Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.32 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lời mở đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ nông
dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông
dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ công
nghệ và quản lý cao hơn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá và nâng
cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với
nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình
nông dân và một tỷ lệ đáng kể của gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, bộ
đội, công an đã nghỉ hưu. Với nguồn gốc đa dạng, sử dụng lao động của gia
đình là chủ yếu; một số có thuê lao động thời vụ và lao động thường xuyên,
tiền công lao động được thoả thuận giữa hai bên. Hầu hết vốn đầu tư là vốn tự
có và vốn vay của cộng đồng; vốn vay của tổ chức tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng
thấp. Phần lớn trang trại phát huy được lợi thế của từng vùng, kinh doanh
tổng hợp, lấy ngắn nuôi dài.
Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn
vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá,
nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biển; tạo thêm việc làm cho lao
động nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo; tăng thêm nông sản hàng hoá.
Một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ
thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng.
Và trong xu hướng chung đó tỉnh Thanh Hóa cũng đang trong quá trình
phát triển nhanh chóng số lượng trang trại cả về số lượng lẫn chất lượng. Quá
trình phát triển trang trại ở Thanh Hóa đã phần nào thu được những kết quả
khả quan như thay đổi bộ mặt nông thôn, góp phần tăng thu nhập cho hộ nông
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dân… Tuy nhiên do xuất phát điểm thấp và cũng mới trong giai đoạn đầu tìm


hướng ra cho hộ nông dân, nên tình hình phát triển trang trại ở Thanh Hóa
vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần tìm hướng giải quyết. Với bản thân là 1 sinh
viên khoa Kinh Tế Nông Nghiệp& Phát Triển Nông Thôn thuộc trường Đại
Học Kinh Tế Quốc Dân và hơn hết là con em địa phương. Vì vậy em đã chọn
đề tài:
“ Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2006 – 2010.”
Nhằm vận dụng 1 phần kiến thức đã học được vào thực tế tỉnh nhà.
Em xin chân thành cảm ơn!
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
I.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG KINH TẾ TRANG TRẠI
I.1.1Khái niệm
Do đặc điểm nước trong thế kỷ vừa qua xảy ra nhiều biến động lớn như
phải trải qua 2 cuộc chiến tranh kéo dài để giành độc lập, rồi giai đoạn xây
dựng đất nước sau chiến tranh và đất nước chỉ thực sự đổi mới toàn diện đất
nước từ sau đại hội Đảng VI năm 1986. Chính vì những biến động đó mà kinh
tế trang trại cũng có những thăng trầm theo biến cố của lịch sử. Từ đó hình
thành nên những cách nhìn nhận rất khác nhau của Đảng và nhà nước về
thành phần kinh tế trang trại như:
Trước năm 1986 kinh tế trang trại được xem là loại hình kinh tế tư sản
nên không được nhà nước công nhận và khuyến khích phát triển.
Sau 1986 Đảng và nhà nước ta chính thức công nhận loại hình kinh tế
trang trại. Từ đây hình thành nên khái niệm về kinh tế trang trại; Kinh tế trang
trại gồm nhiều nguồn gốc sở hữu khác nhau như: các doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh nông nghiệp, hộ nông dân sản xuất
nông nghiệp.

Những năm 90: đây là giai đoạn kinh tế trang trại sau 1 thời gian hoạt
động hiệu quả được nhà nước khuyến khích phát triển bắt đầu đi vào hoàn
thiện. Từ đó hình thành nên cách hiểu khác về trang trại như: trang trại là hình
thức phát triển cao của kinh tế hộ là chủ yếu. Ngoài ra còn thu hút 1 số thành
phần khác như công nhân viên chức nhà nước& lực lượng vũ trang đã nghỉ
hưu, các loại hộ thành thị và cá nhân chuyển sản xuất( bao gồm nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm
các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Tuy nhiên dù thành phần
chủ sở hữu như thế nào thì trang trại vẫn mang bản chất kinh tế hộ.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Gần đây khái niệm kinh tế trang trại được thống nhất hiểu theo cách sau:
kinh tế trang trại là 1 hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp
được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nông dân có mức tích
tụ và tập trung cao hơn về đất đai, vốn, lao động, kỹ thuật… Nhằm tạo ra khối
lượng hàng hóa nông sản lớn hơn, với lợi nhuận cao hơn theo yêu cầu của kinh tế
thị trường , có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I.1.2. Đặc trưng kinh tế trang trại
I.1.2.1. Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thủy
sản hàng hóa với quy mô lớn
trưng này của kinh tế trang trại là một bước tiến so với kinh tế hộ nông
dân. Nếu như kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hóa là để tự cung tự cấp; thì
kinh tế trang trại phát triển với mục đích sản xuất ra hàng hóa để bán trên thị
trường. Đây là bước tiến bộ không chỉ trong nhận thức, tư duy của chủ trang
trại, mà còn thể hiện khả năng hòa mình hội nhập với nền kinh tế thị trường.
Đã qua rồi cái thời người nông dân tự cung tự cấp, có sản phẩm thừa thì mang
ra chợ bán hoặc trao đổi với người khác. Trong nền kinh tế thị trường mang
đầy tính biến động và cạnh tranh khốc liệt giữa những nhà sản xuất, không chỉ
là cạnh tranh với những doanh nghiệp trong nước mà trong thời kinh tế mở

