Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đánh giá thị trường ô tô việt nam và định hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.15 KB, 38 trang )

Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường ô tô Việt Nam đang có những bước tiến mới trên con
đường hội nhập thế giới.Nếu như trước kia khái niệm về ôtô còn rất xa lạ
với người dân thì ngày nay đã có rất nhiều người đã có đủ khả năng tiếp
cân được nó.Đã có rất nhiều những doanh nghiệp nổi tiếng cùng với
thương hiệu của nó đã có mặt ở Việt Nam.Điều đó đang tạo lên một thị
trường ô tô rất sôi động . Nắm bắt được xu hướng của thị trường và trong
điều kiện nguồn lực cho phép sẽ giúp doanh nghiệp kinh doanh thành công,
đó là điều mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng biết, nhưng để làm được
điều đó không phảI là đơn giản.Thị trường ô tô cũng vậy khi mà cầu về nó
đang có xu hướng tăng.
Trên cơ sở sự hình thành và phát triển của thị trường ô tô để hiểu rõ
hơn về thị trường này em xin được trình bày đề án của mình “ ĐÁNH GIÁ
THỊ TRƯỜNG Ô TÔ VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN “.
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG
1.1 Khái niệm thị trường
Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá . Thị trường
được nhiều nhà kinh tế định nghĩa khác nhau . Có người coi thị trường là
cái chợ, là nơi mua bán hàng hoá . Hoặc thị trường là tổng hợp các lực
lượng và các điều kiện , trong đó người mua và người bán thực hiện các
quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua. Có
nhà kinh tế lại quan niệm thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua
và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá ; hoặc đơn
giản hơn : “ thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một sản
phẩm hay dịch vụ “.Gần đây có nhà kinh tế lại định nghĩa “thị trường là nơi
mua bán hàng hoá , là một quá trình trong đó người mua và người bán một
thứ hàng tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng, là nơi diễn
ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất


định”.Nhưng dù được hiểu theo cách nào thì thị trường cũng bao gồm :
Một là : Phải có khách hàng (người mua hàng) không nhất thiết phải
gắn với địa điểm xác định .
Hai là : Khách hàng có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây chính là cơ
sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hoá dịch vụ .
Ba là : Khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng
phải có tiền để mua hàng
1.2 Các yếu tố của thị trường
Các yếu tố của thị trường gồm : cung, cầu và giá cả thị trường.Cung là
số lượng hàng hoá mà người bán muốn bán tại mỗi mức giá có thể.Cầu là
số lượng hàng hoá mà người mua muốn mua tại mỗi mức giá chấp nhận
được. Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua với người
mua, giữa người bán với người bán hình thành giá cả thị trường.Giá cả thị
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị
trường của một loại hàng hoá, ở một địa điểm và thời điểm cụ thể.
1.3Chức năng của thị trường
- Chức năng thừa nhận
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hay doanh nghiệp thương mại hàng
hoá dịch vụ là người bán. Hàng hoá và dịch vụ có bán được hay không phải
thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Hàng hoá và dịch vụ bán
được , dù bán trực tiếp hay bán cho người trung gian tức là hàng hoá đó
được thị trường chấp nhận. Ngược lại nếu hàng hoá và dịch vụ đem ra bán
không có ai mua như vậy có nghĩa là thị trường không thừa nhận . Đ ể
được thị trường thừa nhận, hàng hoá và dịch vụ phải có nhu cầu của khách
hàng .Phù hợp ở đây về số lượng chất lượng sự đồng bộ ,quy cách ,cỡ loại,
màu sắc, bao bì, giá cả, và thời gian địa điểm thuận lợi cho khách hàng
- Chức năng thực hiện
Chức năng này đòi hỏi hàng hoá và dịch vụ phải thực hiện giá trị trao

