Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học PHÉP BIỆN CHỨNG về mối LIÊN hệ PHỔ BIẾN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH tế với bảo vệ môi TRƯỜNG SINH THÁI 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.65 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Sinh viên thực hiện:
Mã SV:
Lớp:
Lớp tín chỉ:
Giảng viên hướng dẫn

Hà Nội - 12/2021

1


Mục lục

Lời mở đầu.........................................................................................
Nội dung..............................................................................................
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến................................................
1. Sự ra đời của phép biện chứng...................................................................
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến..............................................................
a. Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến..............................................
b. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến..................................
III. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở
Việt Nam


1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái.
2. Kinh tế và môi trường sinh thái Việt Nam.
a. Kinh tế công nghiệp.......................................................................................
b. Kinh tế nông nghiệp......................................................................................
c. Kinh tế du lịch biển.............................................................
d. Gia tăng mức tiêu thụ..................................................................................
3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường..............................................................
4. Giải pháp giải quyết vấn đề.........................................................................
IV. Lời kết.......................................................................................................

2


Lời mở đầu
Thế giới bao la rộng lớn, mọi sự vật, mọi sự việc, mọi hiên tương đều có mối tương
quan, liên kết, liên hệ chặt chẽ với nhau. Mọi thứ như được kết nối bằng một mạng lưới
rộng lớn, chúng bổ trợ nhau cũng ảnh hưởng lẫn nhau, không một sự vật sự việc hay hiện
tương nào có thể tồn tại một cách độc lập, cách biệt và hiển nhiên sự sống của chúng ta
cũng luôn tồn tại và phát triển cùng với sự hỗ trợ của môi trường và ngược lại.
Hiện nay cùng với tốc độ tăng trưởng của kinh tế và đời sống của con người ngày
càng được cải thiện thì những điều đó cũng đã và đang gây ảnh hưởng không nhỏ về mặt
sinh thái môi trường. Việt Nam là một quốc gia đang trên đà phát triển kinh tế, điều này cải
thiện rất nhiều về mặt vật chất cũng như cuộc sống của con người nhưng bên cạnh đó nó
cũng đang đè áp lực rất lớn đến vấn đề bảo vệ môi trường, để trả cái giá cho việc phát triển
kinh tế thì đồng nghĩa là sẽ mất đi nguồn tài nguyên thiên nhiên khi bị khai thác trầm
trọng. Và hơn ba thập kỷ trải qua sự phát triển kinh tế thì đổi lại Việt Nam nhận được hậu
quả về ơ nhiễm đất, khơng khí, nước, nạn phân biệt giàu nghèo.
Những điều đó đã gây tiêu cực về các mối liên hệ phổ biến. Chính vì lẽ đó em đã quyết
định chọn đề tài “Nghiên cứu về phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng

phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở Việt Nam” nhằm
mục đích làm rõ hơn về tình hình tổng quan giữa mối liên hệ giữa kinh tế và môi trường.
Cùng đó tìm ra các biện pháp để cải thiện đồng thời về cả hai mặt, để chúng có thể bổ trợ
lẫn nhau chứ không phải tác động tiêu cực. Và tun truyền về mơi trường có tính quan
trọng đến thế nào để mọi người thấy và hiểu rõ, cùng nhau chúng tay bảo vệ môi trường
sinh thái hiện nay. Bảo vệ môi trường đồng nghĩa bảo vệ được nền kinh tế cũng như bảo vệ
đời sống của con người và ngay chính bản thân chúng ta. Nghiên cứu mang tính tổng quan
cao, có thể bài luận chưa đem được hết sự toàn diện đến cho người đọc, nhưng qua bài luận
này em đã gia tăng được rất nhiều tri thức về các mối quan hệ phổ biến trong cuộc sống
đặc biệt là vai trị của mơi trường đối với cuộc sống của con người.

