền tệ trở lên bất ổn.
*Ngoài ra, hệ thống Eurobanks có thể gặp phải rất nhiều mối nguy hiểm.
Giả sử khi đã trở thành con nợ quá lớn, có thể một số nước không còn thiện chí
trả nợ. Nếu những người gửi tiền vào Eurobanks nhận thấy rằng dư nợ của các
nước thâm hụt là quá lớn và bộc lộ nhiều rủi ro sẽ ồ ạt rút tiền gửi từ các
Eurobanks và sẽ tạo ra hai hiệu ứng: hệ thống Eurobanks có thể rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán và các nước thâm hụt không còn khả năng tuần
hoàn tín dụng.
4. Công cụ trên TTTT Quốc tế
4.1_Tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency
Thông thường, tiền gửi Eurocurrency chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn với
mức lãi suất cố định. Do có mức lãi suất cố định, nên tiền gửi Eurocurrency
thường có kỳ hạn ngắn. Kỳ hạn ký gửi có thể chỉ trong 1 ngày cho đến vài năm,
nhưng phổ biến nhất là từ 1 tuần cho đến 6 tháng. Phần lớn lượng tiền gửi

Eurocurrency là các khoản nợ giữa các ngân hàng có lãi suất chi trả cố định và
có tính cạnh tranh cao.
Ngoài các đồng tiền quốc gia chủ yếu, tiền gửi Eurocurrency bằng SDR
(Special Drawing Rights) cũng được hình thành. SDR là tiền tệ do IMF phát
hành dùng làm tài sản dự trữ tại các NHTW. Tiền gửi có kỳ hạn bằng SDR lần
đầu tiên được đưa ra bởi Chemical Bank ở London. Cũng như các loại tiền gửi
có kỳ hạn khác, tiền gửi có kỳ hạn SDR cũng thuộc loại công cụ không chuyển
nhượng được.
4.2_Chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng
Một tỷ lệ nhỏ thuộc tài sản nợ của các Eurobanks không phải là tiền gửi
có kỳ hạn, mà là các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (Negotiable
Certificates of Deposit-NCD). Khác với tiền gửi có kỳ hạn, do được chuyển
nhượng nên các NCD được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, đối với
tiền gửi kỳ hạn, rút trước hạn sẽ bị chịu lãi phạt, do đó càng làm cho NCD có
tính thanh khoản cao hơn so với tiền gửi kỳ hạn. Trong trường hợp Eurodollars,
có khoảng 20% tài sản nợ của Eurobanks là NCD, 80% còn lại theo thông lệ là
tiền gửi kỳ hạn.
Trong thời gian gần đây, các khoản NCD kỳ hạn 3 tháng với lãi suất cố
định đã thấp hơn lãi suất LIBOR 10 điểm. Thị trường thứ cấp linh hoạt cho phép
các nhà đầu tư bán đi các NCD trước kỳ hạn thanh toán. Các chứng chỉ tiền gửi
Eurodollar do các ngân hàng phát hành thường có mệnh giá từ 250 nghìn đến 5
triệu USD. Một số chứng chỉ có tên gọi là Tranche CD được lưu hành với mệnh
giá cực lớn (khoảng từ 10 triệu đến 30 triệu USD) nhưng chỉ được bán ra với 1
số quy mô nhất định cho các nhà đầu tư. Các chứng chỉ loại này có cùng 1 mức
lãi suất, ngày phát hành, kỳ hạn thanh toán lợi tức và thanh toán toàn bộ. Kể từ
năm 1981, một vài ngân hàng chủ chốt ở London như Barclay Bank
International, Chemical Bank, Hongkong Bank…đã huy động SDR bằng
phương thức phát hành NCD cũng như phương thức nhận tiền gửi kỳ hạn.
4.3_Chứng chỉ và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi
Cuối thập kỷ 70, các chứng chỉ Eurocurrency có lãi suất thả nổi (Floating