của hội nhập như hiện nay còn phải cạnh tranh với hàng hóa ở khắp nơi trên
thế giới đổ về Việt Nam(đặc biệt là hàng hóa nông sản). Việc xác định sản
xuất ra hàng hóa để bán là sự chuẩn bị về tư tưởng, tâm lí, hàng hóa để đương
đầu với cạnh tranh trên thị trường trong việc đảm bảo nhu cầu người tiêu
dùng ngày càng cao, khắt khe hơn, kỹ tính hơn về hàng hóa nông sản. Trong
nền kinh tế thị trường không phải nhà sản xuất có tiếng nói quyết định ( sản
xuất ra bất cứ mặt hàng nào cũng dược người tiêu dùng chấp nhận) mà cán
cân quyền lực giờ đây đã thuộc về người tiêu dùng ( việc mua gì, dùng sản
phẩm gì cho gia đình và gia đình đều do người tiêu dùng quyết định).
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chính vì vậy kinh tế trang trại ra đời là bước phát triển cao của kinh tế
hộ chính là quá trình thay đổi về nhận thức, sự chuyển mình của kinh tế hộ
nhằm tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
I.1.2.2. Mức độ tập trung hóa và chuyên môn hóa các điều kiện và yếu
tố sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất của hộ nông dân
Thể hiện ở quy mô sản xuất như: đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá
trị nông, lâm, thủy sản hàng hóa.
Đặc trưng này xuất phát từ đặc trưng mục đích của sản xuất kinh tế trang
trại là sản xuất ra hàng hóa để cung cấp trên thị trường. Nói như vậy vì chỉ có
tập trung hóa và chuyên môn hóa các điều kiện và yếu tố sản xuất thì kinh tế
trang trại mới sản xuất ra được hàng hóa chất lượng cao, khối lượng nhiều
đáp ứng nhu cầu trên thị trường và đủ khả năng cạnh tranh với các loại hình
kinh tế khác và với hàng hóa các nước khác.
Phải những cơ sở sản xuất kinh doanh đáp ứng các tiêu chí nhất định về
trang trại của nhà nước mới được coi là kinh tế trang trại. Đây cũng coi như
mức chuẩn để các cơ sở sản xuất kinh doanh xét theo các tiêu chí đó để có
hướng phấn đấu, hoàn thiện các mặt còn thiếu nhằm được công nhận là kinh
tế trang trại.

Đất và vốn là 2 yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Nên phải
tập trung với quy mô cần thiết theo yêu cầu phát triển sản xuất nông sản hàng
hóa. Mặc dù phải tập trung sản xuất hàng hóa như vậy nhưng quy mô của các
yếu tố này ở mỗi trang trại là rất khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của
từng trang trại, từng giai đoạn phát triển từng vùng miền. Nếu trang trại ở miền
núi có diện tích đất đai rộng lớn, mật độ dân cư thưa thớt, đời sống nhân dân
còn nhiều khó khăn nên các trang trại thường có diện tích lớn nhưng vốn lại
nhỏ và ngược lại ở đồng bằng đất chật người đông, mật độ dân cư lớn, có ít
điều kiện để tập trung ruộng đất lớn để có trang trại diện tích lớn, song lại có
vốn lớn vì ở vùng này dân cư có tích tụ vốn và nhiều nguồn vốn khác nhau.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.1.2.3. Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành
sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao
công nghệ mới vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động
bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
Người chủ trang trại đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát
triển trang trại. Đó là ngững người có ý chí và nghị lực vươn lên bên cạnh đó
họ đều là những người có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nhất định. Đó
là những tố chất rất cần thiết để hình thành nên kinh tế trang trại, đồng thời đó
là sự bảo đảm vững chắc cho kinh tế trang trại phát triển vững chắc trong giai
đoạn tiép theo. Chính việc không sợ khó, dám đầu tư tiến bộ khoa học cong
nghệ vào trong sản xuất là ưu thế cạnh tranh của kinh tế trang trại so với các
loại hình kinh tế khác trên thị trường. Việc đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa
theo chiều sâu bằng cách đầu tư khoa học công nghệ, đã giảm thiểu rất nhiều
sự phụ thuộc của con người và tự nhiên, tạo ra được nhiều loại hàng hóa chất
lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của người tieu dùng và quan trọng hơn sản
phẩm làm ra có giá trị gia tăng cao so với sản phẩm nông nghiệp thuần túy.
Mang lại thu nhập đáng kể cho chủ trang trại, dẫn đến chủ trang trại có khả