3


Nội dung
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Sự ra đời của phép biện chứng
Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương
Đơng và phương Tây, với ba hình thức cơ bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của
phép biện chứng trong lịch sử triết học)
Chữ “phép biện chứng” có gốc từ động từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “đối thoại”, và
ban đầu có nghĩa là “nghệ thuật đối thoại, bàn luận hay tranh biện”.
Có lẽ khi cho rằng phép biện chứng do Zeno xứ Elea sáng tạo ra, Aristotle đang nói
tới các nghịch lý của Zeno, vốn là những thứ bác bỏ những giả thuyết chắc chắn bằng cách
rút ra từ những giả thuyết ấy những hệ luận không thể chấp nhận được. Nhưng về cơ bản
thì chính Socrates mới là người đầu tiên thực hành phép biện chứng, như những gì ta thấy
trong các tác phẩm đối thoại của Plato ở thời kỳ đầu. Ơng thường sử dụng hai kĩ thuật, đều
mang tính giả thuyết trong hình thức: bác bỏ phát biểu của đối phương bằng cách khiến
cho họ phải chấp nhận một phát biểu đối lập với nó (elenchus) là kết quả cuối cùng của nó,
và dẫn dắt họ đến sự khái quát hóa bằng cách khiến cho họ phải chấp nhận chân lý của nó

trong chuỗi các trường hợp (epagoge, được dịch là “quy nạp”).
Bản thân Plato coi phép biện chứng là phương pháp triết học tối thượng, “viên đá
đỉnh vòm của các khoa học”, và là giai đoạn cuối cùng trong nền giáo dục chính quy đào
tạo nên các ơng vua-triết gia. Tuy hay ca ngợi phép biện chứng nhưng việc ơng u thích
phép biện chứng thường khá mơ hồ, và quan niệm của ơng về phép biện chứng có thể đã
thay đổi theo thời gian. Đôi khi ông coi nó là phương pháp bác bỏ các giả thuyết, và trong
các cơng trình ở thời kỳ sau, ơng gộp vào nó cả phép “phân chia” lồi (genus) thành giống
(“species”), đến lượt nó lồi được phân chia thành cấp nhỏ hơn, cứ thế cho đến mức khả
năng cho phép. Hầu như bất cứ hình thức lập luận trừu tượng khơng theo lối cá biệt hóa
đều có thể được coi là phép biện chứng, nhưng xem ra nó ln dính líu đến việc tìm kiếm
các bản chất bất biến – nhất là, ý niệm về cái Tốt hay Thiện (Good).
Phép biện chứng lần đầu tiên được đặt trên một cơ sở vững chắc trong Topics /
Định vị học của Aristotle, một cuốn sách cẩm nang hướng dẫn cách tìm các luận cứ ủng hộ
hay bác bỏ “các chính đề” hay lập trường nào đó, chẳng hạn như phán đốn rằng “mọi sự
khối lạc đều là tốt”. Các chính đề như thế có thể đã được thảo luận trong Học viện
Academy của Plato, và Aristotle tìm cách cung cấp các phương pháp chung cho việc xử lý
chúng. Trong q trình này, ơng đã phát hiện ra nhiều nguyên tắc cơ bản của logic học hình
thức, là mơn học được phát triển trong Analytics / Phép phân tích thành một lý thuyết
“chứng minh”, đối lập với “phép biện chứng” vốn được thu hẹp vào việc suy luận đơn
thuần từ các tư kiến (opinion). Tuy nhiên, các nhà logic học phái Khắc kỷ (Stoic) và trong
triết học trung đại, logic hình thức tự nó đi đến chỗ được gọi là “phép biện chứng”.
Cho rằng vạn vật trong thế giới đều có q trình hình thành và tiêu vong, đều
khơng ngừng vận động, biến hố và liên hệ chằng chịt nhau. Đây là phép biện chứng mang
4


tính sơ khai, mộc mạc vì khoa học thời đó chưa phát triển. Khi phác họa bức tranh chung
về thế giới, các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát có tính trực quan, cảm tính,
nhưng về cơ bản là đúng. Heraclit coi sự vận động và phát triển của thế giới giống như
dịng chảy của một con sơng “không bao giờ người ta tắm được hai lần trên cùng một dịng

