Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Một số biện pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả học Sinh học 6 ở trườngTH & THCS Đông Nam, huyện Đông Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
TT
1
2

3

NỘI DUNG
PHẦN I : MỞ ĐẦU
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
3. GIẢI QUYẾT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHẦN III: KẾT LUẬN - KIẾN THỨC
1. KẾT LUẬN
2. KIẾN NGHỊ

TRANG
2
3
3
4
6
16
17

1


PHẦN I- MỞ ĐẦU


1.1.

Lý do chọn đề tài:

Trong sự nghiệp giáo dục việc nâng cao chất lượng dạy học là một trong
những khâu then chốt, nhiệm vụ trọng tâm của mỗi nhà trường nói chung và của
mỗi giáo viên nói riêng, xuyên suốt quá trình dạy học và là việc làm thường
xuyên.
Thật vậy trong những năm qua chúng ta đã thực hiện quá trình đổi mới
chương trình,giảm tải nội dung sách giáo khoa, sử dụng đồ dùng dạy học nhằm
giảm tính lý thuyết, tăng tính thực tiễn, thực hành đảm bảo vừa sức, đạt hiệu quả
cao trong dạy và học.Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp giảng
dạy phù hợp với nội dung bài học đáp ứng với yêu cầu đã được cụ thể hóa trong
luật giáo dục: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với từng đặc điểm của lớp học,
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, khả
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui
hứng thú cho học sinh”
Để thực hiện yêu cầu trên thì việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm, tích cực hóa hoạt động của học sinh và việc vận dụng các
phương pháp dạy học phù hợp với từng nội dung, từng đối tượng học sinh, từng
biện pháp dạy học, địi hỏi giáo viên phải có sự đổi mới cả về tư duy và phương
pháp dạy học.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm. Hầu hết các hiện tượng, khái
niệm,
quy luật, quá trình trong Sinh học đều bắt nguồn từ thực tiễn. Biểu diễn bằng thí
nghiệm hay mẫu vật trực quan là một trong những phương pháp quan trọng để tổ
chức học sinh nghiên cứu các hiện tượng Sinh học. Nhất là học sinh lớp 6 muốn
hình thành kiến thức Sinh học thì việc quan sát mẫu vật là rất quan trọng và hữu
ích. Từ quan sát mẫu vật học sinh sẽ phát hiện kiến thức nhanh, nhớ lâu vận

dụng vào thực tiễn tốt.
Qua nhiều năm giảng dạy ở trường TH - THCS Đông Nam là một trường
thuộc vùng có điều kiện kinh tế khó khăn của huyện Đông Sơn , tôi thấy rằng
việc sử dụng mẫu vật của học sinh lớp 6 còn chưa được thành thục. Do đó việc
rèn luyện kỹ năng sử dụng mẫu vật cho các em là một việc làm hết sức cần thiết
để nâng cao chất lượng học tập. Nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng vật mẫu như thế
nào để giảng dạy có hiệu quả cao? Hiện nay qua nghiên cứu tơi nhận thấy chưa có
tài liệu nào bàn sâu về vấn đề này. Chính vì vậy trên cơ sở kinh nghiệm giảng
dạy, kết hợp với việc trao đổi cùng đồng nghiệp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề
tài “ Một số biện pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả học Sinh học 6
ở trườngTH & THCS Đơng Nam, huyện Đơng Sơn ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu
quả học Sinh học 6 ở trường TH & THCS Đông Nam, huyện Đông Sơn ”
nhằm góp phần tích cực hố hoạt động của học sinh, nâng cao chất lượng giáo
2


dục mơn Sinh học nói chung, mơn Sinh học lớp 6 nói riêng ở trường TH- THCS
Đơng Nam
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp sử dụng mẫu vật có hiệu quả trong dạy học Sinh học 6 ở
trường TH - THCS Đông Nam.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Tổng hợp lí luận thơng qua tài liệu và thực tiến giảng dạy khối lớp 6 ở
trường TH - THCS Đông Nam.
- Phương pháp quan sát và điều tra sư phạm: Dự giờ, trao đổi ý kiến với
GV; Xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng của
việc sử dụng mẫu vật.
- Phương pháp tiến hành khảo sát học sinh, phân tích các số liệu thu được

qua khảo sát.
- Phương pháp hỏi ý kiến của các giáo viên có kinh nghiệm.
- Phương pháp thực hành nghiên cứu, giảng dạy và đúc rút kinh nghiệm.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.1.

