Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học MÁC–LÊNIN đề tài lý LUẬN HÌNH THÁI KINH tế xã hội với CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.65 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC–LÊNIN
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Họ và tên sinh viên

: Cao Hồng Yến

Mã sinh viên

: 2114610041

Số báo danh

: 110

Lớp tín chỉ

: TRI114.7

Giảng viên hướng dẫn

: Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2021



MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU.........................................................................................3
NỘI DUNG..............................................................................................4
I. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI................................................................4
I.1.

Khái niệm.....................................................................................................................4

I.2.

Nội dung.......................................................................................................................4

I.3.

Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế -xã hội..........6

I.4.

Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội............................................8

II. VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA...................................9
II.1. Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.......9
II.2. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay...................................11

KẾT LUẬN............................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................16


LỜI NĨI ĐẦU

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.
Mác xây dựng lên, có vị trí quan trọng trong triết học Mác - Lênin. Lý luận đó đã được
khoa học thừa nhận và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội.
Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên trong lịch sử loài người, C.Mác đã
chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong nội tại của sự phát triển xã hội, bản chất của từng
chế độ xã hội, nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống hết
sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản
của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một q trình lịch sử - tự nhiên
Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói
chung của xã hội loài người.
Song sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu khiển lý luận đó bị phê phán từ
nhiều phía. Sự phê phán đó khơng phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà cịn từ cả
một số người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã
hội của chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý
luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy việc làm rõ thực
chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang là một
đòi hỏi cấp thiết .
Về thực tiễn, tại Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ XI, Đảng đã khẳng định việc
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì những lý do trên việc nghiên cứu đề tài: “Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực
tiễn.


NỘI DUNG
I.


HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

I.1.

Khái niệm

+ Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Với từng giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định thì ở những giai đoạn đó sẽ tồn tại các mặt đối lập, các quan hệ sản
xuất, lực lượng sản xuất, lực lượng lao động sinh hoạt khác nhau với phong tục tập quán
của các nước trên thế giới cũng khác nhau. Trình độ phát triển khác nhau, mỗi nước có
một nền sản xuất, nền kinh tế khác nhau. Nhưng cuối cùng thì đó sẽ là một kiến trúc
thượng tầng được hình thành trong hình thái kinh tế - xã hội đó nó cũng có những kết cấu
và chức năng cùng các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội.
+ Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng sự kiện rời rạc, những cá nhân
riêng lẻ mà xã hội là một chính thể tồn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó có những mặt
cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó
có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động của xã hội. Chính
tính tồn vẹn đó được phản ánh bằng tổng thể các mặt của hình thái kinh tế - xã hội.
+ Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có những thế mạnh
riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó đề nghiên cứu, tìm tịi và phát triển mạnh mẽ
hơn nữa.

I.2.

Nội dung


Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội chỉ rõ xã hội tồn tại được phải có quan hệ giữa
người với người. Trong các quan hệ xã hội đó, quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ sản
xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất trở thành
tiêu chuẩn cơ bản, khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Trên cơ sở, những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá trình lịch sử, C.Mác đã đưa
ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội với
những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Sản
xuất xã hội là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội lồi người, đó là cái
phân biệt “sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người và loài vật”. Sản xuất xã hội bao


gồm 3 hoạt động sản xuất cơ bản: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản
thân con người.
Trong hiện thực, ba quá trình này của sản xuất khơng tách biệt nhau, trong đó sản xuất
vật chất giữ vai trò nền tảng, là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển xã hội và xét đến cùng, nó
là cái quy định và quyết định tồn bộ đời sống xã hội.
Thứ hai, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. C.Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản
xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại
xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng
nghiệp”.
Như vậy, theo C.Mác, lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là cái đóng vai trị quyết định
trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội.
Thứ ba, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trong quan niệm của C.Mác, quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, mặc dù kiến trúc
thượng tầng có khả năng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.