sơng”. Platon cho rằng nghệ thuật kích thích linh hồn suy tư chính là nghệ thuật biện
chứng. Phật giáo, Lão giáo cho rằng vạn vật luôn trong quá trình vận động và biến đổi
khơng ngừng. Hegel là người có cơng lớn trong việc xây dựng phép biện chứng thành một
học thuyết triết học có tính hệ thống. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép biện
chứng của ý niệm. Dựa trên những thành tựu khoa học của thế kỷ 19, khắc phục những hạn
chế của phép biện chứng duy vật cổ đại và phép biện chứng duy tâm, Mác và Ăngghen đã
sáng lập ra phép biện chứng duy vật khoa học vào giữa thế kỷ 19 và được V.I.Lênin tiếp
tục phát triển. Đây là sự thống nhất giữa phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật làm cho
phép biện chứng thực sự trở thành một khoa học. Phép biện chứng duy vật có nội dung
phong phú bởi vì đối tượng của nó là thế giới vật chất vơ cùng vơ tận, trong đó ngun lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là có ý nghĩa khái quát nhất. Với ý
nghĩa đó, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và của tư duy”. Phép biện
chứng duy vật khoa học bao gồm hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù.
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
a. Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng, những quá trình
khác nhau Trong lịch sử triết học những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách rời nhau. Với quan điểm siêu hình giữa các sự vật, hiện
tượng khơng có mối liên hệ, ràng buộc quy định nhau. Khái quát những thành tựu của khoa
học tự nhiên hiện đại, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự
vật hiện tượng trong thế giới. Theo phép biện chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ
biến là sự khái quát các mối liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó,
phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong
mối liên hệ phổ biến cùng ràng buộc, chi phối lẫn nhau, vận động và biến đổi khơng
ngừng. Trong thế giới khơng có sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, biệt lập nhau. Phép biện
chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là
tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng và
rất khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng tồn tại cụ thể của một thế giới duy nhất là vật

chất. Ý thức của con người không phải là vật chất nhưng không thể tồn tại biệt lập với vật
chất bởi vì ý thức cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
người; hơn nữa nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật
chất. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà cịn khẳng định tính đa
dạng của sự liên hệ; bởi thế giới là một chỉnh thể với vô vàn các sự vật, hiện tượng khác
nhau, chúng không ngừng vận động và phát triển một cách đa dạng. Có mối liên hệ bên
ngồi, có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu; có mối liên
hệ chung bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của hiện thực. Có mối liên
hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ bản chất và có mối liên hệ khơng bản
chất, có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự vật, có

5


mối liên hệ giữa các mặt của mỗi sự vật. Phân loại các mối liên hệ là cần thiết bởi vì mỗi
loại liên hệ có vai trị khác nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật. Sự phân
loại còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy vật và của các
ngành khoa học cụ thể. Tuy nhiên, việc phân loại liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối vì mỗi
loại liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, mỗi mắt khâu của mối liên hệ chung của
toàn bộ thế giới. Đây là cơ sở khoa học khơng chỉ để phân ngành các khoa học mà cịn là
cơ sở để hình thành các khoa học liên ngành.
b. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa
dạng, do đó muốn nhận thức đúng và từ đó có phương pháp tác động có hiệu quả vào mỗi
sự vật phải có quan điểm tồn diện. Quan điểm tồn diện địi hỏi phải xem xét đầy đủ các
mối liên hệ của sự vật đó với các sự vật khác; liên hệ trực tiếp và cả mối liên hệ gián tiếp;
đồng thời xem xét các mối liên hệ giữa các yếu tố, thuộc tính bên trong của sự vật. V.I.
Lênin viết: “ Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả
các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.