Cơ sở lí luận:
Năm học 2019 - 2020 là năm học “ Tiếp tục đổi mới toàn diện về Giáo
dục và Đào tạo, nâng cao hiệu quả về chất lượng Giáo dục và Đào tạo gắn chặt
với mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội của địa phương” có liên quan đến việc
đổi mới phương pháp dạy học. Để sử dụng phương pháp như thế nào có hiệu
quả trong dạy học là việc làm hết sức quan trọng nhằm nâng cao chất lượng toàn
diện cho học sinh, giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức một cách độc lập, phát
huy tính độc lập sáng tạo, đồng thời kích thích sự tìm tịi khám phá khoa học
của học sinh. “ Sinh học là khoa học thực nghiệm, phương pháp dạy học gắn bó
chặt chẽ với thiết bị dạy học, do đó dạy Sinh học khơng thể thiếu các phương
tiện trực quan như mơ hình, tranh vẽ, mẫu vật, phim ảnh...”
Do vậy khi dạy học sinh về kiến thức sinh học chúng ta không nên chỉ
truyền đạt dưới dạng “thực đơn có sẵn”, học sinh chỉ học thuộc bài mà phải
truyền đạt một cách khoa học, giúp học sinh nắm chắc kiến thức có tính quy
luật, hiểu được bản chất của nó. Từ đó học sinh hiểu được các nhà khoa học tìm
ra kiến thức và các quy luật sinh học như thế nào...
Như vậy, một trong những hướng để đổi mới phương pháp dạy học đó là tăng
cường việc sử dụng các phương tiện dạy học và phương tiện dạy học hiện đại.
Với cấu trúc của sách giáo khoa Sinh học 6 hiện nay yêu cầu học sinh
phải nâng cao khả năng tư duy, tìm tịi kiến thức mới chủ động nên phương tiện
dạy học có vai trị hết sức quan trọng trong quá trình dạy học của giáo viên và
tiếp thu kiến thức mới của học sinh. Chính vì thế giáo viên cần tìm thêm dẫn liệu
để học sinh tìm hiểu và giúp cho bài dạy sinh động hơn.

Đối với học sinh lớp 6 giáo viên yêu cầu học sinh chủ động tiếp thu kiến thức
mới nhanh, vững vàng thơng qua dẫn liệu và hình ảnh. Rèn luyện cho học sinh kỹ
năng quan sát hình ảnh và mẫu vật, có ý thức giữ gìn, trồng và bảo vệ cây xanh để
tạo cho bầu khơng khí trong lành, cảnh quan quê hương thêm tươi đẹp.
3