đổi : hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng ,hoặc bằng các giấy tờ có gía khác .
Người bán hàng cần tiền , còn người mua cần hàng . Sự gặp gỡ giữa
người bán và người mua được xác định bằng giá cả . Hàng hoá và dịch vụ
bán được tức là có sự chuyển dịch hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang
người mua .
- Chức năng điều tiết và kích thích
Qua hành vi trao đổi và mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường ,
thị trường điều tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc
ngược lại .Đối với các doanh nghệp sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp
thương mại , hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp
mở rộng sản xuất kinh doanh để cung ứng ngày càng nhiều hàng cho thị
trường .Ngược lại đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và doanh
nghiệp thương mại ,hàng hoá dịch vụ không tiêu thụ được ,thị trường sẽ
điều tiết doanh nghiệp hạn chế sản xuất , hoặc chuyển hướng sản xuất kinh
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
doanh .
Chức năng này điều tiết các doanh nghiệp ra nhập nghành hoặc rút ra
khỏi nghành, khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh đầu tư vào nghành
hàng hoá -dịch vụ có lợi, kích thích nhà sản xuất kinh doanh các mặt hàng
mới, chất lượng cao, có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn.
- Chức năng thông tin
Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung hàng hoá -dịch
vụ , nhu cầu hàng hoá và dịch vụ ,giá cả hàng hoá và dịch vụ .Đó là những
thông tin quan trọng đối vơí mọi nhà sản xuất kinh doanh ,cả người mua và
người bán, cả ngươì cung ứng lẫn ngươì tiêu dùng ,cả những nhà quản lý
và những người nghiên cứu sáng tạo. Có thể nói đó là những thông tin đối
với toàn bộ xã hội .Thông tin thị trường là những thông tin khách quan.
Không có thông tin thị trường thì không có quyết định đúng đắn trong sản
xuất kinh doanh ,cũng như các quyết định của Chính phủ trong quản lý vĩ

mô nền kinh tế .
1.4 Các qui luật của thị trường
- Qui luật cung cầu
Cung ,cầu là hai phạm trù kink tế quan trọng trong nền kinh tế thị
trường . Cung , cầu không tồn tại riêng rẽ mà thương xuyên tác động qua
lại lẫn nhau, có quan hệ biện chứng với nhau.quan hệ cung cầu là quan hệ
bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại của nền kinh tế thị trường. Nó trở
thành quy luật của kinh tế thị trường.
Sự tương tác giữa cung và cầu hàng hoá tạo nên giá cả trên thị trường
một cách bình quân.Giá bình quân này luôn luôn thay đổi do sự thay đổi
của cung và cầu do hai yếu tố này bị tác động cuả rất nhiều yếu tố liên
quan.
Do hai yếu tố này bị tác động của rất nhiều yếu tố trên thị trường cho
nên việc cân đối cung cầu chỉ là tạm thời, mất cân đối là việc thường xuyên
xảy ra.Việc mất cân đối được biểu hiện bằng giá cả.
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
- Qui luật giá trị
Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hoá . Khi nào còn sản xuất
hàng hoá thì qui luật này còn giá trị .Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và
lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị lao động cần thiết trung bình
để sản xuất ra hàng hoá đó theo phương pháp trao đổi ngang giá .Việc tính
toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi của
thị trường và xã hội là với một nguồn lực có hạn phải làm sao sản xuất
được lượng của cải vật chất nhiều nhất cho xã hội, hay chi phí cho một đơn
vị sản xuất ra là ít nhất với điều kiện là chất lượng phải cao.Người sản xuất
kinh doanh nào có chi phí cho một đơn vị sản xuất ra thấp hơn mức trung
bình thì người đó có lợi, và ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao
đổi sẽ không thu được chi phí bỏ ra dẫn đến việc phải thu hẹp sản xuất kinh
doanh hoặc dẫn đến việc phá sản. Đây là một thực tế mà bất kỳ một doanh