Quan điểm tồn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể: phải nhận thức đầy đủ các
mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức
được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự vật tồn tại và xuất hiện các mối liên hệ,
trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của sự vật. Quan điểm toàn diện đối lập
với quan điểm phiến diện, là cách xem xét từng mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không
thấy được mối liên hệ nhiều vẻ đa dạng của sự vật. Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt
động thực tiễn, V.I. Lênin đã nêu lên tư tưởng về sự kết hợp chặt chẽ giữa “Chính sách dàn
đều ” và “Chính sách có trọng điểm” trong “chính sách kinh tế mới”.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng đã nêu lên quan điểm đổi mới toàn
diện và bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối chính sách đối
nội, đối ngoại. Đồng thời Đảng cũng tập trung vào nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
cuộc khủng hoảng về kinh tế- xã hội, tạo tiền đề vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định
chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
III. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
Môi trường sinh thái là tồn bộ các điều kiện vơ cơ, hữu cơ của các hệ sinh thái ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội lồi người. Nó là những
điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong
quan hệ với con người. Còn tăng trưởng kinh tế nhằm cải thiện và phát triển đời sống của
con người.Vì vậy,giữa mơi trường sinh thái và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ biện
chứng chặt chẽ. Như chúng ta đã biết môi trường sống được sinh ra và tồn tại một cách
khách quan độc lập với ý thức con người. Tuy nhiên, sự phát triển của mơi trường lại hồn
tồn phụ thuộc vào ý thức của con người,con người có thể tác động làm cho mơi trường tốt
lên hoặc xấu đi. Tăng trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn toàn phụ
thuộc vào con người nên nó tồn tại chủ quan. Môi trường chịu tác động trực tiếp của con
người, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào con người từ đó ta có thể thấy mơi trường cũng
chịu tác động của tăng trưởng kinh tế và ngược lại, mối quan hệ giữa chúng được thơng
qua một thực thể đó là con người. Môi trường là địa bàn để tăng trưởng kinh tế diễn ra trên

6



diện rộng và cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ lợi ích của con người. Nếu
chỉ tăng trưởng kinh tế mà không nghĩ đến việc cải tạo mơi trường thì một ngày nào đó
tăng trưởng kinh tế tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do môi trường suy thối. Lúc đó con
người phải gánh chịu tác động trực tiếp vì con người khơng thể sống mà khơng chịu sự tác
động của môi trường. Ngược lại, nếu tăng trưởng kinh tế gắn với việc bảo vệ mơi trường
thì khơng những nó làm cho đời sống của con người ngày càng được cải thiện mà nó cịn
làm cải thiện cả môi trường do kinh tế phát triển nhà nước có ngân sách cho những dự án
bảo vệ mơi trường, nguồn tài nguyên bị khai thác được thay thế dần bởi các nguồn tài
nguyên tự tạo.
2. Kinh tế và môi trường sinh thái Việt Nam.
a. Kinh tế công nghiệp
Khi xem xét kỹ hơn những xu hướng phát triển gần đây của nền kinh tế Việt Nam,
có thể nhận ra rằng đất nước này đang chuyển mình nhanh chóng từ một nước nơng nghiệp
sang một nước cơng nghiệp. Nói như vậy, Việt Nam đang chuyển từ kinh tế tập thể sang
kinh tế thị trường. Trong gần hai thập kỷ, kể từ khi có chính sách đổi mới, Việt Nam đã có
nhiều tiến bộ. Chính sách này đã mang lại những thay đổi lớn, tạo ra một nền kinh tế mới
hiện đại, gồm nhiều thành phần, vận hành dưới sự chỉ đạo của Nhà nước trong khuôn khổ
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam trở thành đối tác hợp tác tin
cậy của nhiều quốc gia trên thế giới. Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Cơ cấu
các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng ngành khai khoáng, tăng
nhanh tỉ trọng ngành chế biến, chế tạo.
Đáng chú ý, một số sản phẩm cơng nghiệp xuất khẩu có quy mơ lớn, chiếm vị trí
vững chắc trên thị trường thế giới; năng lực cạnh tranh tồn cầu của ngành cơng nghiệp
tăng lên (theo UNIDO, xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành cơng nghiệp Việt
Nam tăng từ vị trí 58 năm 2015 lên thứ 42 vào năm 2019), phát triển công nghiệp từng
bước đi vào chiều sâu.Kinh tế phát triển cùng với một số ít các nhà máy cơng nghiệp lớn
dần xuất hiện ở Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Hiện nay,
tổng lượng chất thải rắn của cả nước ước tính gần 49.000 tấn/ ngày, trong đó chất thải cơng

nghiệp chiếm khoảng 27.000 tấn / ngày. Công tác quản lý chất thải nguy hại đang gặp
nhiều khó khăn, chưa có đủ kho chứa chất thải nguy hại này trước khi xử lý, chưa có nhà
máy xử lý chất thải độc hại. Hầu hết những chất thải độc hại này chỉ được chôn lấp cùng
với rác sinh hoạt, thậm chí là đổ ngay tại chỗ gây nguy hại đến môi trường sống.