Mặt khác trong một thời lượng bó hẹp chỉ một tiết dạy khơng chỉ dạy cho
một nhóm đối tượng học sinh mà giáo viên có thể vừa kiểm tra bài cũ, vừa khai
thác xây dựng, hình thành kiến thức mới và còn phải khắc sâu, mở rộng kiến
thức mới cho học sinh, giúp các em vận dụng tốt các kiến thức mới khi giải
thích các sự vật, hiện tượng thực tiễn trong cuộc sống và có thể hồn thành tốt
mọi bài tập có liên quan, giúp học sinh có thêm hứng thú khi học tập, để rồi
ngày một yêu thích mơn sinh học hơn. Đây cũng chính là một trong những yếu
tố góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả giờ lên lớp.
Ở lứa tuổi học sinh lớp 6, kinh nghiệm sống cịn ít, vốn hiểu biết chưa
nhiều, các em bắt đầu tiếp cận môn học, khả năng tư duy trừu tượng cịn hạn
chế,…thì việc sử dụng mẫu vật (trực quan) giúp học sinh hình thành kiến thức
nhanh hơn, chính xác hơn, nhớ lâu hơn, khả năng vận dụng thực tiễn tốt hơn.
Đồng thời học sinh cịn có được các kỹ năng bộ môn, thái độ đối với môn học và
ý thức bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường. Việc sử dụng mẫu vật (làm phương
tiện trực quan) còn phát huy được ở học sinh tính tự giác, tích cực tự lực, tính
chủ động sáng tạo trong việc tự tìm thấy kiến thức dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo
của giáo viên. Ngồi ra nó cịn gây hứng thú nhận thức cho học sinh, tạo yếu tố
tâm lí ban đầu tác dụng tới tồn bộ q trình nhận thức của các em. Có thể nói,
trong mơn sinh học 6 sử dụng mẫu vật thật có nhiều ưu điểm so với các phương
tiện trực quan khác như tranh ảnh, mơ hình… Nó cho học sinh biết rõ hình
dạng, màu sắc, kích thước thật của đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên cũng tuỳ
từng bài, từng nội dung, từng dạng kiến thức cụ thể mà có thể kết họp với các
phương tiện trực quan khác một cách hợp lí để tăng hiệu quả dạy học.

2.2. Cơ sở thực tiển:
Qua những năm giảng dạy bộ môn sinh học 6 ở trường TH - THCS Đông
Nam, tôi nhận thấy việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học còn hạn
chế do thiết bị, đồ dùng dạy học, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy cịn thiếu và
chưa đồng bộ... Vì vậy, với mơn sinh học 6 - nghiên cứu về giới thực vật thì việc
sử dụng mẫu vật sẵn có để quan sát, thí nghiệm tìm ra kiến thức sẽ có nhiều
thuận lợi cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học (Nhất là với điều
kiện của địa phương Đông Nam – Đông Sơn, là vùng nông thôn, hệ thực vật
tương đối đa dạng, gần gũi với học sinh). Mặc dù vậy, bản thân giáo viên chưa
thật sự tích cực chủ động nghiên cứu để sử dụng có hiệu quả mẫu vật sẵn có ở
địa phương để nâng cao hiệu quả dạy học. Bên cạch đó, với học sinh lớp 6 các
em mới bắt đầu làm quen với môn học, làm quen với phương pháp học tập bộ
mơn nên việc tìm kiếm thu thập mẫu vật của học sinh chưa hiệu quả, các em lấy
mẫu còn thiếu, mẫu chưa phù hợp (quá to, quá nhỏ hay không đủ bộ phận cần
thiết). Điều này một phần do giáo viên chưa dặn dò cẩn thận, chưa phân công rõ
ràng cũng như chưa hướng dẫn học sinh cách thu thập và bảo quản mẫu vật. Dẫn
tới khi sử dụng mẫu vật để nghiên cứu thì hiệu quả khơng cao. Có những bài
học, mẫu vật cần phải chuẩn bị trước cả tuần nhưng do giáo viên hướng dẫn
chậm nên học sinh chuẩn bị không kịp thời. Đơi khi giáo viên cịn q tin tưởng
mà giao cho học sinh tự chuẩn bị mẫu vật mà không chuẩn bị cùng học sinh, vì
vậy khi vào giờ học giáo viên không chủ động được trong khâu tổ chức nghiên
cứu phát hiện kiến thức. Đôi khi việc quan sát, nghiên cứu mẫu vật hiệu quả
4


chưa cao do tính tích cực của học sinh khơng cao, thao tác chậm, khả năng phát
hiện kiến thức từ mẫu vật chưa nhanh, điều đó làm ảnh hưởng tới phân bố thời
gian của bài học.
Thực tiễn trên dẫn tới kết quả dạy học chưa cao, việc thực hiện mục tiêu
giáo dục chưa triệt để. Học sinh nắm kiến thức không sâu, dễ quên, khả năng

vận dụng yếu, năng lực thực tiễn không cao. Đặc biệt việc ứng dụng các kỹ năng
bộ môn vào trong thực tiễn hiệu quả không cao chưa đáp ứng được yêu cầu.
Khảo sát chất lượng giữa học kỳ II môn sinh học 6 trường TH - THCS
Đông Nam năm học 2017 - 2018 với nội dung khảo sát:
A. CÂU HỎI.
I. TRẮC NGHIỆM (3đ)
Khoanh tròn vào một trong các chữ cái A, B, C, D theo em là đúng trong các
câu sau:

1. Trồng hai cây đậu vào hai chậu: A và B, ở chậu A bón đủ các loại phân, ở
chậu B cũng bón các loại phân nhưng thiếu phân đạm. Sau 1 thời gian cây ở
chậu B sẽ:
A. Cây phát triển bình thường
B. Cây lớn hơn cây ở chậu A
C. Cây sẽ chết
D. Cây phát triển chậm hơn cây ở
chậu A
2. Cây trầu không thuộc loại biến dạng rễ:
A. Rễ móc
B. Rễ thở
C. Rễ củ
D. Giác mút
3. Khi trời mưa nhiều đất ngập nước lâu ngày, cây mất khả năng hút nước và
muối khoáng là do:
A. Cây thốt nước nhiều
B. Rễ đang trong thời kì sinh trưởng
mạnh
C. Rễ cây bị úng và chết
D. Đất không phù hợp với cây.
4. Loại thân biến dạng giúp dự trữ chất dinh dưỡng cho cây là:

A. Thân bò
B. Thân leo
C. Thân mọng nước
D. Thân củ và thân rễ
5. Căn cứ vào cách mọc của thân, người ta chia thân làm 3 loai là:
A.Thân quấn, tua cuốn, thân bò
B. Thân gỗ, thân cột, thân cỏ
C.Thân đứng, thân leo, thân bò
D. Thân cứng, thân mềm, thân bò
6. Cấu tạo trong của thân non gồm hai phần chính là:
A. Vỏ và ruột
B. Vỏ và trụ giữa
C. Vỏ và bó mạch
D.
Trụ giữa và ruột
II. PHẦN TỰ LUẬN (7đ)
Câu 1: (2.5đ) Cần thiết kế thí nghiệm như thế nào để chứng minh sự nảy mầm
của hạt phụ thuộc vào chất lượng hạt giống?
Câu 2:(3đ) Kể tên các ngành thực vật đã học( từ thấp đến cao)? Nêu đặc điểm
chính của mỗi ngành?
Câu 3: (1.5đ) Tại sao người ta nói: “Rừng cây như lá phổi xanh của con
người”?
B. ĐÁP ÁN VÀ BIỂU CHẤM .
I. PHẦN TRẮC NGHIỆM (3đ) : Mỗi ý đúng được 0,5đ
1. D

2. A

3. C


4.D

5. C

6. B

5


II. PHẦN TỰ LUẬN (7đ)
Câu
Đáp án
Điểm
+ Cốc 1 chọn 10 hạt đỗ có phẩm chất tốt bỏ vào cốc và lót xuống
1
dưới những hạt đỗ một lớp bơng ẩm rồi để vào chỗ mát .
1
+ Cốc 2 chọn 10 hạt đỗ sứt sẹo, bị sâu mọt bỏ vào cốc và lót
1
xuống dưới những hạt đỗ một lớp bơng ẩm rồi để vào chỗ mát. +
+ Sau 3- 4 ngày đem cả 2 cốc ra quan sát .
1
- Ngành tảo: Thực vật bậc thấp; chưa có rễ, thân, lá, sống ở
0.5
nước.
- Ngành rêu: Thực vật bậc cao; có thân, lá, rễ giả, chưa có mạch
0.5
dẫn, sinh sản bằng bào tử.
- Ngành dương xỉ: Có rễ thật, có mạch dẫn, sinh sản bằng bào tử.
0.5