nghiệp nào cũng phải đương đầu. Là phải làm sao tiết kiệm chi phí đến
mức tối đa cũng như phải thường xuyên thay đổi công nghệ để qua đó đáp
ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
- Qui luật cạnh tranh
Mọi sự tự do trong sản xuất kinh doanh , đa dạng kiểu hình và nhiều
thành phần kinh tế là cội nguồn của sự cạnh tranh. Cạnh tranh là một điều
bất khả kháng trong nền kinh tế thị trường.Thực chất cạnh tranh về mặt
kinh tế khác hẳn với cạnh tranh một giải thưởng.
Nó không phải là một quá trình gián đoạn mà là một quá trình liên tục.
Đó là một ‘cuộc chạy maratong kinh tế’ không có đích cuối cùng . Ai cảm
nhận thấy đích trước người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ khác vượt
lên trước .Chạy đua kinh tế phải luôn ở phía trước để tránh hậu quả của
người chạy phía sau .
Trong cơ chế thị trường , cạnh tranh thực hiện bốn chức năng cơ bản :
- Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá , dich vụ giảm xuống
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu
vào của sản xuất và kinh doanh
-Cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất .
-Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị về kinh tế trong lịch sử
nhân loại .
Tóm lại: cung ,cầu là cốt vật chất , giá cả là diện mạo và canh tranh
là linh hồn sống của cơ chế thị trường.
1.5Vai trò của thị trường
- kích thích sản xuất
- Nâng cao đời sống nhân dân và tiêu dùng trong xã hội
- Thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
- Đa dạng hoấ sản phẩm và dịch vụ

1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
1.6.1 Các nhân tố chính trị, văn hoá xã hội và tâm sinh lý con người
Hoạt động của thị trường là hoạt động của con người. Bản chất của
con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội . Quan hệ xã hội của con
người được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức như quan hệ quốc tế , quan
hệ trong nước .Tình trạng hoà bình hay chiến tranh của một dân tộc hay các
dân tộc với nhau có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường các cá nhân và tổ chức có quyền hoạt
động tự do kinh tế trong khuôn khổ luật pháp của một quốc gia. Do vậy,
các yếu tố về tâm sinh lý của từng cá nhân thông qua nhận thức của họ cũng
có ảnh hưởng tới thị trường và tình trạng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp . Một quyết định đúng đắn của một cá nhân có thể dẫn đến sự phát
triển hoặc phá sản của một công ty.
1.6.2 Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô
Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô là sự tác động của Nhà nước đến thị
trường.
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
Dựa váo những chính sách và công cụ của mình Chính phủ sẽ điều
chỉnh thị trường sao cho hợp lý nhất đối với các doanh nghiệp vá đối với
một quốc gia. Một thị trường nếu không có sự quản lý của Nhà nước sẽ
phát triển tự do và không có điểm dừng . Do vậy nó sẽ có ảnh hưởng rất
lớn đến các doanh nghiệp do không xác định được mục tiêu sản xuất của
mình .
Ta thường thấy tuỳ theo từng điều kiện của từng quốc gia cũng như ở
mỗi thời kỳ mà Chính phủ áp dụng các biện pháp sao phù hợp . Các biện
pháp thường được sử dụng phổ biến là : chính sách thuế, chính sách đầu tư
và phát triển , chính sách tiền tệ ...
Các nhân tố thuộc quản lý vi mô là những nhân tố có ảnh hưởng trực
tiếp doanh nghiệp hoặc những nhân tố trong nội bộ doanh nghiệp. Đối với