7


Sản xuất và chất thải của các xí nghiệp cơng nghiệp cũng là một vấn đề cần được
bàn luận. Ô nhiễm khơng khí chủ yếu do các nhà máy nhiệt điện và cơng nghiệp hóa chất
gây ra. Chẳng hạn, nồng độ bụi trung bình tại các điểm đo trong nhà máy nhiệt điện Phúc
Lợi đều cao hơn tiêu chuẩn từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy nhiệt điện Uông Bí, nồng độ bụi
trong một giờ từ 4 đến 4,7mg/m3, cao gấp 13 đến 16 lần giá trị cho phép. Xung quanh
nhiều nhà máy, khu cơng nghiệp có nồng độ các khí độc hại như CO2, NO2, SO2, ... cao
hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Điều này gây ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe
cây trồng và người dân sống trong khu vực rộng lớn xung quanh nhà máy. Ngay cả trong
thời gian qua, hầu hết các nhà máy đều lắp đặt thiết bị xử lý bụi nhưng ít nhà máy có thiết
bị xử lý khí độc chủ yếu thải ra khí quyển, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người.

Trong khi Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển, q trình cơng nghiệp hóa
đang diễn ra với tốc độ nhanh và kéo theo đó là những hệ quả tiêu cực của q trình cơng
nghiệp hóa cũng ngày một gia tăng: ơ nhiễm từ máy móc nhập khẩu nước ngồi, ơ nhiễm
tiếng ồn từ các nhà máy... Đây là những vấn đề không thể không kể hết trong một bài tiểu
luận như thế này, nhưng đây là những vấn đề mà theo em cần được xử lý nhanh chóng và
kịp thời.
b. Kinh tế nơng nghiệp
Ngành kinh tế đầu tiên của Việt Nam là nông nghiệp nên Việt Nam có lợi thế rõ
ràng về nơng nghiệp so với các nước. Thực tế, tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt
Nam hiện nay vẫn vượt 50%. Đây cũng là một thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế. 15/15 chỉ tiêu chủ yếu của ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 đều đạt

và vượt mục tiêu đề ra, nổi bật là: Tốc độ tăng trưởng GDP tồn ngành bình qn đạt
2,62%/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 190,5 tỷ USD, riêng năm
2020 đạt 41,25 tỷ USD; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%; hết năm 2020 có 62% xã
đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập của cư dân nông thôn năm 2020 đạt 43 triệu
đồng/người.
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp một cách thực chất, hiệu quả hơn, đạt nhiều kết quả
quan trọng; tạo được sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của toàn xã hội. Quy mơ và
trình độ sản xuất được nâng cao, chuyển dịch mạnh sang sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát
huy các tiềm năng, lợi thế từng vùng, miền để bảo đảm sức cạnh tranh, an tồn thực phẩm,
thích ứng và giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và các rủi ro phi khí hậu gây ra.

8


Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng gây ra ô nhiễm môi
trường nhiều hơn. Hơn nữa, nhu cầu sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến sự gia tăng trồng trọt
trên đất và khai thác tài nguyên thiên nhiên: rừng và nước ngầm đang bị phá hủy. Đây là
một mối đe dọa nghiêm trọng phải được giải quyết nhanh chóng trước khi chúng ta sử
dụng hết các nguồn lực này. Để tăng sản lượng rau quả ... người nơng dân thường sử dụng
một số loại hóa chất, phun thuốc trừ sâu bừa bãi. Điều này không chỉ nguy hiểm cho những
người làm việc xung quanh khu vực sản xuất mà còn cho những người tiêu thụ trái cây từ
những loại cây trồng này.
c. Kinh tế du lịch biển
Với lợi thế bờ biển dài hơn 3.200 km, Việt Nam có nhiều tiềm năng về phát triển du
lịch biển. Các bãi biển đẹp trải dài từ bắc đến nam, với khoảng 125 bãi tắm, trong đó có
nhiều bãi được xếp hạng trên thế giới. Bờ biển Việt Nam có gần 50 vịnh lớn nhỏ, trong đó
có nhiều vịnh được đánh giá cao trên thế giới như các vịnh Hạ Long, Nha Trang, Lăng
Cơ... Biển đảo Việt Nam cịn có tài nguyên sinh vật đa dạng, phong phú như các Vườn
quốc gia Bái Tử Long, Cát Bà, Côn Ðảo, Phú Quốc... Ngồi ra, ở dải ven biển có hơn
1.000 di tích lịch sử văn hóa được Nhà nước xếp hạng; 195 lễ hội dân gian truyền thống và