Từ đó, có thể đi tới định nghĩa hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử “dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất
ấy”.
Thứ tư, “sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên”. Con đường vận động phát triển chung của nhân loại là sự tác động của các qui
luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển, thay thế lẫn nhau từ thấp
đến cao. Với mỗi dân tộc, con đường phát triển không chỉ bị chi phối bởi các qui luật
chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện riêng về đặc điểm lịch sử, điều kiện tự nhiên,
về chính trị và truyền thơng văn hố của dân tộc đó. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của
nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Có những dân tộc phát triển lần lượt trải qua các
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc trong những điều
kiện lịch sử nhất định lại phát triển theo con đường bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế
- xã hội nhưng vẫn hợp qui luật phát triển.
Lịch sử nhân loại đã trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau: cộng sản nguyên
thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang xã hội xã hội
chủ nghĩa - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng, xét


từng quốc gia dân tộc thì do những đặc điểm về lịch sử, không phải quốc gia nào cũng
phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo một sơ đồ chung.
Nghiên cứu lịch sử các nước cho thấy, có những nước đã bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Chẳng hạn như ở Italia, Pháp, Tây Ban
Nha..., chế độ phong kiến đã bắt đầu hình thành trong lịng chế độ nơ lệ. Trong khi đó, ở
Nga, Ba Lan, Đức..., chế độ phong kiến ra đời không phải từ chế độ nô lệ. Ở Mỹ, do đặc
điểm lịch sử của nó, chế độ tư bản hình thành trong điều kiện xã hội khơng trải qua chế
độ phong kiến. Ngay ở Việt Nam, trong tiến trình phát triển lịch sử của mình, chúng ta đã
khơng trải qua chế độ nơ lệ.

I.3.


Q trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế -xã
hội

Xã hội lồi người đã phải trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ
sở phát hiện ra các quy luật vân động, phát triển khách quan của xã hội C.Mác đã đi đến
kết luận : " Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên ".
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó các mặt khơng ngừng tác động qua lại
lẫn nhau để tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quy luật cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Chính sự tác động khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội luôn vận động và phát
triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Chính sự phát triển đó đã quyết định đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà
hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn, tiến
bộ hơn. Q trình đó được diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo một ý muốn
chủ quan. Theo quan niệm của V.I.Lênin thì :" Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào
những quan hệ sản xuất và đem những quan hệ sản xuất vào hình thai kinh tế xã hội ".
Trong tồn bộ tiến trình lịch sử phát triển xã hội lồi người, sự thay thế và phát triển từ
chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư
bản chủ nghĩa và cuối cùng là đến xã hội cộng sản. Có được sự phát triển như vậy là do
sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Đúng như C.Mác
đã viết : “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là


cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí về chính trị và

những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó.”
Như vậy xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ
sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực mà trên đó hình thành
nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học đạo
đức, tơn giáo….. cùng với những thiết chế xã hội như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các
đồn thể xã hội được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Như vậy, trong một xã
hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó nhà nước có
vai trị cực kì quan trọng. Đó là tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định.
Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả
các mặt trong đời sống xã hội.
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành các xã hội
cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những trình độ
của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan
niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Sự tác động khách quan của các quy luật đã làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân loại.
Song con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ chi phối bởi các quy luật chung ấy
mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống, văn hóa,
điều kiện quốc tế ….. Chính vì vậy mà lịch sử phát triển của nhân loại là hết sức phong
phú và đa dạng. Mỗi một dân tộc đều có một nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển
của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Tuy nhiên việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên, chứ không
theo một ý muốn chủ quan.
Như vậy. sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên

của sự phát triển xã hội. Q trình đó khơng những diễn ra theo con đường phát triển tuần
tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình
thái kinh tế - xã hội nhất định.


I.4.

Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự ra đời
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân của nó là lý luận hình thái kinh tế-xã hội
đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã
hội.
- Theo lý luận hình thái kinh tế-xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã
hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và
lịch sử nói chung, vì vậy khơng thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan
của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ bản
thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của
phương thức sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất hiện thực.
- Theo lý luận hình thái ý thức-xã hội, xã hội khơng phải là sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa các cá nhân mà là một cơ thể sống động, trong đó các phương diện
của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua
lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trị là quan hệ cơ bản nhất, quyết định
các quan hệ xã hội khác; là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác
nhau. Vì vậy, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận
trừu tượng hóa khoa học – đó là cần xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội
để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa
học,…) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
- Theo lý luận hình thái kinh tế-xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá trình

lịch sử-tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả
những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát
triển của xã hội. Lênin từng nhấn mạnh rằng: “xã hội là một cơ thể sống đang phát triển
không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách
quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải
nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”.
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế -xã hội là những giá trị về
mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại,
lịch sử các cộng đồng người, nó khơng thể thay thế cho những phương pháp đặc thù
trong quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. Lênin đã từng dạy rằng:
“lý luận đó khơng bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một
phương pháp…duy nhất khoa học để giải thích lịch sử”.