năng tích lũy vốn cần thiế để tái đầu tư vào sản xuất.
Tóm lại các chủ trang trại không chỉ cạnh tranh dựa trên các yếu tố sản
xuất, hay khả năng tích tụ , tập trung đất đai, vốn, lao động… nhất định mà
trong thời kinh tế thị trường hiện nay kinh tế trang trại cạnh tranh với các
thành phần kinh tế khác và hàng hóa các nước khác, còn phụ thuộc vào bản
lĩnh của các chủ trang trại trong nước. Trang trại hình thành và phát triển thế
nào phụ thuộc nhiều vào ý chí, khả năng nắm bắt thị trường và kiến thức
chuyên môn của các chủ trang trại.
I.2. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TRANG TRẠI.
I.2.1.Vai trò về mặt kinh tế.
Tuy thời gian phát triển kinh tế trang trại chưa dài, nhưng những kết quả
đạt được đã thể hiện là nhân tố mới trong nông nghiệp và nông thôn, góp
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phần tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
Sau gần sáu năm thực hiện Nghị quyết số 03 của Chính phủ về kinh tế
trang trại (ngày 2-2-2000), kinh tế trang trại ở nước ta đã có bước phát triển
nhanh về số lượng, đa dạng về hình thức tổ chức sản xuất. Theo tiêu chí phân
loại trang trại thống nhất chung cả nước, tốc độ tăng số lượng trang trại bình
quân từ năm 2000 đến năm 2004, khoảng 6%. Hiện nay, cả nước có gần 150
nghìn trang trại với hơn 900 nghìn ha (bình quân mỗi trang trại khoảng 6 ha).
Lấy năm 2004 so với năm 2000, thì ở vùng Ðông Nam Bộ, số lượng trang trại
tăng khoảng 30,6%; đồng bằng sông Cửu Long tăng hơn 11,6%. Vùng đồng
bằng sông Cửu Long có số lượng trang trại nhiều nhất, chiếm tỷ trọng hơn
50% tổng số trang trại của cả nước. Kinh tế trang trại thời gian qua phát triển
với nhiều loại hình: Trang trại trồng cây lâu năm; trang trại chăn nuôi (gia
cầm, dê, cừu, đại gia súc...); trang trại nuôi trồng thủy sản; trang trại sản xuất
kinh doanh tổng hợp. Các loại hình trang trại này chuyển dịch theo hướng

tăng tỷ trọng trang trại nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi, giảm tỷ trọng trang
trại trồng cây hằng năm. Theo kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, năm 2004, các trang trại đã sử dụng gần 500 nghìn ha đất và
mặt nước. Trong đó diện tích trồng cây hằng năm chiếm 37,3%, diện tích
trồng cây lâu năm chiếm 26%, đất lâm nghiệp 18,7%, diện tích mặt nước nuôi
trồng thủy sản 18%. Thực hiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, các địa phương ở các vùng khác nhau đã chuyển hàng chục nghìn ha
đất trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản. Kinh tế trang trại đã hình thành các
vùng sản xuất thủy sản ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, đồng bằng sông
Hồng, các vùng ven biển, đồng bằng sông Cửu Long. Trang trại trồng cây lâu
năm ở các tỉnh Ðông Nam Bộ, Tây Nguyên, Ðông Bắc, Tây Bắc Bộ. Trang
trại chăn nuôi tập trung ở các tỉnh gần thành phố lớn, nơi có thị trường tiêu
thụ mạnh. Ðột phá mạnh nhất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp và nông thôn là nuôi trồng thủy sản với hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều
lần so với các loại cây trồng, vật nuôi khác. Ðến nay, cả nước đã có khoảng
30 nghìn trang trại nuôi trồng thủy sản, thu hút và giải quyết việc làm ổn
định hàng trăm nghìn lao động. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nuôi trồng
thủy sản được xác định là kinh tế mũi nhọn, chiếm khoảng 78% số trang
trại nuôi trồng thủy sản của cả nước. Năm 2004, bình quân giá trị sản
lượng/ha canh tác của trang trại đạt từ 35 triệu đồng đến 50 triệu đồng,
trong đó trang trại nuôi trồng thủy sản, hoặc trồng cây đặc sản đạt hơn 100
triệu đồng/ha/năm. Những kết quả trên đã mở ra khả năng và hướng đầu tư
để phát triển kinh tế trang trại. Theo số liệu của 45 tỉnh, thành phố trong cả
nước, trong năm 2004, tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ của các trang trại đạt
hơn 8.500 tỷ đồng. nông dân tích cực hưởng ứng, hình thành đội ngũ nông
dân năng động, dám nghĩ, dám làm.
Ở mỗi địa phương ngày càng nhiều điển hình đơn vị và hộ sản xuất, kinh

doanh giỏi. Tinh thần hợp tác, tương trợ giữa các chủ trang trại được phát
triển. Một số trang trại tự nguyện thành lập hợp tác xã. Mô hình hợp tác xã
Cây Trường ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, được thành lập do tự nguyện
của 61 chủ trang trại, quản lý hơn 412 ha cây ăn trái. Hoạt động của hợp tác
xã này giúp các thành viên đưa được các loại giống cây ăn trái có năng suất
và chất lượng cao vào sản xuất, công tác bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản
phẩm được hợp tác xã chăm lo. Nhờ đó các thành viên yên tâm đầu tư sản
xuất, thu nhập cao hơn nhiều so với khi chưa vào hợp tác xã. Năm 2001, hợp
tác xã này tiêu thụ hơn 27 tấn trái cây (có 17 tấn phục vụ xuất khẩu), năm
2002 hợp tác xã tiêu thụ hơn 500 tấn (nội địa và xuất khẩu). Năm 2003 hợp
tác xã Cây Trường đã cùng các trang trại thành viên đầu tư kinh phí hơn 1,2
tỷ đồng xây dựng nhà máy chế biến rau, quả. Hiện nay nhà máy tiêu thụ
100% sản phẩm trái cây của các trang trại thành viên và của bà con trong
vùng, chủ yếu để xuất khẩu.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ sự chuyển dịch trong cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn đã góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn những năm
vừa qua và đóng góp vào thành tích chung của kinh tê Việt Nam những năm
vừa qua: phát triển GDP trung bình 7,5% giai đoạn 2001-2005.
Mô hình kinh tế trang trại đã tạo ra bước chuyển cơ bản về giá trị sản
phẩm hàng hóa và thu nhập của trang trại vượt hẳn so với kinh tế hộ. Đơn cử
năm 2004, tổng giá trị hàng hóa dịch vụ của các trang trại ước tính đạt 70.047
tỷ đồng, bình quân 1 trang trại đã tạo ra giá trị sản xuất 980 triệu đồng, gấp
6-8 lần so với bình quân giá trị sản xuất của một hộ nông nghiệp.
Tại vùng Tây Nguyên, giá trị sản phẩm hàng hóa của trang trại còn đạt
cao hơn, bình quân gần 1,1 tỷ đồng/trang trại/năm. Riêng loại hình trang trại
có giá trị hàng hóa cao nhất vẫn là trang trại nuôi trồng thủy sản, đạt bình
quân từ 1,2 đến 1,5 tỷ đồng/trang trại/năm, cá biệt có trang trại đạt trên 10 tỷ/