150 làng nghề tại các địa phương. Ðây là tiền đề để thu hút hàng triệu lượt du khách trong
và ngoài nước đến du lịch tại các tỉnh, thành phố ven biển Việt Nam hằng năm. Những
điều này đã giúp Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh hơn trong khía cạnh kinh tế.
Trong khi tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa ở Việt Nam mang lại nhiều lợi
ích, thì ngành du lịch cũng có tác động lớn đến mơi trường. Nhiều không gian mở đã được
phát triển cho cơ sở hạ tầng bao gồm đường cao tốc, khách sạn, cơ sở thể thao, cơng viên
giải trí và những nơi khác. Tất cả các hoạt động này đang có tác động tiêu cực hoặc hủy
hoại đến môi trường của chúng ta và các môi trường sống tự nhiên.
Theo tiến sỹ Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo (Tổng cục Biển và Hải
đảo Việt Nam), dải ven biển hay đới bờ tại Việt Nam có nhiều nguồn tiềm ẩn gây ô nhiễm.
Hầu hết những chất gây ô nhiễm đều từ đất liền đổ ra sơng và theo dịng sơng đổ ra biển;
bao gồm nước thải sinh hoạt trực tiếp từ khu vực đô thị, thành phố ven biển, nước thải
công nghiệp từ các khu công nghiệp ven biển trực tiếp hay qua cống thải ngầm dưới biển,
nước thải, dầu thải, hóa chất của tầu thuyền trên biển; sự cố dầu tràn của dàn khoan khai
thác, tàu vận tải chuyên chở dầu.Báo cáo hiện trạng môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi
trường cho thấy, hàng năm các con sông thải ra biển 880km3 nước và 270-300 triệu tấn
phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ơ nhiễm biển như: các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim

9


loại nặng và nhiều chất độc hại từ các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp và đô thị,
các khu nuôi trồng thủy sản ven biển và các vùng sản xuất nông nghiệp. Những loại rác
không phân hủy được trôi nổi ven biển, lắng xuống đáy biển, rác phân hủy được sẽ hịa tan
và lan truyền trong tồn khối nước biển.

Ngoài ra, các khu du lịch phát triển nhanh nhưng thiếu quy hoạch, hệ thống xử lý
nước thải cịn ít, chất thải…cộng với ơ nhiễm từ ni trồng thủy sản một cách bừa bãi, nạn
khai thác titan ồ ạt đã và đang tác động xấu đến môi trường biển. Các số liệu thống kê cho
thấy, khoảng 70% ô nhiễm biển và đại dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ những