một doanh nghiệp giá cả hàng hoá sản xuất ra có được công nhận trên thị
trường hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của một doanh
nghiệp . Mà đối với những doanh nghiệp lớn (tập đoàn) hay những công ty
độc quyền thì sự ảnh hưởng do sự sống còn của các công ty này có ảnh
hưởng rất lớn đến thị trường. Chỉ một chính sách của các công ty này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường như việc tăng giá sản phẩm hay sa thải
công nhân khi thu hẹp sản xuất...
1.6.3 Các nhân tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên là nhân tố cực kỳ quan trọng đối với việc hình
thành và phát triển thị trường .
-Vị trí địa lý của mỗi quốc gia đối với các nước xung quanh , trong
khu vực và trên thế giới cũng là một thuận lợi hay khó khăn trong việc hình
thành và phát triển thị trường. Ví dụ Việt Nam có hơn một nghìn km bờ
biển là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc phát triển vận tải đường thuỷ .
- Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của mỗi quốc gia như đất đai
khoáng sản , biển ,rừng, sông ngòi, kể cả thời tiết và khí hậu là những điều
kiện cực kỳ thuận lợi cho phát triển kinh
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
Phần 2: ĐÁNH THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG Ô TÔ VIỆT NAM
2.1 Những vấn đề cơ bản của thị trường ô tô ở Việt Nam
2.1.1 Qúa trình thành và phát triển thị trường ô tô Việt Nam
Trước thập kỷ 80, ngành chế tạo ô tô chưa tồn tại ở Việt Nam. Tất cả
ụ tụ được sử dụng ở nước ta được nhập khẩu từ Liên xô cũ, Đức, Ba Lan,
Trung Quốc chủ yếu dưới sự giúp đỡ phát triển hoặc là trao đổi hàng hoá
với Việt Nam. Phần lớn ô tô nhập khẩu là để phục vụ các ngành Quốc
phòng, an ninh, y tế và công nghiệp
Từ năm 1980 đến 1990, ngành sản xuất ụ tụ tại Việt Nam chỉ giới hạn
ở mức độ lắp ráp đơn giản như nhập khẩu máy và linh kiện ô tô từ Cộng
hoà Dân chủ Đức (xe ô tô IFA –W 50L) để đóng thành xe khách loại

46-50 chỗ ngồi. Do ảnh hưởng của việc Liên xô và hệ thống các nước
Đông Âu tan ró vào những năm đầu của thập kỷ 90, nhiều doanh nghiệp
sản xuất ô tô phải ngừng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu mặt
hàng do không có nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhiệm vụ chính của các
doanh nghiệp sản xuất ô tô trong thời gian này là sửa chữa, trung đại tu các
loại phương tiện ô tô, xe máy nhập khẩu.
Vào thời gian này, khụng cú công ty nào có khả năng đầu tư dây
chuyền sản xuất lắp ráp ô tô hoặc một dây chuyền sản xuất ô tô. Bởi do ảnh
hưởng của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các công ty khụng có
quyền kinh doanh độc lập và họ cũng không có khả năng tự lực về tài chính
để đầu tư.
Từ năm 1991 ngành công nghiệp ô tô Việt Nam có sự thay đổi rừ
rệt, do thực hiện chính sách “mở cửa” của Việt Nam. Việc thiết lập công
ty liên doanh Tập Đoàn ô tô Việt Nam giữa nhà máy ô tô Hoà Bình,
công ty Colombian ( Philipines), và nhóm Nichemen ( Nhật Bản ) đã đặt
nền móng cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Tập Đoàn ô tô Việt
Nam nhập khẩu phụ tùng từ công ty Kia ( Hàn Quốc), Mazda (Nhật
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
Bản), BMW ( Đức) và Subara (Nhật Bản) để lắp ráp và chế tạo ô tô. Liên
doanh sản xuất ô tô thứ hai, tập đoàn ô tô Mekông được thành lập năm
1992 giữa VEAM ( Việt Nam) và Sae Young International Inc (Hàn
Quốc), và Saeilo Machinery Japan Inc (Nhật Bản) lắp ráp ô tô cùng với
công ty Mekông (Hàn Quốc), Fiat, và Iveco (Italy).
Để tăng cường sự cạnh tranh của công nghiệp sản xuất ô tô trong nước
và phát triển ngành công nghiệp ô tô, chính phủ Việt Nam tiếp tục cấp giấy
phép cho 9 doanh nghhiệp FDI sản xuất ô tô từ năm 1995 đến 1997 nâng
tổng số doanh nghiệp sản xuất ô tô năm 1997 là 11 doanh nghiệp. Sự thành
lập và hoạt động của các nhà sản xuất ô tô đã bước sang một trang mới của
sự phát triển ngành công nghiệp ô tô bởi vì giấy phép đầu tư cho phép