II.

VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

II.1. Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc đề ra
chiến lược cho cách mạng nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng. Đường lối
cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng ta nêu ra là sự vận dụng sáng tạo hình thái
kinh tế - xã hội vào điều kiện Việt Nam. Từ xuất phát điểm là một nước nửa phong kiến
thuộc địa, sau khi giành lấy chính quyền, Đảng và nhân dân ta đã quyết định lựa chọn bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội là điều hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Đây là sư lựa chọn hướng đi đúng đắn
và xác định mục tiêu chính xác cho sự phát triển đi lên của đất nước. Việc lựa chọn và

xác định này đã được đảng và nhà nước ta xác định ngay từ những ngay đầu thành lập.
Sau nay thực tế đã chứng minh được rằng sự lựa chọn và xác định ấy luôn đúng với mọi
sự biến động của đất nước.
Bởi lẽ, đất nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Cuộc cách mạng này vừa
tạo ra thời cơ thuận lợi cho phép một quốc gia có thể phát triển nhảy vọt trong một thời
gian khá ngắn, như thực tế nhiều quốc gia đã chứng minh. Nếu chúng ta tận dụng được
thời cơ và vượt qua được thách thức thì có thể tạo ra được những cơ sở để thực hiện sự
phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trên con đường đi tới chủ nghĩa xã
hội.
Mặt khác, ở nước ta tiến trình của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân kéo dài 30
năm đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo nên những tiền đề để nước ta bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu và những tiền đề đó (nhất là những
thành tựu trong lĩnh vực xây dựng kiến trúc thượng tầng và những tiền đề về chính trị, xã
hội), khơng dung nạp sự thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa . Thậm chí, những thành tựu đó sẽ bị hủy hoại, những tiền đề đó sẽ bị phủ định,
nếu đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa .
Tuy nhiên, trước thời kỳ đổi mới, theo tư duy “kiểu cũ”, chúng ta cho rằng sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội là kết quả của sự phủ định triệt để chủ nghĩa tư bản, từ đó có nơi có lúc
cho rằng cái gì càng xa với chủ nghĩa tư bản thì càng gần với chủ nghĩa xã hội. Do sai
lầm chủ quan duy ý chí, nóng vội trong cải tạo xã hội, chúng ta đã nhận thức và vận dụng
chưa đúng quy luật khách quan về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất và mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
đã làm cho đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội rất nghiêm trọng.


Để khắc phục tình trạng khủng hoảng trên của đất nước, Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 81986) đã đưa ra kết luận đối với một số vấn đề quan trọng thuộc về quan điểm kinh tế, đã
tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt:
- Thứ nhất, trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn

lọc;
- Thứ hai, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
- Thứ ba, trong cơ chế quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm trọng tâm, nhưng đồng thời phải
sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp; chính sách phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Công cuộc đổi mới 25 năm qua, cho thấy nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói, nước
ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, thì từ Đại
hội lần thứ IX trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước diễn đạt là: Nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” phải được nhận thức đầy đủ trên cả hai phương
diện:
- Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”.
- Thứ hai, cần phải “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa , đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Có nghĩa là: “Bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến
bộ mà loài người tạo ra trong chế độ chủ nghĩa tư bản. “Bỏ qua” phần lạc hậu của chủ
nghĩa tư bản (địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa ), chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản và sử dụng chúng
vào mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa , nhưng đồng
thời sử dụng những thành quả văn minh trong chủ nghĩa tư bản một cách chủ động và tự
giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều kiện có nhà nước xã hội chủ nghĩa và
với chủ thể mới là nhân dân lao động.
“Bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng nước ta vẫn phải tôn trọng quá trình lịch sử - tự
nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác, đặc biệt, phải tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, của các
nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại

và phát triển của chế độ mới.