chất xả thải của các thành phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, y tế,
hóa chất… Trong đó đáng kể và nguy hại nhất là chất thải từ các nhà máy thơng qua hệ
thống thốt nước xả thẳng ra biển và đại dương một lượng lớn các chất bồi lắng, hóa chất,
kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng xạ.
d. Gia tăng mức tiêu thụ
Việt Nam là một quốc gia đang ngày càng khẳng định được tên tuổi của mình trên
thế giới, đặc biệt là về kinh tế. Người dân nơi đây ngày càng hiểu rõ hơn về mức độ họ cần
hàng hóa để hỗ trợ cuộc sống hàng ngày của họ. Một kết quả của việc nâng cao nhận thức
này là sự gia tăng số lượng vật liệu tái chế được thải bỏ, tạo ra một lượng lớn rác một cách
nhanh chóng. Hơn hết, Việt Nam đang trong tình trạng dân số ngày càng đơng với tốc độ
ổn định, đồng nghĩa với việc lưu lượng phương tiện giao thơng trên đường và thậm chí là
lượng ơ nhiễm khơng khí đang tăng lên nhanh chóng. Thêm vào đó, rừng của Việt Nam
đang bị thu hẹp ở mức báo động vì người dân đang dọn đất rừng để nhường chỗ cho các
tòa nhà khi các thành phố tiếp tục phát triển lớn hơn. Nói tóm lại, con người đang làm cạn
kiệt nguồn tài ngun nhanh chóng, nhưng khơng có nhiều chương trình tái chế được đưa
ra để giúp điều chỉnh tất cả chất thải này. Thế giới đang dần bị hủy diệt trước mắt chúng ta
khi chúng ta bất lực đứng nhìn nó xảy ra…
3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường để lại nhiều hậu quả nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe con
người, gây ra các bệnh hiểm nghèo, tăng gánh nặng về y tế, gia tăng thiên tai (bão, lũ lụt,
hạn hán,...), ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, sự cân bằng của hệ sinh thái, biến đổi khí
hậu, suy giảm, cạn kiệt nguồn tài ngun.... Nó cịn gây thiệt hại cho nền kinh tế, mỹ quan
đô thị bị giảm sút dẫn đến nền du lịch phát triển kém. Mưa axít, thủng tầng ơ zơn, tăng hiệu
ứng nhà kính làm Trái Đất nóng lên, băng hai cực tan chảy nước biển dâng cao… Sinh ra
các bệnh đường hô hấp, ung thư da… Hủy diệt các sinh vật sống trong nước. Gây hậu quả
nghiêm trọng đến sự sống và sức khỏe con người. Thiếu nước ngọt cho sinh hoạt. Ô nhiễm,

10



cạn kiệt mạch nước ngầm. Thực vật trồng trên đất ô nhiễm sẽ bị bệnh, con người ăn vào
cũng sẽ bị nhiễm bệnh gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe con người.
4. Giải pháp giải quyết vấn đề
Cách khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi trường đất:


Nghiêm cấm xả nước thải, chất thải và các chất độc hại ra môi trường đất



Giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật



Giảm sử dụng phân khống



Áp dụng nơng lâm kết hợp, lâm ngư kết hợp



Tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân



Dùng nhiệt để khiến các chất độc bốc hơi khỏi môi trường đất

Cách khắc phục tình trạng mơi trường nước bị ơ nhiễm:



Truyền thơng để bảo vệ môi trường



Các luật về môi trường cũng được đưa ra



Cơ quan chức năng cần thường xuyên đôn đốc kiểm tra các cơng ty để tránh tình
trạng các cơng ty vì lợi nhuận mà khơng chấp hành luật



Sử dụng hệ thống lọc có thể loại bỏ mọi chất cặn bẩn, chất độc hại

Biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường:


Nâng cao ý thức của người dân, vứt rác đúng nơi quy định, không xả rác lung tung



Hạn chế sử dụng chất tẩy rửa để ngừa tắc cống thoát nước



Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường




Xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế



Thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường



Nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ phụ trách công tác môi trường



Đầu tư, trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại



Trồng cây, gây rừng



Chôn lấp và đốt rác thải một cách khoa học



Sử dụng năng lượng thân thiện với môi trường như gió, mặt trời

11





Tái chế rác thải



Phịng chóng ơ nhiễm



Sử dụng những sản phẩm hữu cơ



Sử dụng điện hợp lý



Hạn chế sử dụng túi nilon

Các giải pháp giảm nhẹ:


Giảm phát thải khí nhà kính thơng qua việc phát triển mạng lưới giao thơng công
cộng với các phương tiện sử dụng năng lượng sạch như tàu điện, … giảm phương
tiện giao thông cá nhân.



Tập trung phát triển công nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, từng bước loại bỏ,

thay thế các công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường.



Đẩy mạnh phát triển du lịch, tận dụng những lợi thế riêng có để đưa du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt lưu ý gắn phát triển du lịch với bảo vệ môi
trường, đa dạng sinh học và sinh cảnh quý giá của địa phương.