những nhà đầu tư sản xuất tất cả các loại ô tô, thiết bị ô tô và cho đến nay
họ đã sản xuất các loại ô tô có nhẵn hiệu nổi tiếng như Mazda, Merrcedes,
Camry, Chrysler. Tuy nhiên ngành chế tạo ô tô ở giai đoạn này vẫn còn
giới hạn trong việc lắp ráp các bộ phận, các thiết bị được nhập khẩu từ các
công ty mẹ ở nước ngoài hoặc từ những nước trong khu vực. do đó sự đóng
góp của ngành công nghiệp ô tô xét dưới góc độ kinh tế và xó hội cũng cũn
hạn chế.
Cho đến nay, ngành công nghiệp ôtô Việt nam gồm: 11 doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài và trên 160 doanh nghiệp trong nước tiến hành sản xuất,
lắp ráp, sửa chữa ô tô và chế tạo phụ tùng trong đó có khoảng gần 20 cở sở
sản xuất, lắp ráp,gần 20 cơ sở sản xuất thân xe và rơ móc, và trên 60 cơ sở
tham gia chế tạo phụ tùng cho ô tô.
2.1.2 Những nhân tố tác động đến thị trường ôtô Việt Nam
- Khách hàng : Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cầu ô tô.Do
ô tô là mặt hàng đắt tiền nên thu nhập của khách hàng quyết định đến lượng
bán của nó.Với mức thu nhâp bình quân đầu người ở Việt Nam vào khoảng
750USD/người/năm nên rất khó để người dân tiếp cận với mặt hàng này
mà chỉ một bộ phận người dân có thu nhâp cao hay những doanh nghiệp,
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
các cơ quan mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu của mình.Khi khách
hàng đã có đủ tiềm lực thì những đòi hỏi về sản phẩm và những dịch vụ đi
kèm sau bán hàng là vấn đề cần được các doanh nghiệp quan tâm.
- Gía cả : Đối với bất kỳ loại hàng hóa nào đi chăng nữâ dù là hàng
hóa cao cấp hay hàng hóa thứ cấp thì giá cả của các hàng hóa liên quan
luôn có ảnh hưởng một cách trực tiếp đến cầu hàng hóa đó trên thị
trường .Ta có thể xem xét ở hai lọai hàng hóa là hàng hóa thay thế và hàng
hóa bổ sung. Đối với ôtô thì hàng hóa bổ sung là các loại xe máy đắt tiền
và hàng hóa bổ trợ là giá các dịch vụ bảo hành ,giá các loại xăm lốp, dầu
nhớt ...Giả sử giá của loại xe máy mà gần bằng tiền xe ôtô thì tại sao người

ta lại không mua ôtô.Và giá đã rẻ lại cộng với chế độ bảo hành miễn phí
trên toàn quốc thì điều này sẽ tạo cảm giác an tâm cho người mua hàng và
làm cho người tiêu dùng quyết định mua sản phẩm đó.Bên cạnh giá của
những hàng hoá bổ sung và thay thế thì giá cả của các yếu tố đầu vào cũng
ảnh hưởng rất lớn đến thị trường ôtô ở Việt Nam.Các sản phẩm lắp ráp hay
những sản phẩm có thể sản xuất được ở trong nước khi giá cả của các yếu
tố đầu vào rẻ thì khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó sẽ chiếm ưu thế.
- Công nghệ sản xuất ô tô: Bất kì sản phẩm nào khi được tiếp cận
công nghệ hiện đại và phù hợp với năng lực sản xuất của mình thì sẽ góp
phần nâng cao chất lượng và khối lượng sản xuất của mình.
- Sự điều tiết của chính phủ: Phần lớn các quốc gia trên thế giới khi
muốn kiểm soát một thị trường nào đó , thì các công cụ thường dùng là
chính sách thuế và hạn ngạch và thị trường ôtô nước ta cũng vậy. Nếu thuế
nhập khẩu xe tăng theo đó giá xe tăng dẫn đến cầu sẽ giảm làm cho lượng
cung ôtô trên thị trường giảm . Và ngược lại nếu thuế nhập khẩu giảm dẫn
đến giá giảm làm cho cầu tăng lên và lượng cung ra thị trường cũng tăng
lên.
2.2 Đánh giá thực trạng thị trường ô tô ở Việt Nam
2.2.1 Thực trạng thị trường ô tô ở Việt Nam
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
Thứ nhất, giá cả ô tô ở thị trường Việt Nam rất cao: Hiện nay nếu so
sánh giá của các loại ôtô của nước ta so với các nước khác trên thế giới thì
giá ôtô của nước ta vào loại cao . Điều này có rất nhiều nguyên nhân do
chính sách thương mại , do các nhà đầu tư chưa khai thác hết hiệu quả sản
xuất kinh doanh của cả bộ máy ,cũng như không có sự hỗ trợ nhiều cho nền
công nghiệp ôtô.
Bảng 1 - Giá xe nhập khẩu mới năm 2005-2007
Việt Nam và Thế Giới
Tên hãng Kiểu

