Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MACLENIN VỀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, LIÊN HỆ VỚI THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.16 KB, 27 trang )

lOMoARcPSD|11029029

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LENIN VỀ THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, LIÊN HỆ VỚI THỜI
KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

GVHD

: NGUYỄN THỊ QUYẾT

Lớp

: 94CLC thứ 6 tiết 1-2

Nhóm : 5

MSSV:

VÕ KHÁNH

20145040

LÊ ĐỨC TRÍ

20145041

NGUYỄN BẰNG PHI



20145570

LÊ THANH QUYỀN
PHAN TẤN TÀI
ĐÀO HỮU PHÚC


lOMoARcPSD|11029029

MỤC LỤC


lOMoARcPSD|11029029

Mở đầu
Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, chúng ta cần tìm hiểu quan điểm của Mác về thời
kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (cũng tức là
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, bởi vì chủ nghĩa xã hội
được Mác hiểu là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản). Thời kỳ quá độ từ xã hội
tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa khác với thời kỳ quá độ từ xã hội
tiền tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu quan điểm của Mác về thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội tiền tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cách hiểu về
quan điểm ấy của Mác vẫn chưa có sự thống nhất1. Tiểu luận này góp thêm một
cách chú giải đối với quan điểm của C. Mác về thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ
nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (gọi tắt là thời kỳ quá độ).
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lenin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai
cấp vơ sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc
khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: lịch sử
xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái


lOMoARcPSD|11029029

kinh tế - xã hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa có sự khác biệt về chất, trong đó khơng có giai cấp đối kháng, con người
từng bước trở thành người tự do…, Bởi vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ
chính trị. C. Mác khẳng định:” Giữa xã hội tư bản nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng
với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga xô viết cũng khẳng định:”Về lý luận, khơng
thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một
thời kỳ quá độ nhất định”
Mong muốn có ngay một chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp đề thay thế xã hội tư
bản chủ nghĩa bất công, tàn ác là những điều tốt dẹp, là khát vọng chính đáng; song
hành theo các nhà kinh điển, điều mong ước ấy khơng thể có cánh với phép màu
”cầu được ước thấy”; giai cấp vơ sản cần phải có thời gian để cải tạo xã hội cũ do
giai cấp bóc lột dựng nên và xây dựng trên nền móng ấy lâu dài của chủ nghĩa xã
hội.

Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa
xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa
cộng sản: 1) Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay thời kỳ
quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng
diễn ra; 2) Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với
những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên thế giới một thế kỷ qua,
kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây. Trung Quốc, Việt Nam và một số


lOMoARcPSD|11029029

nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, theo đúng lý luận Mác – Lênin, đều đang trải
qua thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ phát triển khác nhau.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng: chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái
cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo mà là kết
quả của phong trào hiện thực, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cho
rằng: Các nước lạc hậu với sự giúp đỡ của giai cấp vơ sản đã chiến thắng có thể rút
ngắn được quá trình phát triển:”với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng,
các dân tộc lạc hậu có thể rút ngắn khá nhiều q trình phát triển của mình lên xã
hội chủ nghĩa và tránh được phần lớn những đau khổ và phần lớn các cuộc đấu
tranh mà chúng ta bắt buộc phải trải qua ở Tây Âu”. C. Mác, khi tìm hiểu về nước
Nga cũng chỉ rõ:” Nước Nga…có thể khơng cần trải qua đau khổ của chế độ( chế
độ tự bản chủ nghĩa – TG) mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy”
Vận dụng và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới,
sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định:” với sự giúp đỡ của giai cấp vô
sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xơ - viết, và qua
những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa(hiểu theo con đường rút ngắn – TG)”
Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác –

Lênin, trong thời đại ngày nay, thơi đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại,
trong bối cảnh tồn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau
khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản có thể tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
1.2. Đặc điểm của thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội


lOMoARcPSD|11029029

Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Xã hội của
thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh
tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang tính chất xã
hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã
phát triển trên cơ sở của chính nó.

Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách
mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời
sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Có thể khái qt những đặc điểm cơ bản của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ từ chũ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện
kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần
đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng:” Vậy thì danh từ q
độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ
hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ

nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có.
Song khơng phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành
phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế
nào? Mà tất cả then chốt của vấn dề lại chính là ở đó”. Tương ứng với nước
Nga, V.I.Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế
gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Trên lĩnh vực chính trị:


lOMoARcPSD|11029029

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện
chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chun chính vơ sản mà thực chất của
nó là việc giai cấp cơng nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp
giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự
thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân
chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính
với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng
với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu
tranh diễn ra trong điều kiện mới - giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cầm quyền, với nội dung mới – xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là
xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới – cơ bản là hịa bình tổ
chức xây dựng
- Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa:
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thông
qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vơ
sản, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa

văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cần văn hóa – tinh thần ngày càng tăng
của nhân dân.

- Trên lĩnh vực xã hội:
Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kỳ quá độ còn
tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội,
các giai cấp, tần lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ
quá độ cịn tồn tại sự khác biệt giữa nơng thơn, thành thị, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, về phương diện xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất cơng,
xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã
hội trên cơ sở thực hiên nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo
1.3 Những đặc trưng cơ bản của cnxh


lOMoARcPSD|11029029

Vừa dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa dựa trên thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và tổng kết lý luận, chúng ta có thể nêu ra những
đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa sau đây:
1.3.1 Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ
nghĩa) là nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Cả mặt thực tế, cả lơgíc - lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ
nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụgiải quyết những mâu
thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết
mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản xuất ngày
càng hiện đại hơn với chếđộ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hồn thiện,
phải cao hơn so với chủnghĩa tư bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã
có lực lượng sản xuất cao (như G7...) thì lên xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô

sản ởđó chủyếu chỉ phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị thành cơng. Khi đó
chính trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao là một cơ sở rất thuận lợi cho
việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội - cảquan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chếđộ tư bản chủ nghĩa" (nhưViệt Nam và
các nước khác) thì đương nhiên phải có q trình thực hiện cơng nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹthuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam,Cuba... đang đẩy mạnh quá trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố với tốc độkhá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn và ngày càng
vững chắc.
1.3.2 Xã hội xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chếđộ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết
lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội khơng xố
bỏ chếđộ tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chếđộ tưhữu tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất (còn các chếđộ tư hữu khác: chếđộ tư hữu chủ nơ, phong kiến, xét
trên tồn cầu thì đã bị chủ nghĩa tư bản xố bỏ trước đó rồi). Bởi vì chếđộ tư hữu
tư bản chủ nghĩa đã nơ dịch, ápbức bóc lột giá trị thặng dưđối với đại đa số nhân
dân lao động, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản
lũng đoạn và giai cấp thống trị xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đanxen nhiều giai
cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ


lOMoARcPSD|11029029

chế sản xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể
như thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể cịn bóc lột những cá nhân
khác. Đó chỉ là những quan hệbóc lột cụ thể chứ khơng phải xem xét trên cả một
chếđộ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và Đảng
Cộng sản Nga,sau một thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng

thu lương thực... do yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏchính
sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ
thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP) với kinh tếhàng hoá 5 thành phần và tự
do lưu thơng hàng hố trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng
kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xố bỏ một cách nóng
vội những đặc điểm trên, savào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối
thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I. Lênin về
nền kinh tếquá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.3.3 Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác
của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từbản chất và mục
đích đó mà các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho
đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới của
bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội
tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao
động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy
định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ luật
tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủđích thực của mình
trước xã hội, trước mọi cơng việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương
nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới tựgiác như
thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hồn thiện chủnghĩa xã hội.
1.3.4 Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số
lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả
lao động của họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừđi một số khoản đóng góp
chung cho xã hội. Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một
trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.