năm (như trang trại của Vietfram Hùng Tiến ở Bình Quới, TPHCM)… Số DN
hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông- lâm- thủy sản, mặc dù số
lượng chưa nhiều, mới chỉ có 3.376 DN, nhưng lại là những DN có đóng góp
nhiều nhất trong việc phát triển các loại hình dịch vụ nông nghiệp.
Có thể nói, kinh tế trang trại phát triển đã tạo ra khối lượng hàng hóa
lớn, tạo động lực thúc đẩy công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản phát
triển mạnh. Báo cáo của các địa phương cho thấy, mặc dù giá trị sản xuất của
trang trại trên cả nước chưa cao lắm nhưng so với giá trị sản xuất bình quân
của kinh tế nông nghiệp đã tăng gấp 2 lần.
Điển hình cho mô hình trang trại và doanh nghiệp nông thôn thành đạt là
công ty TNHH Thang Nguyên ( TP Buôn Ma Thuật- tỉnh Đắc Lắc ) của ông
Trần Văn Nguyên. Với ngành nghề sản xuất, kinh doanh dịch vụ trồng trọt
chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Đắc Lắc, công ty đã có thu nhập ( lãi ) hàng năm
trên 1 tỷ đồng. Hay như ông Vũ Đức Bằng, giám đốc nhà máy chè Bằng An,
tỉnh Lai Châu, với ngành nghề đầu tư sản xuất nguyên liệu và chế biến chè,
ông Bằng đã đạt doanh thu hàng năm trên 8,8 tỷ đồng…
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.2.2. Vai trò xã hội
Đó là tạo việc làm cho hàng triệu lao động nông thôn. Việc phát triển
kinh tế trang trạ và doanh nghiệp nông thôn đã góp phần tích cực trong giải
quyết việc làm, nâng cao đời sống, xóa đói giam nghèo cho bà con nông dân.
Đa số các chủ trang trại đều có nhu cầu sử dụng lao động rất lớn tùy theo loại
hình và quy mô sản xuất. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện nay, kinh tế
trang trại đã thu hút, tạo việc làm cho hơn 60.000 lao động, góp phần giảm
bớt áp lực thiếu việc làm ở nông thôn, đồng thời giúp cho thu nhập của người
lao động được đảm bảo ở mức ỏn định từ 400.000 – 600.000/tháng ( với mức
thu nhập thời vụ, tiền công cũng phổ biến ở mức 20.000/ngày ).
Riêng các doanh nghiệp nông thôn đã giải quyết cho trên 1 triệu lao

động có việc làm trong các xí nghiệp, nhà máy với thu nhập bình quân từ
700.000 – 1.000.000/tháng.
Trên thực tế, đời sống của bà con nông thôn hiện nay tuy còn nhiều khó
khăn thiếu thốn, nhưng đã có những đổi thay sâu sắc, đã cơ bản xóa được
đói , giảm được nghèo. Trong thành quả đóng góp chung đó, có vai trò tích
cực của các trang trại nông thôn.
Nhiều trang trại đã ủng hộ hàng trăm triệu đồng giúp xây dựng trường
học, xóa nhà tạm, hỗ trợ trể mồ côi… góp phần giảm tỷ lệ đói, nghèo của cả
nước xuống còn khoảng 10% . Có thể nói, những thành quả trên chứng tỏ mô
hình kinh tế trang trại ở nông thôn đã thực hiện khá tốt đường lối chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước.
Từ những đóng góp đó mà tình hình xã hội ở nông thôn được đảm bảo,
giảm thiểu tình trạng lao đông ở nông thôn đổ xô ra thành thị gây ra các tác
động tiêu cực trong xã hội và cũng giúp giảm bớt tình trạng lao động thất
nghiệp trong nông thôn.
Mô hình này đã có những kết quả vượt trội so với kinh tế hộ nông dân về
khai thác tiềm năng lao động, đất đai, huy động vốn đầu tư trong dân, áp dụng
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
KHKT vào sản xuất để hình thành nên những vùng sản xuất hàng hóa
lớn,tậptrung…
Đây cũng chính là mô hình tạo nên nhiều nhân tố mới ở nông thôn, tạo
động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, tiến tới xây dựng nên những vùng, miền nông thôn mới văn minh hiện
đại.
I.2.3. Vai trò khác.
Một mặt "được" khác nữa đó là KTTT đã thúc đẩy việc khai thác diện
tích đất trống, đồi núi trọc đất hoang hóa vào sản xuất nông, lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản và mô hình KTTT này đã phần nào cải thiện được môi