Giá tại Việt
Nam (USD)
Giá trên thế
giới (USD)
Giá VN so với
Thế giới(%)
Toyota Carmy 60 000 20000 300
Toyota LanCruise 72500 56215 129
Ford Escape 42000 21000 200
Ford Focus 35000 14000 250
Ford Ranger 32000 17000 188
BMW 325i 79800 30900 258
Toyota Corolla 34000 15000 227
Trung bình 221

Qua bảng trên ta thấy giá xe nhập khẩu vào thị trường Việt Nam cao
hơn ở trên thế giới rất nhiều gần gấp 2,5 lần đó là chưa kể đến giá của các
loại ôtô sản xuất và lắp ráp trong nước.
Giá của một số loại xe nhâp khẩu và sản xuất ở trong nước ( Xem phụ
lục 2 và 3 )
Thứ hai, Tỷ lệ nội địa hoá thấp: Tỡnh hỡnh thực hiện nội địa hoá
trong công nghiệp chế tạo phụ tùng ô tô Việt nam như sau:
- Tỉ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp FDI rất thấp. Đối với xe con,
chỉ đạt khoảng 2 % - 10% giá trị của xe, trong đó hầu hết sử dụng các chi
tiết, phụ tùng đơn giản.
- Đối với các loại ô tô chở khách đến 25 chỗ ngồi và ô tô tải nhẹ, tỉ lệ
nội địa hoá đạt khoảng 10% - 20% (mới sử dụng các loại phụ tùng, chi tiết
đơn giản, có giá trị thấp).
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học

- Đối với xe khách từ 25 chỗ ngồi trở lên, mức nội địa hoá đạt cao
hơn, có thể lên đến 25-35% giá trị xe như các doanh nghiệp công bố nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Mức độ tỉ lệ nội địa hoá tuy
đạt khá cao song chưa có phương pháp tính thống nhất nên chưa kiểm
chứng được trong thực tế.
- Số lượng các cơ sở chế tạo phụ tùng ô tô (kể cả có vốn đầu tư với
nước ngoài) đạt trỡnh độ quốc tế cũn quỏ ớt; cỏc chi tiết, phụ tựng chế tạo
cũn đơn giản, giá trị kinh tế thấp.
- Các cơ chế chính sách phát triển của Nhà nước mới chỉ áp
dụng cho công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô, chưa khuyến
khích công nghiệp chế tạo phụ tùng trong nước.
Ông Đỗ Hữu Hào, Thứ trưởng Bộ Công thương, cho biết đến nay
đó có 17 doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được cấp giấy
phép đầu tư, trong đó có 12 DN đang hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng
ký khoảng 1 tỷ USD, tổng năng lực sản xuất đạt khoảng 150.0000 xe/năm.
Tính đến hết năm 2006, các DN này đã bán được tổng cộng khoảng
270.000 chiếc ô tô, đóng góp cho ngân sách nhà nước gần 1,5 tỷ USD.
Trong khi đó, Việt Nam cũng đã có 47 DN trong nước đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất, lắp ráp ôtô, với các đơn vị như Tổng công ty Công nghiệp ôtô
Việt Nam, Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp, Tập đoàn
Than – Khoáng sản hiện cũng hợp tác với Nga lắp ráp các loại xe tải hạng
nặng như Kamaz, KraZ…
Theo quy định, khi xin cấp giấy đầu tư sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt
Nam, các DN phải cam kết đạt tỷ lệ nội địa hóa 20-40% sau thời gian 5-10
năm. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, không DN nào thực hiện đúng
cam kết đó.“Tỷ lệ nội địa hóa của các liên doanh sản xuất ô tô tại Việt Nam
là rất thấp. Theo đó, các DN này chỉ nội địa hoá được 5-10%, không đạt kế
hoạch đề ra”, ông Đỗ Hữu Hào cho biết.
Thứ ba, Vấn đề về thuế:
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47