lOMoARcPSD|11029029

1.3.5 Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân
dân
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định rõ
bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chun chính vơ sản. Thực chất nhà
nước đó là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông
qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao
động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân
ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước, theo V.I. Lênin, nhà nước
chun chính vơ sản (haynhà nước xã hội chủ nghĩa) khơng cịn ngun nghĩa như
nhà nước của chủnghĩa tư bản, mà là "nhà nước nửa nhà nước", với tính tự giác, tự
quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của
chính mình ngày càng rõ hơn.
1.3.6 Xã hội xã hội chủ nghĩa là chếđộđã giải phóng con người thốt khỏi áp
bức bóc lột, thực hiện cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội,tạo những điều
kiện cơ bản để con người phát triển tồn diện.
Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính trị
suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, vềđời sống vật chất và
tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độkinh tế, mức sống vật chất của
nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã khơng cịn
chếđộ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chếđộ xã hội. Đây là những tiền đề
chính trị, kinh tế khác vềbản chất so với các chếđộ cũđể từng bước thực hiện việc
giải phóng con người và phát triển con người tồn diện. Khơng có những tiền đề cơ
bản đó khơng thể giải phóng con người, khơng thực hiện được cơng bằng, bình
đẳng, tiến bộ và văn minh xã hội... Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói
trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn còn giai cấp, cịn nhà nước, trước hết bình
đẳng giữa các cơng dân, giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù họở thành phần

kinh tế nào...) trước pháp luật chung của nhà nước; bình đẳng nam - nữ, bình đẳng
giữa các dân tộc và đồn kết tồn dân tộc, v.v..
2.1 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các
căn cứ sau đây:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ cịn có sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái


lOMoARcPSD|11029029

lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong
lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là
đối với những nước cịn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này cịn có thể rất dài với nhiều bước quanh
co.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ
những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối
với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật
đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại cơng
nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải
là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ
của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua q trình cơng nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ

nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vơ cùng to lớn và đầy khó khăn,
khơng thể “đốt cháy giai đoạn” được.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển
những quan hệ đó.
Bốn là, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động khơng thể ngay lập tức có thể đảm đương được cơng việc ấy, nó cần
phải có thời gian nhất dịnh.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn
phát triển chĩ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước cịn ở trình
độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài
với rất nhiều khó khăn, phức tạp.


lOMoARcPSD|11029029

2.2 Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.

+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất
yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khơng thể dùng ý chí để xóa bỏ
ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước cịn ở
trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác
lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó
là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao
động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức,
những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo
từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa
đấu tranh với nhau.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng
công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại khơng cịn là giai
cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân
và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện
mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các



lOMoARcPSD|11029029

lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức
mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền
vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
- Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát
triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao
động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất địnk không thể theo
ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tn theo tính tất yếu khách quan của các quy
luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua q trình cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất
yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm
của thời kỳ q độ phải là tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác
nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội
dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch
sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến
trình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong lĩnh vực chính trị:

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quvền làm chủ trong hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức
chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động;
xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các
nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:


lOMoARcPSD|11029029

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm
lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên
thế giới.
+ Trong lĩnh vực xã hội:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước
khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền
đề cho sự tự do của người khác.
3. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa và thời kỳquá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở việt nam
3.1. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá trình

cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa.
"Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bìnhđẳng, đồn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sựlãnh
đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới".
Có thể xem đây là mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng trong
mơ hình đó vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến các đặc
điểm của thời đại. Tuy nhiên, ởđây vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên
cứu sâu và cụ thể hoá.
3.2Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hiện nay.


lOMoARcPSD|11029029

3.2.1Những đặc trưng bản chất của xã hội Việt Nam
Việt Nam đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện của nước ta Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là những nét khái quát: Xã hội
không có áp bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, làm
theo năng lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh thần cao; con
người được phát triển toàn diện; xã hội cơng bằng, bình đẳng; có chế độ cơng
hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân; v.v.. Hơn nữa, trong một thời

gian dài, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung
đã bị biến dạng và tụt hậu không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước thành trì của
chủ nghĩa xã hội.Đại hội IV(1976),Đảng ta đã nhận thức được chủ nghĩa xã hội
và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới dừng ở mức định hướng.
Đến đại hội VII, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
đã được sáng tỏ, không chỉ dừng lại ở mức định hướng mà đã đạt tới trình độ
định hình, định lượng. Đến đại hội XI,trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới Đảng
ta đã có những bước phát triển mới. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh,
chuẩn hóa một số nội dung và cơ đọng hóa một số đặc trưng về mục tiêu, bản
chất, nội dung của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã xây dựng đó là:
1 - Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây
dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Đây là đặc trưng phổ qt, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể
hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so
với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống vật chất và tiện nghi
rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ
xã hội tư bản, ở đó khơng thể có cơng bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư
sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột.
Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã hội. Giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước
mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa
xã hội.