Rate Certificate of Deposits: FRCD) và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả
nổi (Floating Rate Notes: FRN) được lưu hành nhằm bảo vệ cả người đi vay lẫn
người cho vay trước nguy cơ biến động tỷ giá lãi suất. Thông qua việc thanh
toán các hoá đơn tuỳ theo tỷ lệ lãi suất trên thị trường, các công cụ này khiến giá
trị của chi phiếu trở nên ổn định hơn. Chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi
được phát hành với kỳ hạn từ 4 đến 20 năm, phổ biến nhất là từ 5 đến 7 năm. Có
thể coi công cụ này như một sự thay thế cho các trái phiếu có lãi suất cố định và
về nguyên tắc, nó có công dụng giống như FRCD.
4.4_Khả năng phát hành chi phiếu (Note Issuance Facilities: NIF)
NIF đã trở thành một công cụ rất quan trọng trên thị trường Eurodollar
vào giữa thập niên 80. NIF là 1 thoả thuận có thời hạn trung bình, khoảng từ 5
đến 7 năm giữa người đi vay và ngân hàng theo đó người đi vay có thể phát
hành chi phiếu có mệnh giá 100 nghìn USD và 500 nghìn USD thời hạn từ 3 đến
6 tháng dưới tên mình.
Thị trường này bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1985. Hầu hết các chi
phiếu đều được giao dịch với các ngân hàng nhỏ và không phải là đối tượng bảo
đảm. Các giao dịch được thực hiện với các nhà đầu tư phi ngân hàng như các tập
đoàn, công ty bảo hiểm, và cá nhân với NHTW.
4.5_Hoạt động ngân hàng hải ngoại của ngân hàng nội địa
Sự mở rộng hoạt động của các Eurobanks bằng Eurodollars đã khiến cho
Fed chấp nhận cho phép các ngân hàng nội địa ở Mỹ được tiến hành các hoạt
động ngân hàng hải ngoại ngay tại nước Mỹ (International Banking Facilities-
IBF). IBF được thiết lập vào năm 1981 và thực chất là sự tồn tại hai hệ thống tài
khoản khác nhau trong cùng một ngân hàng. IBF được nhận tiền gửi bằng USD
từ người không cư trú nhưng không phải tham gia dự trữ bắt buộc cũng như bảo
hiểm tiền gửi nếu sử dụng tiền gửi này để cho vay những người không cư trú.
IBF đã cạnh tranh thực sự với các Eurobanks ở Châu Âu và đã góp phần chuyển
được một bộ phận hoạt động ngân hàng hải ngoại bằng USD về nước Mỹ.
Tiếp đó, vào năm 1986 chính phủ Nhật cũng cho phép thành lập thị
trường kinh doanh Euroyen tại Tokyo, cho phép các ngân hàng Nhật nhận tiền

gửi bằng Euroyen tại Tokyo, trên cơ sở tiền gửi bằng Euroyen cung cấp tín dụng
cho người không cư trú.
4.6_Hợp đồng tương lai bảo hiểm rủi ro lãi suất
Nhìn chung các Eurobanks bảo hiểm rủi ro tương đối tốt. Thông thường,
tài sản có và tài sản nợ của Eurobanks được cấu thành từ các đồng tiền khác
nhau. Khi tài sản có và tài sản nợ trùng nhau về số lượng và kỳ hạn đối với từng
đồng tiền thì Eurobanks tránh được mọi rủi ro về lãi suất và tỷ giá nhưng điều
này hiếm khi đạt được. Điều này làm phát sinh rủi ro lãi suất đối với các
Eurobanks. Kể từ năm 1981, thị trường Eurodollar tương lai (Eurodollar Future
Market) được giới thiệu đã cho phép các Eurobanks tự bảo hiểm rủi ro lãi suất,
do hợp đồng mua bán lãi suất tương lai quy định:
- Hợp đồng mua lãi suất tương lai có lãi khi lãi suất thị trường giảm
và phát sinh lỗ khi lãi suất thị trường tăng.
- Hợp đồng bán lãi suất tương lai có lãi khi lãi suất thị trường tăng
và phát sinh lỗ khi lãi suất thị trường giảm.
4.7_Các hợp đồng kỳ hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn (Forward Rate Agreement – FRA) là hợp đồng
được ký kết giữa các ngân hàng (Interbank), nó cho phép các ngân hàng bảo
hiểm rủi ro lãi suất từ sự không cân xứng kỳ hạn giữa tiền gửi và tín dụng. Một
FRA bao gồm hai bên, trong đó một bên mua và một bên bán. Bên mua đồng ý
trả cho bên bán phần chênh lệch lãi suất, nếu lãi suất thị trường giảm xuống dưới

×