Môi trường là yếu tố hết sức quan trọng trong đời sống chúng ta. Hậu quả nghiêm
trọng mà nó để lại ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống mà nó cịn liên lụy đến sự tồn tại
của con người trên thế giới. Nếu môi trường bị ô nhiễm nó cũng sẽ gây tác động khơng
nhỏ đến mơi trường kinh tế, hệ sinh thái và sức khoẻ của chúng ta. Vì vậy, bảo vệ mơi
trường là tự bảo vệ chính chúng ta.
IV. Lời kết
Việt Nam đang trên con đường cơng nghiệp hóa với nền kinh tế định hướng thị
trường. Chúng ta phải đi từ mục tiêu cơ bản của phát triển xã hội quan trọng nhất là phát
triển để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu dân sinh. Đây là một vấn đề quan
trọng trong cơng cuộc hiện đại hóa kinh tế, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay và trong
tương lai lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm từ các phương pháp lập kế hoạch trước
đây nên được áp dụng đầy đủ để đảm bảo rằng quy trình đảm bảo năng suất tối đa và đảm
bảo chất lượng cuộc sống cao nhất cho mỗi người. Chúng tôi bảo vệ môi trường không
phải là nỗ lực hạn chế sự phát triển kinh tế mà là nỗ lực đảm bảo năng suất tối đa cho quá
trình này, nhằm đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt hơn cho mọi người.
Các giải pháp trên đóng vai trò quan trọng trong mỗi khâu nhỏ của việc bảo vệ mơi
trường sinh thái trong q trình phát triển kinh tế. Nó tựa như riêng biệt nhưng lại có mối
quan hệ mật thiết, liên kết chặt chẽ với nhau nhằm đồng thời nâng cao được kinh tế cũng
như môi trường. Chúng ta phải cẩn thận, chọn lọc trong từng bước thực hiện, đi từ mục
tiêu cơ bản nhất để có được sự trường tồn và bền bỉ. Phải có cái nhìn khách quan, và tổng
bộ với các vấn đề, tránh tình trạng chủ quan duy ý chí trong khi cải cách nền kinh tế. Dựa
vào sắc thái môi trường của riêng Việt Nam để có những biện pháp riêng.


12


Mối quan hệ vền vững là mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau, trong thời đại hiện đại hóa
hiện nay, khi chúng ta liên kết được kinh tế và môi trường vào với nhau thì khơng những
đảm bảo về mặt nhà nước mà đảm bảo đến riêng từng cuộc sống của con người.
Tuy nhiên đây là quá trình lâu dài, cần phải thực hiện từ từ mà chắc chắn, trải qua
nhiều giai đoạn để tạo nên thành quả cuối cùng, nó cần sự nhận thức lý luận, sự quyết tâm,
đồng long, đoàn kết của cả một dân tộc.

Tài liệu tham khảo
1. G.S Lê Quý An, Du lịch và môi trường, Tạp chí Du lịch, số 12, 1999
2. Nguyễn Anh, Hội thảo khoa học môi trường chuyên ngành mỏ luyện kim, hóa chất,
Tạp chí Cơng nghiệp, số 19, 1999
3. Craig Leisher, Mơi trường Việt Nam những điều cần làm, Tạp chí Bỏa vệ môi
trường, số 7, 2001
4. Lê Minh Đức, Bảo vệ môi trường và vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam, con số
và sự kiện, số 12, 1999
5. Th.s Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Đặng Thị Thu Hoài, Hội nhập kinh tế thế giới với bảo
vệ môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Chun đề mơi trường kinh tế, 2001
6. T.S Trần Thanh Lâm, Một tiếp cận mới trong quản lí thương mại và bảo vệ mơi
trường ở Việt Nam, Tạp chí Xây dựng, số 3, 2002
7. Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững, Tạp chí Bảo
vệ mơi trường, số 6, 2002.
8. Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bềnvững, Tạp chí
Bảo vệ mơi trường, số 6, 2002.

13



9. T.s Danh Sơn, Các lợi ích về bảo vệ mơi trường ở nước ta, Tạp chí Bảo vệ mơi
trường, số 2, năm 2001.

14



×