- Ngành hạt trần: Rễ , thân, lá phát triển ; có mạch dẫn; cơ quan
0.5
sinh sản là nón, sinh sản bằng hạt nằm trên lá nỗn hở.
- Ngành hạt kín: Rễ, thân, lá phát triển đa dạng; có hoa, quả, hạt;
0.5
hạt nằm trong quả, nên bảo vệ tốt hơn.
Cơ bản nêu được các ý:
- Ngăn bụi.
0.5
3
- Diệt một số vi khuẩn.
0.5
- Giảm ô nhiễm môi trường.
0.5

Số
HS
53

Kết quả thu được:
Loại giỏi
Loại Khá
(8-10đ)
(6.5- 7.9đ)
%
%
SL
SL
7,5
18,9

4
10

Loại TB
(5- 6.4đ)
%
SL
38
20

Loại yếu
(3.5-4. đ)
%
SL
35,6
19

Loại kém
(Dưới 3.5đ)
%
SL
0
0

2.3 GIẢI QUYẾT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
2.3.1. Xác định vai trò của phương pháp trực quan và phương tiện trực quan
Phương pháp trực quan là cách sử dụng phương tiện trực quan nhằm cung
cấp thông tin để học sinh phát hiện, khai thác và lĩnh hội kiến thức.
Do vậy đối với bộ mơn Sinh học thì phương pháp trực quan đóng vai trị
hết sức quan trọng đến việc hình thành kiến thức mới cho học sinh.

Trong nhóm phương pháp trực quan thì phương tiện trực quan là nguồn
chủ yếu để dẫn dắt học sinh tìm hiểu kiến thức mới, q trình diễn giảng của
giáo viên chỉ đóng vai trị hướng dẫn học sinh quan sát các đồ dùng trực quan
như mẫu vật, tranh ảnh thí nghiêm hoặc qua đoạn video học sinh có thể tổng hợp
các kết quả quan sát, đối chiếu với kênh thông tin sách giáo khoa rồi rút ra kết
luận. Đó chính là kiến thức cần chiếm lĩnh và qua tư duy để đúc rút ra kiến thức
mới cần khai thác.
Phương pháp trực quan giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách cụ thể,
xác thực, sinh động về thế giới sinh vật. Qua phương tiện trực quan học sinh dễ
dàng nắm chắc kiến thức qua quan sát và thao tác với các phương tiện trực quan
đồng thời rèn luyện cho học sinh kĩ năng quan sát, so sánh, tổng hợp kiến thức.
Từ đó khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh và phát huy tính tích cực, chủ
6


động trong học tập của học sinh. Giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ thiên
nhiên và tình cảm của các em đối với quê hương, đất nước.
2.3.2. Lập kế hoạch dạy học
Một giờ dạy có thành cơng hay khơng thì khâu lập kế hoạch bài học đóng
vai trị quan trọng, đây là việc làm đầu tiên quyết định kết quả của bài dạy.
Trên cơ sở của kế hoạch được lập ra giáo viên xác định được mục tiêu bài
học, thiết bị và đồ dùng dạy học, xây dựng hình thức tổ chức dạy học bằng hệ
thống câu hỏi phù hợp với nội dung bài học, xây dựng cách đánh giá theo mục
tiêu của bài. Từ đó định hướng được phương pháp dạy học cho phù hợp với
kiểu bài lên lớp.
Việc lập kế hoạch bài học giúp giáo viên khắc phục được một số hạn chế:
- Không xác định đúng mục tiêu bài học, hoặc thết lập hệ thống hoạt
động, câu hỏi khơng logic, khơng có tiêu chí cụ thể đánh giá được bài học.
- Giáo viên không chủ động được các bước dạy học trên lớp, còn lúng
túng bị động khi gặp những tình huống đột xuất, bất ngờ xảy ra trên lớp.