Nước ta “bỏ qua’ chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng khơng thể bỏ qua q trình phát triển có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà chủ nghĩa tư bản đã từng trải qua: sản
xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ
thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công nghiệp cơ khí - để chuyển
lao động thủ cơng thành lao động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và
giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
Nhận thức mới của Đảng ta về mơ hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc
cho hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước được bổ sung, hồn thiện.
Thành tựu đó có ý nghĩa lớn nhưng vẫn là bước đầu.Vì, một mặt, nó cần được nâng lên
trình độ cao hơn về lý luận để trở thành một triết lý, hay nói cách khác - một bộ phận chủ
đạo trong chủ thuyết chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; mặt
khác, nó phải được mở rộng sang mọi phương diện và các lĩnh vực quan trọng của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Nghị quyết của các Đại hội Đảng đã nêu thành nhiệm
vụ trực tiếp và đang được quan tâm sâu sắc. Thí dụ: vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa chủ yếu dựa trên chế độ công hữu từ một nền kinh tế đa thành phần, đa sở
hữu hiện nay; vấn đề cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh của thời kỳ khoa học
-cơng nghệ bùng nổ và xuất hiện kinh tế tri thức, đặc biệt là cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp và nông thôn theo con đường xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng và phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , trong đó mấu chốt là xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa , đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp những giá trị dân tộc
truyền thống với những tinh hoa của nền văn minh hiện đại; vấn đề xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập và phải đối mặt với những thách thức từ nhiều
phía...

II.2. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Trong thời đại ngày nay, nhờ cách mạng khoa học - công nghệ, nhờ hợp tác kinh tế quốc
tế đa phương, đa dạng, cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có
thể “rút ngắn” q trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa
là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian,
những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối
với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên chủ nghĩa xã hội. Hình thức kinh tế
trung gian, quá độ điển hình - đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đồng thời, phải tôn trọng
và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của q trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa .


Lý luận về sự phát triển lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội không mâu
thuẫn với lý luận về sự phát triển bỏ qua (hay sự phát triển rút ngắn) mà các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đề ra.
Để có thể phát triển bỏ qua hay rút ngắn lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin cho rằng, đối với các nước tiền tư bản chủ nghĩa phải có tấm gương của
một cuộc cách mạng vơ sản đã thắng lợi ở các nước tư bản phát triển. Đối với Việt Nam,
cho đến nay, những bài học, cả về thành công lẫn thất bại, của các cuộc cách mạng vơ sản
đều hết sức bổ ích.
Là một Đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, gắn bó với quần chúng, trong những
thời điểm phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có sự
khủng hoảng, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới, vượt qua những hiểm nghèo, đưa công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước tiến lên một cách vững chắc.
Từ một nước chậm phát triển, bằng “con đường rút ngắn” đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu
nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ “những mảng của
chủ nghĩa xã hội” với “những mảng của chủ nghĩa tư bản” (Lênin). Trạng thái xen kẽ ấy
làm cho các yếu tố của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố của chủ nghĩa tư bản vừa đấu tranh
với nhau, vừa “chung sống hịa bình”, vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
Do đó, trong thời kỳ quá độ, chúng ta phải hiểu được tính chất q độ, tức là vừa có tính

chất xã hội chủ nghĩa , vừa chưa có đầy đủ hoặc chưa có. Cần qn triệt sâu sắc tính chất
q độ, tính đan xen rất phức tạp này để không được nhân danh khắc phục sự chệch
hướng mà quy chụp cho một thực tiễn đang vận động dẫn đến cản trở, kìm hãm quá trình
đổi mới và phát triển. Mặt khác, càng khơng vì tính chất q độ, tính đan xen rất phức tạp
mà chúng ta thiếu tỉnh táo, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh khắc phục,
đẩy lùi những biểu hiện chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù mang tính chất quá độ,
sự đan xen phức tạp nhưng trong tiến trình vận động của thời kỳ này, thì sau mỗi chặng
đường, mỗi nấc thang q độ, tính chất xã hội chủ nghĩa phải tăng lên.
- Về chính trị, trước hết đó là chiều hướng tăng lên của sự giảm sút vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản và hiệu lực quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. V.I.Lê-nin
đã cảnh báo nguy cơ này bằng việc Người nêu lên hình tượng : Người Bơn-sê-vích cầm
lái nhưng chiếc xe không đi theo hướng lái nữa! Sự chệch hướng về chính trị cịn là
những biểu hiện sai lầm trong đường lối, chính sách của Đảng, trong chiều hướng tăng
lên của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân (cả dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp ở cơ sở).
- Sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế - xã hội thể hiện nổi bật trong
chiều hướng tăng lên của sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước, của kinh tế tập thể, của
tình trạng tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước khu vực và thế giới, sự tăng lên