lOMoARcPSD|11029029

Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là q trình gian khổ và lâu

dài trong hồn cảnh Việt Nam - một nước đang phát triển, nền công nghiệp còn
hạn chế. Nhưng để trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng nêu
trên, toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của
xã hội. Và, Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện
thực.
Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực
tiễn để thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công
bằng” và “văn minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước
pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v..
2 - Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là
xã hội của lồi người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ
mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh
cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh
giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân
dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc
trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể
hiện vai trị chủ thể của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ”
trong đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo
chế độ và nguyên tắc dân chủ. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể
hiện xã hội “do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta; với bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta
phải nhanh chóng xây dựng và hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo
đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán

bộ, cơng chức phải là “cơng bộc” của nhân dân, hồn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ.


lOMoARcPSD|11029029

3 - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên
quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực lượng
vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng
và phát triển của xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực
hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển trên
cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất
hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của
nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức
sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ
phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và lơ-gíc
vận động như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó;
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển
cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
4 - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát
triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội.
Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy,
nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn

hóa phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại,
đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà
thêm bản sắc riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì
vậy, chính là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức
mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn
hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên
tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là
động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội
chủ nghĩa là tiến bộ, khoa học và nhân văn. Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng
chất và cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội cũng chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa


lOMoARcPSD|11029029

là xã hội văn hóa cao. Những phẩm chất, những giá trị của xã hội xã hội chủ
nghĩa là những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã hội tương lai. Tuy nhiên,
nói như vậy khơng có nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đại đồng
không tồn tại những bản sắc riêng biệt. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn
hoa muôn sắc các phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng
đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại, tơn vinh, phát huy, phát triển.
Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm
đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa
Việt Nam.
5 - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
tồn diện”.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những
giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực thể

cao nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu và bí
ẩn gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng
và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế giới
Người - thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người
đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao
đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội xã hội
chủ nghĩa, trình độ phát triển của xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, là bản chất và trình
độ phát triển người, của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no
cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là khơng
bao giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do
khơng chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nơ dịch, kìm
hãm về mặt xã hội. Điều quan trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ,
tình cảm và năng lực vốn có để thực hiện những khát vọng cao đẹp của mình.
Sự phát triển tồn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã
hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như C.Mác đã nói. Đặc trưng
người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có,
đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái
yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao
nhất của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con
người, đó là một xã hội văn hóa cao.
6 - “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển”.


lOMoARcPSD|11029029

Nếu như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những yếu tố
thuộc phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng này đòi
hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh. “Bình

đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và
chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là
bảo đảm bình đẳng khơng chỉ cho cá nhân người cơng dân, mà cịn ở cấp độ
cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Ngay trong xã hội
hiện đại, ở các nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các tộc người, các dân
tộc cũng đang là vấn đề nan giải. Mặt khác, “đồn kết” là sức mạnh - đó là một
chân lý. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã kêu gọi: Những người lao động ở tất cả các nước
trên thế giới đồn kết lại (C.Mác); cịn trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
thành công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đồn kết” chính là nền tảng của sự “tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tơn trọng và giúp nhau khơng chỉ là tình
thương, lịng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện
thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu
chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết tồn dân, tơn trọng và giúp đỡ
nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ
đây, tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7 - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình độ cao
và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã hội bằng
pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì ai?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất
nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy,
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa

các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật đó
và khơng ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động


lOMoARcPSD|11029029

của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân
cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Tiếp tục hoàn
thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa
hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực
hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
8 - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia
là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hịa
hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành
quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn q trình phát triển
của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”,
“phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hịa đồng theo bản chất trí tuệ và
tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người; điều
thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Qua đó chúng ta thấy quan điểm, đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam trước sau đều phù hợp với bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa nêu
trên. Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Và chính nó là yếu tố, điều kiện để Việt Nam phát triển

nhanh chóng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được đặc
trưng nêu trên, Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ, hịa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.
3.2.2 Phương hướng xây dựng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8
phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như
sau:
Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.