Đề án môn học
Bảng 4: Thuế xuất đối với các loại xe năm 2006- 2007
Thuế 2006
(USD/chiếc)
Thuế 2007
(USD/chiếc)
Mức giảm
(%)
Xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống, kể cả lái
xe, có dung tích xi-lanh động cơ:
Dưới 1.0 3.000 3.000 0%
Từ 1.0 đến 1.5 7.000 6.300 10%
Từ 1.5 đến 2.0 10.000 8.500 15%
Từ 2.0 đến 2.5 15.000 12.000 20%
Từ 3.0 đến 4.0 18.000 18.000 0%
Từ 4.0 đến 5.0 22.000 22.000 0%
Trờn 5.0 25.000 26.250 (tăng 5%)
Xe từ 6 đến 9 chỗ, kể cả lái xe, có
dung tích xi-lanh động cơ:
Từ 2.0 trở xuống 9.000 7.650 15%
Trên 2.0 đến 3.0 14.000 11.200 20%
Trên 3.0 đến 4.0 16.000 16.000 0%
Trờn 4.0 20.000 20.000 0%
Xe từ 10 đến 15 chỗ, kể cả lái xe, có
dung tích xi-lanh động cơ
Từ 2.0 trở xuống 8.000 6.800 15%
Trên 2.0 đến 3.0 12.000 9.600 20%
Trờn 3.0 15.000 15.000 0%
Theo biểu thuế do Bộ Tài chính vừa xây dựng hoàn chỉnh, những loại
xe nhập khẩu được hưởng thuế suất 70% thay với mức 80% hiện nay gồm

xe chở không quá 8 người (kể cả lái xe); xe chở 10 người trở lên; xe hai
cầu (bốn bánh chủ động); xe dùng động cơ diesel và cả xe dùng động cơ
đốt trong với dung tích xi-lanh từ dưới 1.800 cc đến trên 4.000 cc; xe có
động cơ được thiết kế chủ yếu để chở người (trừ các loại thuộc nhóm
87.02), kể cả xe chở người có khoang hành lý riêng và ôtô đua, xe được
thiết kế đặc biệt để đi trên tuyết, xe hạng golf.
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
Riêng đối với mặt hàng ôtô đó qua sử dụng, Bộ Tài chính cũng đang
xem xét giảm thuế tuyệt đối cho các dũng xe ở mức trung bỡnh 5% và ỏp
dụng cựng thời điểm đối với mặt hàng xe mới nguyên chiếc. Theo tính toán
của cơ quan này, với mức giảm 5%, thuế nhập khẩu bỡnh quõn mỗi chiếc
ụtụ cũ sẽ giảm được khoảng 1.000 USD.
Khi thuế giảm đó là cơ hội để các hãng xe trên thế giới tràn vào Việt
Nam đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.Tuy vậy nó lại có ảnh hưởng
đến thị trường sản xuất ô tô trong nước.Điều đó đòi hỏi chính phủ phải có
những biện pháp tích cực với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Thứ tư,Cơ sở hạ tầng còn yếu kém: Tính đến hết năm 2000, hệ thống
đường bộ Việt Nam có 210.447 km, trong đó 169.005 km là đường nông
thôn và chỉ có 3.211 km đường đô thị. Phần lớn lòng đường hẹp, chất
lượng xấu. Diện tích dành cho giao thông tĩnh trong các đô thị (bãi đỗ xe,
nhà đỗ xe) quá ít ỏi, chỉ có 0,7%, trong khi ở các đ« thị hiện đại là 5-7%.
Ước tính đến năm 2019 cả nước sẽ có khoảng 3 triệu xe lưu hành các loại
điều đó đặt ra vấn đề về cơ sở hạ tầng là cấp bách nếu muốn phát triển
nghành công nghiệp ôtô.
Thứ năm,Nguồn nhân lực chưa đáp ứng đầy đủ được nhu cầu của thị
trường ôtô: Công nghiệp ôtô VN đi sau những nước có nền công nghiệp ôtô
tầm trung (dạng F2,3) hàng chục năm chứ chưa so sánh đến các nước tiên
tiến với hàng trăm năm phát triển. Và đương nhiên, như lời một nhà nghiên
cứu chuyên ngành ôtô khẳng định: "Công nghiệp đã chậm thì nhân lực