trường sinh thái. Theo số liệu thống kê, năm 2002 các trang trại đã sử dụng
369.000ha đất và mặt nước trong đó đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ lệ
37,3% đất trồng cây lâu nămchiếm 26%, đất lâm nghiệp chiếm 18,7%; diện
tích mặt nước nuôi trồng thủy sản chiếm 18%. Như vậy, diện tích đất sử dụng
bình quân của một trang trại trung bình là 6, 08ha.
Cũng nhờ các mô hình kinh tế trang trại này mà nhiều đề tài khoa học kỹ
thuật đã được ứng dụng vào sản xuất. Chính vì vậy, sản phẩm hàng hóa và thu
nhập của các trang trại ngày một nâng cao. Năm 2003, tổng gía trị hàng hóa
dịch vụ của trang trại là 7.047 tỷ đồng. Như vậy bình quân một trang trại đạt
98 triệu đồng. Tuy nhiện mô hình trang trại thủy sản đạt bình quân cao nhất
với doanh thu từ 120-150 triệu đồng/trang trại.
Và cũng dễ nhận ra một điều rằng KTTT phát triển đã thu hút một khối
lượng lớn tiền vốn trong dân khi họ đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Mô
hình này đã tạo thêm việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, mở
ra xu hướng hợp tác và phát triển trong sản xuất, kinh doanh... Sự phát triển
của KTTT đã dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các chủ trang trại, trong đó có
việc hình thành các câu lạc bộ trang trại.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.3. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI CỦA
NHÀ NƯỚC.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và phát triển các trang trại trong thời gian
qua và căn cứ vào chủ trương đối với kinh tế trang trại đã được nêu trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trưng Ương Đảng ( tháng
12 năm 1997 ) và nghị quyết số 06 ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính
Trị về phát triển nông nghiệp và nông thôn, đã đưa ra 1 số chính sách đối với
việc phát triển kinh tế trang trại như sau:
I.3.1. Một số chính sách lâu dài của nhà nước đối với kinh tế trang
trại.

Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ
gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo
pháp luật để sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu
quả đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng
khai thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển,
mặt nước eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng
chuyên canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông,
khuyến khích phát triển kinh tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm
canh cao gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị
kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn,
kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất nông
nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông nghiệp mà có
nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ
nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ
nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà
nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và
sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học-công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản
phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát
triển bền vững.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành
mạnh, có hiệu quả.
I.3.2. Về chính sách cụ thể.

a) Chính sách đất đai
Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại
được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất được áp dụng theo quy định tại
Nghị định số 85/1999/NĐ-CP, ngày 28 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số 163/1999/NĐ-CP, ngày 16 tháng
11 năm 1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ
gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản sống tại địa phương có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản
xuất thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của địa phương còn được
ủy ban nhân dân xã xét cho thuê đất để phát triển trang trại.
Hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ
nghiệp lâu dài từ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được ủy
ban nhân dân xã cho thuê đất để làm kinh tế trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập nghiệp
lâu dài, có vốn đầu tư để phát triển trang trại, được ủy ban nhân dân xã sở tại
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cho thuê đất.
Diện tích đất được giao, được thuê phụ thuộc vào quỹ đất của địa
phương và khả năng sản xuất kinh doanh của chủ trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê
hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác để
phát triển trang trại theo quy định của pháp luật. Người nhận chuyển nhượng
hoặc thuê quyền sử dụng đất hợp pháp có các quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng, quyền sử

dụng đất vượt quá hạn mức sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để
phát triển trang trại, thì được tiếp tục sử dụng và chuyển sang thuê phần diện
tích đất vượt hạn mức, theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nhưng chưa được giao, chưa được thuê,
hoặc đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy
chứng nhận trước ngày ban hành Nghị quyết này, nếu không có tranh chấp, sử
dụng đất đúng mục đích, thì được xem xét để giao hoặc cho thuê đất và được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm chỉ đạo cơ quan địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.
b) Chính sách thuế
Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển
kinh tế trang trại, nhất là ở những vùng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi, đầm
phá ven biển, thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại với thời gian tối đa
theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ
về việc Quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đổi) số 03/1998/QH10.
Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì hộ gia đình và cá
nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao thuộc đối tượng nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp. Giao Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 1998 của
Chính phủ về Quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo
hướng quy định đối tượng nộp thuế là những hộ làm kinh tế trang trại đã sản
xuất kinh doanh ổn định, có giá trị hàng hóa và lãi lớn, giảm thấp nhất mức
thuế suất, nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, được nhân dân

đồng tình và có khả năng thực hiện.
Các trang trại được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật
về đất đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản
xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên chưa
có đầu tư cải tạo vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
c) Chính sách đầu tư, tín dụng
Căn cứ vào quy hoạch phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trên các
địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, Nhà nước
có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng về giao thông, thuỷ lợi,
điện, nước sinh hoạt, thông tin, cơ sở chế biến để khuyến khích các hộ gia
đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
trại phát triển sản xuất, kinh doanh trong những lĩnh vực thuộc đối tượng
quy định tại Điều 8 mục I Chương II của Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày
29 tháng 6 năm 1999 của Chính phủ được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư phát
triển của Nhà nước và việc vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
thực hiện theo các quy định của Nghị định này.
Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh được vay vốn tín dụng thương
mại của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện
theo quy định tại Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 3 năm 1999
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của Thủ tướng Chính phủ về "Một số chính sách tín dụng ngân hàng phát
triển nông nghiệp và nông thôn", chủ trang trại được dùng tài sản hình thành
từ vốn vay để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-
CP, ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các
tổ chức tín dụng.
d) Chính sách lao động
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm cho lao động nông