lOMoARcPSD|11029029

-Những luận điểm đã rõ:
Nhìn nhận cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển
mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách tồn diện hơn: cơng nghiệp
hóa gắn hiện đại hóa; gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế
tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa với bảo vệ tài ngun, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và
kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nông thôn là phù hợp thực tế Việt Nam.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Tiêu chí của một nước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như tiêu chí của nền
kinh tế tri thức vận dụng vào điều kiện cụ thể Việt Nam chưa thống nhất. Từ đó

làm cho chúng ta cịn lúng túng về biện pháp, con đường, điểm đột phá để thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như xây dựng nền kinh tế tri thức.
Chúng ta cũng chưa nhận thức rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân trong thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển kinh tế tri thức. Trong cơng nghiệp thì đột phá ngành gì, ưu tiên
ngành gì cũng cịn lúng túng. Trong nơng nghiệp cũng tương tự như vậy, chưa
chọn được khâu đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn.
Ngun nhân hạn chế:
Chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, về
kinh tế tri thức; cịn cầu tồn q về nghiên cứu lý luận nên chậm trong triển
khai thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta chậm tổng kết thực tiễn thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết cho thực hiện phương
hướng này.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
-Những luận điểm đã rõ:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán, lâu
dài mơ hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mơ hình kinh tế này đã
được nêu ra và về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại
hội XII của Đảng, những đặc trưng của mơ hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị
trường hiện đại hơn.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Vẫn chưa thống nhất trong Đảng, nhất là trong xã hội về những đặc trưng cơ
bản của mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là


lOMoARcPSD|11029029


việc cụ thể hóa những đặc trưng này trong từng lĩnh vực để bảo đảm giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, còn lúng túng trong tổ chức thực hiện. Do
vậy, cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại và biểu hiện biến tướng phức tạp.
Nguyên nhân hạn chế:
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về vấn đề này cịn chậm. Cịn những
nhóm lợi ích nhóm xấu tìm mọi cách giữ lại cơ chế “xin – cho”. Hơn nữa, đây
là mơ hình kinh tế mới chỉ có ở nước ta, nên khơng thể học hỏi kinh nghiệm các
nước khác được.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
-Những luận điểm đã rõ:
Nhận thức tồn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
cũng như mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững
được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu và động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là
sức mạnh nội sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh
tế, văn hóa trong chính trị; tư duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực
của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế;
đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trên lĩnh
vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu
chính trị.
Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy đủ
hơn về vai trị, vị trí của giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư cách
là quốc sách hàng đầu. Đã gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Chế độ phân phối
đã thể hiện được tinh thần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng.

Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ xã
hội chủ nghĩa còn chung chung, chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Xã hội công dân
chưa được nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc chỉ đơn thuần là phủ định. Chưa đề
ra được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt Nam; hệ giá trị con người Việt Nam.
Chưa có giải pháp đột phá để bứt phá về giáo dục, đào tạo; phát triển khoa học
công nghệ; trọng dụng nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng ở tư tưởng,
quan điểm chưa hoặc chậm triển khai trên thực tế.
Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta còn chủ quan và chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trị, vị trí của một
số vấn đề văn hóa, xã hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa học và công


lOMoARcPSD|11029029

nghệ trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận thức hết vai trị sức mạnh mềm
của văn hóa. Cịn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, cịn tâm lý chỉ chú ý lo tăng
trưởng GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây dựng xây dựng văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội.
-Những luận điểm đã rõ:
Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ
giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng
như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với với yêu
cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Trên thực
tế, phương hướng bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự
an tồn xã hội ln gắn với nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt
phù hợp thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được
thay thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng đường lối quốc phòng, an

ninh nhân dân với kiên quyết, kiên trì giữa vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Nhận thức lý luận về vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ xa vẫn
cịn chung chung, chưa cụ thể. Có những vấn đề liên quan đến nội bộ trong đời
sống xã hội của nhân dân gắn với an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của
nhân dân như “Luật biểu tình” chưa được nhận thức giải quyết triệt để, còn các
ý kiến trái chiều. Đây là một trong những nguyên nhân chưa giải quyết triệt để
vấn đề tụ tập đông người, lợi dụng dân chủ, “dân chủ quá trớn” gây mất trật tự,
an toàn xã hội cho người dân. Vấn đề an ninh phi truyền thống chưa được quan
tâm đúng mức. Việc nghiên cứu những dự báo chiến lược về lĩnh vực quốc
phòng, an ninh chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Đặc biệt là những
nhận thức và tư duy chiến lược về vấn đề biển Đông chưa chủ động, còn chậm
so với một số nước khác trong khu vực, thậm chí có lúc bị động, cịn có biểu
hiện chạy theo lợi ích kinh tế mà coi nhẹ chiến lược quốc phòng, an ninh.
Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa tập trung nghiên cứu, giải quyết dứt điểm những vấn đề liên
quan quốc phòng, an ninh nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá mức dẫn tới
“né tránh” vấn đề.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
-Những luận điểm đã rõ:
Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương


lOMoARcPSD|11029029

lĩnh. Từ “sẵn sàng là bạn” “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” chúng

ta đã chuyển thành công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy,
là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế” tức là cơng tác đối ngoại ngày càng tồn diện hơn. “Đối
ngoại nhân dân” đã được thay bằng “Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta luôn giữ
vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược bằng những biện pháp,
hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, giải
quyết các tranh chấp bằng thương lượng hồ bình.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc cịn khác nhau:
Tính tới tháng 9/2018, Việt Nam có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 16 đối tác
chiến lược (bao gồm cả 3 đối tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện
nhưng chúng ta chưa có “chiến lược, chương trình, nội dung” cụ thể cho từng
đối tác và chưa có trọng tâm, trọng điểm để đột phá về đối ngoại.
Nội hàm của khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, chủ quyền, cùng thế
nào là ưu tiên bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay còn chung chung, chưa rõ.
Nguyên nhân hạn chế:
Chưa xác định thật rõ liên minh hay liên hiệp mà mình phải dựa vào khi tình
hình khó khăn, trong khi bối cảnh thế giới biến động khơn lường. Do vậy,
chúng ta cịn rất cẩn trọng trong xác định từng đối tác cụ thể trong đối ngoại.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về những vấn đề trên còn chậm,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. -Những luận điểm đã
rõ:
Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi
mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất
nước”. Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ
xã hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Gắn xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân tộc

được mở rộng trên cơ sở “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn trước kia trên cơ sở
các “dân tộc trong nước”. Lấy điểm tương đồng về mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, phương thức thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra chưa rõ” cho nên việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân
còn hạn chế. Cơ chế, điều kiện thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân còn
hạn chế. Phương thức hoạt động hiệu quả nhất trong điều kiện quá độ lên chủ


lOMoARcPSD|11029029

nghĩa xã hội ở Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
và các đồn thể nhân dân chưa rõ. Bệnh hành chính hóa, nguy cơ quan liêu hóa
của các cơ quan này được nhận thức từ sớm nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu,
triệt để khắc phục.
Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa quyết liệt giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, bằng lịng
với kết quả đã có. Chưa tổng kết thực tiễn, xây dựng mơ hình thí điểm hoạt
động của Mặt trận đồn kết để tìm ra phương thức hoạt động tối ưu. Chưa quyết
liệt tổng kết thực hiện việc thí điểm nhân dân bầu trực tiếp một số chức danh
lãnh đạo ở cấp cơ sở và cấp quận (huyện) để tổ chức thực hiện trên cả nước.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. -Những luận điểm đã rõ:
So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa
được khẳng định trong phương hướng xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng
đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.

Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Chúng ta mới chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mà chưa thấy được đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân
dân hiệu quả nhất, cũng như phương thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
thực tế nhất trong điều kiện hiện nay.
Mơ hình, cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn chưa
rõ, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Cụ thể cơ chế “phân cơng,
phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong
thực hiện quyền lực nhà nước chưa được làm rõ. Do vậy, chưa có cơ chế ngăn
chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Chúng ta phủ định mô hình “tam quyền phân lập” của phương Tây một cách
giản đơn mà khơng nghiên cứu để tìm ra “hạt nhân hợp lý”, gạt bỏ những bất
hợp lý không phù hợp điều kiện Việt Nam.
Nguyên nhân hạn chế:
Đây là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên cứu về mặt lý luận một
cách toàn diện, bài bản. Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được thực tiễn xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra bài học cho việc
kiểm soát quyền lực tốt hơn. Chúng ta chưa quyết liệt trong việc loại bỏ những
cơng chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy
nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai nhiều nhiều nhưng
kết quả rất hạn chế.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. -Những luận điểm đã rõ:


×