đương nhiên sẽ thiếu. Nói điều đó không có nghĩa là chúng ta không có
những người học về chuyên ngành ôtô và công nhân VN tay nghề kém,
nhưng học lại thiếu thực hành vì công nghiệp đâu có phát triển để ứng
dụng. Hoặc giả có thực hành và ứng dụng vào thực tế thì cũng chỉ ở
mức thấp với việc lắp ráp hay sửa chữa". Ngay đối với các liên doanh
sản xuất, lắp ráp ôtô vào VN cách đây khoảng chục năm đến nay cũng
chủ yếu thực hiện công việc như sơn,gò, hàn, lắp ráp chứ chưa đi sâu
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47
Đề án môn học
vào những công đoạn đòi hỏi trình độ và tay nghề cao. Theo đánh gía của
nhiều liên doanh thì sản lượng lắp ráp, tiêu thụ ôtô ở VN quá nhỏ và các
liên doanh đều không phát huy qúa một nửa công suất. Điều đó có nghĩa
là nhân lực được sử dụng không nhiều và nếu tăng hết công suất thì
chắc chắn sẽ thiếu nhân lực. Nhu cầu sử dụng các loại ôtô đang ngày
càng gia tăng chóng mặt, kèm theo đó là một số DN trong nước được
đầu tư sản xuất, lắp ráp ôtô khiến nhân lực là một vấn đề nan giải đối
với họ. Sự cố của hàng chục xe bus do Công ty cơ khớ ôtô 1/5 lắp ráp
năm ngoáI là một ví dụ. Sự việc cho thấy lỗi của sự cố không chỉ phụ
thuộc vào những người thợ trực tiếp mà còn nói lên trình độ, tay nghề
của những người quản lý như giám đốc, phó giám đốc, quản đốc phân
xưởng... Một điều dễ nhận thấy là hầu hết các dự án sản xuất của các
DN VN đều chủ yếu là lắp ráp và để có được nguồn nhân lực thì các DN
đều cố ý lôi kéo những người có tay nghề cao từ các liên doanh về làm
cho họ với mức lương cao hơn hẳn. Cách đây khoảng một năm, một DN
trong quá trình đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất, lắp ráp ôtô xe tải nhỏ,
có công suất khoảng 10.000 xe/ năm đó phải chạy đôn, chạy đáo, nhờ
người tìm hộ từ những người thợ có tay nghề cho đến quản đốc, nhà
quản lý. Nghĩa là thiếu nhân lực trầm trọng, toàn diện. Một dự án khác
vừa được Chính phủ cho phép thực hiện sản xuất, lắp ráp ôtô cũng trong
tình trạng đang vừa xây dựng vừa tìm kiếm nguồn nhân lực. Gần như ở

bộ phận nào cũng có sinh viên, thợ kỹ thuật tìm đến học việc và để thực
hành được lại cần phải có thời gian. Có lẽ, trong quá trình xin đầu tư
cũng như đầu tư, ít DN nào chú trọng đến vấn đề này. Cũng có DN luôn
chú trọng đầu tư về nhân lực cho chính mình và cho ngành công nghiệp
ôtô VN như cty TNHH ôtô Chu Lai - Trường Hải. Trong mấy năm hoạt
động của mình, ngoài việc tìm kiếm và thu hút chuyên gia hàng đầu về
ôtô trong nước, các thầy cô đã và đang giảng dạy ở một số trường, viện
nghiên cứu trong và ngoài nước, Cty thường xuyên tài trợ cho các đơn
Dương Ngọc Cương QTKD Tổng hợp 47

×