thôn, ưu tiên sử dụng lao động của hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất
nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. Chủ trang trại được thuê lao động
không hạn chế về số lượng; trả công lao động trên cơ sở thoả thuận với người
lao động theo quy định của pháp luật về lao động. Chủ trang trại phải trang bị
đồ dùng bảo hộ lao động theo từng loại nghề cho người lao động và có trách
nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau trong thời gian làm
việc theo hợp đồng lao động.
Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, chủ trang
trại được ưu tiên vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xoá đói
giảm nghèo để tạo việc làm cho lao động tại chỗ; thu hút lao động ở các vùng
đông dân cư đến phát triển sản xuất.
Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm
trong trang trại bằng nhiều hình thức tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn.
đ) Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các địa phương có quy
hoạch, kế hoạch xây dựng các công trình thuỷ lợi để tạo nguồn nước cho phát
triển sản xuất. Chủ trang trại tự bỏ vốn hoặc vay từ nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước để xây dựng hệ thống dẫn nước phục vụ sản xuất và
sinh hoạt trong trang trại. Các chủ trang trại xây dựng các công trình thuỷ lợi,
sử dụng nước mặt, nước ngầm trong phạm vi trang trại theo quy hoạch không
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phải nộp thuế tài nguyên nước.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây nông
nghiệp, cây lâm nghiệp và các cơ sở sản xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản)
hoặc hỗ trợ một số trang trại có điều kiện sản xuất giống để bảo đảm đủ giống tốt,
giống có chất lượng cao cung cấp cho các trang trại và cho hộ nông dân trong
vùng.

Khuyến khích chủ trang trại góp vốn vào Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học,
liên kết với cơ sở khoa học, đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật
áp dụng vào trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trong vùng.
e) Chính sách thị trường.
Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức tốt việc cung cấp
thông tin thị trường, khuyến cáo khoa học kỹ thuật, giúp trang trại định hướng
sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cơ
sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh; hướng dẫn việc
ký kết hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiêu
thụ nông sản hàng hoá của trang trại và nông dân trên địa bàn.
Nhà nước khuyến khích phát triển chợ nông thôn, các trung tâm giao
dịch mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp. Tạo điều kiện cho các chủ
trang trại được tiếp cận và tham gia các chương trình, dự án hợp tác, hội chợ
triển lãm trong và ngoài nuớc.
Đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản
thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp Nhà nước với
hợp tác xã, chủ trang trại, hộ nông dân.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiếp sản phẩm của mình và sản phẩm mua gom của trang trại khác, của các hộ
nông dân và nhập khẩu vật tư nông nghiệp.
g) Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại.
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của trang trại không bị quốc hữu hoá,
không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợp vì lý do quốc
phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước cần thu hồi đất được giao, được

thuê của trang trại thì chủ trang trại được thanh toán hoặc bồi thường theo giá
thị trường tại thời điểm công bố quyết định thu hồi.
I.4. TIÊU CHÍ ĐỊNH LƯỢNG ĐỂ XÁC ĐỊNH LÀ KINH TẾ
TRANG TRẠI
Trong những năm gần đây kinh tế trang trại phát triển mạnh ở hầu khắp
các địa phương trong cả nước, hình thành mô hình sản xuất mới trong nông
nghiệp và nông thôn nước ta. Do chưa có qui định thống nhất của các Bộ,
ngành Trung ương về tiêu chí trang trại nên các địa phương tự đặt ra các tiêu
chí về trang trại dựa vào tính chất sản xuất hàng hoá, qui mô về diện tích đất
đai, đầu gia súc, vv... để thống kê về số liệu kinh tế trang trại của địa phương,
vùng nên số liệu thống kê về kinh tế trang trại chưa thật chuẩn xác, ranh giới
giữa kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại không rõ ràng, khó khăn cho
việc đánh giá thực trạng và xây dựng các chính sách đối với kinh tế trang trại.
Chính phủ đã có nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế
trang trại. Gồm các tiêu chí như sau:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản được xác
định là trang trại phải đạt được cả 2 tiêu chí đinh lượng sau đây:
I.4.1. Giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.4.2. Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và từng vùng kinh tế.
a. Đối với trang trại trồng trọt.
- Trang trại trồng cây lâu năm.
+ Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung.
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.

- Trang trại trồng cây lâu năm.
+ Từ 3 ha trở lên đối vứi các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung.
+ Từ 5 ha trở lên đối các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
+ Trang trại hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
- Trang trại lâm nghiệp.
+ Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b. Đối với trang trại chăn nuôi.
- Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò, …
+ Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên.
+ Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
- Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, …
+ Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn 20 con trở lên, đối với
dê, cừu từ 100 con trở lên.
+ Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên ( không kể lợn
sũa ) dê từ 200 con trở lên.
- Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, … có thường xuyên từ 2000
con trở lên ( không tính số đầu con duới 7 ngày tuổi ).
c. Đối với trang trại nuôi trồng thủy sản.
- Diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản có từ 2 ha trở lên ( riêng đối
với tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên ).
d. Đối với các loại sản phảm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản có
tính chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy
sản và đặc sản, thì tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hóa ( tiêu chí 1 ).
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KINH TẾ TRANG TRẠI.
I.5.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội.
a. Đặc điểm tự nhiên
Mỗi địa phương vùng miền có đặc điểm tự nhiên khác nhau. Trong đó