của sự phân cực xã hội, phân hóa giàu nghèo cùng với sự tăng lên của tình trạng áp bức,
bóc lột, bất công.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định nền
tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu, lý tưởng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, quán triệt sâu sắc và
kiên quyết thực hiện thắng lợi đường lối Đại hội IX của Đảng là: Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta
là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng

tầng về chính trị, tư tưởng, văn hố phù hợp, tạo cơ sở đề nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng,
toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện
đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải quán triệt sâu
sắc 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức từng bước hiện thực hóa thắng lợi. Đó là:
1. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh;
2. Do nhân dân làm chủ;
3. Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triểntoàn diện;
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ;
7. Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nắm vững và kiên
quyết thực hiện thắng lợi phương hướng cơ bản mà "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa" đã xác định :
Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của


nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và của nhân dân.

Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân
phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho
thế giới quan Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các
dân tộc trong nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn
minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ trí thức, đạo đức, thể lực
và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn
kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn ln nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp, là khát vọng của cả dân tộc. Giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa là trọng trách vẻ vang của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh.


KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là nền tảng chính của mọi quốc gia trên thế giới vì nó
chính là nền tảng kinh tế - xã hội của mọi nước, mà trong đó những yếu tố để hình thành
nên hình thái kinh tế - xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc
thượng tầng, sinh hoạt, văn hoá xã hội ... là nhân tố chính của hình thái kinh tế xã hội .
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, của
năng lực thực tiễn của con người. Lực lượng sản xuất làm ra tư liệu sản xuất cho xã hội,
từ lực lượng sản xuất này sẽ nảy sinh ra quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người và người
trong quá trình sản xuất, và cũng thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, tư liệu lao
động là xương cốt bắp thịt của sản xuất, trong quá trình lao động thì cơng cụ lao động
ln được cải tiến. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất có vai trị quyết định nhất. Từ lực lượng sản xuất sẽ hình
thành nên một tổng thể đó là kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư
tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định và đều có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển
riêng nhưng khơng tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và nảy sinh
trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
Vậy xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở Việt Nam thì nhất thiết các yếu tố lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, sinh hoạt, văn hoá ... khơng thể thiếu
một yếu tố nào được mà nó phải gắn bó, liên kết cùng nhau trên con đường phát triển của
đất nước. Biết tìm ra những phương pháp có hiệu quả phù hợp với đất nước như xây
dựng nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên
tắc nhân dân lao động, mở rộng giao lưu quốc tế... sẽ làm cho hình thái kinh tế nước ta

phát triển hơn. Chính những điều đó sẽ có ý nghĩa rất tốt đối với các mặt trong tổng thể
hình thái kinh tế xã hội với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó sẽ thúc đẩy
phát triển kinh tế lực lượng lao động sẽ có việc làm và khơng bị dư thừa, đời sống văn
minh lịch sự, thu nhập quốc dân tăng thì tổng thể hình thái kinh tế - xã hội của nước ta sẽ
phát triển, nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế của nước ta đi lên. Muốn vậy nước ta phải thực hiện
tốt đường lối đổi mới toàn diện mà Đảng đã đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần VII của Đảng: Thơng qua "Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, ngày 27-6-1991. (1991). Báo điện tử Đàng
cộng sản Việt Nam.
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin. (2007). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
3. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin. (2010). Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia.
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin. (2010). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
5. Bàn luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. (2021). Tạp chí cộng
sản.



×