có những đặc diểm thuận lợi cho quá trình phát triển trang trại, nhưng cũng có
những đặc điểm tự nhiên gây cản trở cho phát triển kinh tế trang trại. Và cũng
tùy từng điều kiện tự nhiên tác động nhất định đến việc hình thành các loại
trang trại khác nhau như: trang trại trồng cây lâu năm, chăn nuôi, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, sản xuất kinh doanh tổng hợp …
Trong các trường hợp cụ thể của nước ta các điều kiện tự nhiên ảnh
hưởng rõ nét tới sự hình thành các loại trang trại như:
Ở vùng Đông Nam Bộ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai rộng lớn,
bằng phẳng, khí hậu ôn đới. Dẫn đến ở vùng này hình thành nhiều trang trại
nuôi trồng thủy sản ( chiếm 50% tông số trang trại trong cả nước ).
Ở vùng Tây Nguyên đồi núi nhiều, đất đai chủ yếu là đất đỏ Bazan, dẫn
đến có xu hướng hình thành các trang trại trồng cây lâu năm như: cafe, cao
su, hồ tiêu …
Còn ở vùng Đông Bắc cũng là rừng núi nhưng khí hậu nhiệt đới gió
mùa, dẫn đến có xu hướng hình thành loại hình trang trại trồng cây ăn quả,
trang trại trồng chè ...
Tóm lại tùy từng điều kiện tự nhiên, từng vùng dẫn đến việc hình thành
đặc trưng khá rõ nét đối với các loại hình trang trại ở nước ta.
b. Kinh tế - Xã hội
Kinh tế, xã hội ở mỗi địa phương có nhiều ảnh hưởng nhất định đến việc
hình thành và phát triển trang trại. Ở những nơi có kinh tế, xã hội phát triển
người dân sẽ có khả năng tích lũy được nhiều vốn, được tiếp thu vứi nhiều
kiến thức, khoa học công nghệ, ngoài ra còn có cơ sở hạ tầng phát triển.
Những mặt thuận lợi đó giúp cho 1 số người có đủ điều kiện để hình thành
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trang trại theo hướng tích tụ mọt lượng vốn lớn, đầu tư khoa học công nghệ
tiên tiến. Từ việc tạo điều kiện thuận lợi cho hình thành các trang trại. Ở mỗi
địa phương có kinh tế, xã hội phát triển cũng là thị trường tiềm năng cho kinh

tế trang trại vì ở đâu đời sống kinh tế, xã hội của người dân phát triển, thì nhu
cầu cho đời sống cũng tỷ lệ thuận theo và họ cũng có khả năng chi trả. Điều
này sẽ khuyến khích cho loại hnhf kinh tế trang trsị phát triển vì có thể yên
tâm đầu ra cho trang trại của mình.
Từ những thuận lợi trên đây mà ở những địa phương có kinh tế, xã hội
phát triển sẽ có tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển trang trại.
I.5.2. Tác động của Nhà nước.
Việc trang trại hình thành, tồn tại, phát triển, phát triển theo hướng nào
đều chịu sự tác động rất từ phía nhà nước. Vì chỉ có Nhà nước là chủ thể quản
lí nền kinh tế mới có quyền công nhận tư cách pháp nhân của trang trại. Từ
việc công nhận này mới mở đường, khuyến khích cho người dân đầu tư công
sức tiền của để thành lập trang trại. Cụ thể như: Chỉ có Nhà nước mới có thể
chủ động tạo ra môi trường pháp lí cho kinh tế trang trại hoạt động. Bằng các
văn bản pháp luật, nghi định, nghị quyết liên quan nhà nước sẽ quy định,
hướng dẫn các trang trại hoạt động theo quy định của pháp luật. Hay nói cách
khác Nhà nước tạo ra khung pháp lí để các trang trại làm theo.
Trang trại được xem là bài toán phát triển bộ mặt nông ngiệp nông thôn
Việt Nam, chính vì vai trò quan trọng như vậy mà Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm tới thành phần kinh tế trang trại. Điều đó được thể hiện rất rõ
trong các chính sách sau của Nhà nước:
Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ
gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo
pháp luật để sản xuất kinh doanh.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu
quả đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng
khai thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển,

mặt nước eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng
chuyên canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông,
khuyến khích phát triển kinh tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm
canh cao gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị
kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn,
kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất nông
nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông nghiệp mà có
nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ
nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở
rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ
nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà
nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và
sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học-công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản
phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát
triển bền vững.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành
mạnh, có hiệu quả.
Chính nhờ những quan tâm đặc biệt đó mà kinh tế trang trại phát triển rất
khởi sắc kể từ khi Nghị quyết số 03 của chính phủ về kinh tế trang trại ( ngày
2-2-2000 ) Tốc độ tăng số lượng trang trại mỗi năm là 6% và hiện nay cả
nước có gần 150 nghìn trang trại, với hơn 900 nghìn ha ( bình quân mỗi trang
trại khoảng 6 ha ) đó là những con số rất tích cực thể hiện vai trò vô cùng
quan trọng của Nhà nước.
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.5.3. Tác động của công nghiệp chế biến.
Mục đích của sản xuất trang trại là sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng

hóa với quy mô lớn. Điều này chỉ thực hiện được với sự trợ giúp từ ngành
cong nghiệp chế biến. Chỉ có áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong
sản xuất chủ trang trại mới có thể tạo ra được hàng hóa chất lượng cao, giá trị
kinh té lớn và quan trọng hơn mới đáp ứng được nhu cầ trên thị trường. Việc
trang trại có tồn tại được hay không phụ thuộc vào đầu ra của trang trại có
được đảm bảo hay không và điều này chỉ có thể đạt được nhờ vào sự hỗ trợ
của công nghiệp ché biến.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất bắt nguồn
từ cả phía chủ trang traị lẫn từ yêu cầu canh tranh trên thị trường. Với khối
lượng sản phẩm làm ra nhiều và sản phẩm đều là nông nghiệp nên chịu sự tác
động nhiều bởi đặc tính sinh học, tự nhiên như dễ ôi hỏng, thối, nát … nếu
không được bảo quản đúng cách. Vì vậy việc áp dụng công nghệ chế biến vào
khâu sau thu hoạch sẽ mang lại kết quả khả quan. Sản phẩm sẽ ít bị ôi hỏng
hơn, tăng thêm thời gian bảo quản, nâng cao giá trị vật chất cho sản phẩm, sản
phẩm đã qua chế biến được bán với giá thành cao hơn. Kết quả là chủ trang
trại sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh và
giảm thiểu chi phí, tăng doanh thu.
Còn từ phía thị trường, do kinh tế phát triển nên đời sống người dân
ngày càng nâng cao, nhu cầu được đáp ứng các sản phẩm chất lượng cao, hợp
sở thích ngày càng lớn. Hơn nữa hàng hóa ngoại nhập tràn vào Việt Nam với
nhiều ưu điểm như: chất lượng cao, ngon, tươi lâu đang được người dân
hưởng ững và ưa chuộng. Chính vì áp lực cạnh tranh cũng buộc các chủ trang
trại phải đầu tư công ghệ chế biến vào dây truyền sản xuất của mình. Có như
vậy hàng hóa tạo ra mới được thị trường chấp nhận.
I.5.4. Tác động của cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp bao gồm: dường giao
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thông, công trình thủy lợi, đường điện, thông tin liên lạc … Đó là những điều kiện

vật chất không thuộc sở hữu của trang trại nhưng có tác động rất lớn tới hoạt động
sản xất kinh doanh của các trang trại. Vì đây là các yếu tố không thể thiếu tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh ở trang trại. Như
thủy lợi để tưới tiêu cây trồng, làm nước uống cho gia súc; giao thông vận tải để
vận chuyển hàng hóa; thông tin liên lạc để cung cấp thông tin …
Vì thế ở những nơi phát triển kinh tế trang trại thì cơ sở hạ tầng cũng
phải phát triển đồng bộ, thậm chí là đi trước 1 bước mới tạ đầy đủ nguồn lực,
tiềm năng cho phát triển trang trại. Thực tế đã chứng minh ở những nơi có cơ
sở hạ tầng phá triển sẽ trở thành động lực, lợi thế cho địa phương đó phát
triển nhanh chóng loại hình kinh tế trang trại. Như ở Đồng Bằng Sông Cửu
Long kinh tế trang trại có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát
triển nên đã chiếm tỷ trọng hơn 50% tổng số trang trại trong cả nước ( số liệu
cuối năm 2004 ). Điều đó thể hiện chỉ khi nào nhà đầu tư thấy việc phát triển
trang trại được tạo điều kiện thuận lợi, có lợi nhuận thì mô hình kinh tế trang
trại mới có cơ hội phát triển.


SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI Ở THANH HOÁ
GIAI ĐOẠN 2001 – 2005
II.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI.
II.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Nằm ở đầu miền Trung và cuối miền Bắc của đất nước, Thanh Hóa có
nhiếu tiềm năng đất đai, tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng. Diện tích
của tỉnh là 11.000 km2, dân số vào khoảng 3,76 triệu người ( năm 2005 ). Với
27 huyện, thị xã, trải dài từ Tây sang Đông; bao gồm cả các huyện miền núi,
các huyện đồng bằng và các huyện ven biển. Những đặc điểm tự nhiên này

mang lại nhiều thuận lợi nhưng khó khăn cũng không ít cho phát triển kinh tế
ở Thanh Hóa.
Thuận lợi: Chính nhờ diện tích đất đai rộng lớn, dân số đông, tài nguyên
thiên nhiên phong phú và đa dạng. Đã mở ra cho Thanh Hóa nhiều hướng
phát triển đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Rõ nhất đó là việc nông
nghiệp tỉnh Thanh Hóa phát triển đồng đều tất cả các ngành trồng trọt, chăn
nuôi, chế biến, nông, lâm, thủy sản; một số mặt hàng đã được trong và ngoài
tỉnh biết đến như: chiếu cói Nga Sơn, nem chua Hạc Thành, bánh gai Tứ Trụ.
Thêm vào đó sự khác biệt về đièu kiện tự nhiên giữa các huyện cũng là thuận
lợi để Thanh Hóa phát triển các vùng theo hướng chuyên môn hóa. Ví dụ ở
các huyện ven biển tập trung phát triển các ngành thủy sản, ở các huyện miền
núi phát triển các ngàng lâm nghiệp, còn ở các huyện đồng bằng sẽ phát triển
các ngành chăn nuôi, trồng trọt.
Bên cạnh những thuận lợi,điều kiện tự nhiên ở Thanh Hóa cũng gây ra
những khó khăn cho phát triển kinh tế như: số huyện miền núi nhiều có những
huyện cách trung tâm tỉnh tới hơn 100 km như Cẩm Thủy, Thạch Thành,
Lang Chánh; cơ sở hạ tầng ở đây chưa phát triển, gay nên khó khăn rất lớn
SVTH: Nguyễn Quốc Toản Lớp: KTNN&PTNT 45
25

×