2.3.3. Giải pháp 1: Thường xuyên thu thập và sử dụng mẫu vật trong quá
trình dạy học.
Trong chương trình Sinh học 6, rất nhiều bài học khi sử dụng mẫu vật làm
phương tiện trực quan để quan sát, so sánh, thực hành để tìm ra kiến thức sẽ
mang lại hiệu quả cao. Sử dụng mẫu vật giúp học sinh học tập tích cực hơn, chủ
động hơn, phát triển được năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng thực tiễn.
Đồng thời rèn được kỹ năng bộ môn như quan sát, so sánh, kỹ năng hợp tác…
Vì vậy, sử dụng mẫu vật là khơng thể thiếu trong dạy học Sinh học 6.
Trong quá trình giảng dạy Sinh học 6 năm học 2019 - 2020 này, tôi đã thường
xuyên nghiên cứu thu thập và sử dụng mẫu vật. Có nhiều bài học, nhiều nội
dung rất cần sử dụng mẫu vật để học sinh quan sát, phân tích, so sánh… rút ra
kiến thức. Cho dù nhiều bài, nhiều nội dung nếu không sử dụng mẫu vật mà sử
dụng tranh để quan sát thì học sinh vẫn hình thành được kiến thức. Tuy nhiên,
nếu sử dụng mẫu vật thì khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh sẽ sâu sắc
hơn, nếu khơng có mẫu vật thì học sinh sẽ hình thành kiến thức một cách mơ
hồ, hời hợt, khi ra thực tế học sinh không vận dụng được. Hơn nữa sử dụng mẫu
vật giúp rèn luyện được các kỹ năng bộ môn và phù hợp với nhận thức, tư duy
của học sinh lớp 6. Theo tôi trong chương trình sinh học 6 có khoảng hơn nửa
số bài nên dùng mẫu vật trong quá trình dạy học. Tùy từng bài, từng nội dung
cụ thể mà sử dụng một cách hợp lí, mẫu vật có thể sử dụng ngay phần kiểm tra
bài cũ, phần tìm hiểu kiến thức mới hay khi củng cố bài.
Ví dụ 1: Khi dạy tiết 8 (bài 9 - Sinh học 6): Các loại rễ, các miền của rễ.
HĐ Tìm hiểu các loại rễ:
- Đầu tiên giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị mẫu vật của học sinh, sau đó chia
nhóm và yêu cầu cá nhóm để mẫu vật lên bàn.
- Yêu cầu các nhóm thực hiện nhiệm vụ sau:
+ Phân các loại rễ đã có thành hai nhóm? Viết những đặc điểm dùng để phân
loại chúng thành hai nhóm?
7



+ Xếp hai nhóm đó thành hai nhóm A và B tương ứng với hình 9.1 sgk.
+ Lấy một cây ở nhóm A, một cây ở nhóm B. Quan sát, nhận xét, rút ra đặc
điểm của từng loại rễ?
- Các nhóm học sinh cùng thực hiện nhiệm vụ của nhóm mình bằng cách quan
sát mẫu vật hiện có để thực hiện yêu cầu.
- Yêu cầu cần đạt là:
+ Chia được hai nhóm cây: Nhóm 1 gồm nhãn, vải, dừa cạn…; nhóm 2 gồm lúa,
hành, ngơ…
+ Đặt tên nhóm theo hình 9.1 sgk: Nhóm A là nhóm 1; nhóm B là nhóm 2.
+ Rễ cây ở nhóm A thường có một rễ to đâm sâu và nhiều rễ nhỏ mọc xiên; rễ
cây ở nhóm B gồm nhiều rễ kích thước như nhau tạo thành một chùm.
- Giáo viên khẳng định kết quả và yêu cầu học sinh sử dụng kết quả đó để làm
bài tập điền từ vào chỗ trống sgk - tr 29: (Điền vào chỗ trống)
- Học sinh hoạt động độc lập hoàn thành bài tập vào vở bài tập.
- Gọi một học sinh đọc đáp án, học sinh khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên nhận xét và hồn chỉnh kiến thức.
+ Có hai loại rễ chính: rễ cọc và rễ chùm
+ Rễ cọc có rễ cái to khỏe, đâm sâu xuống đất và nhiều rễ con mọc xiên. Từ các
rễ con lại mọc ra nhiều rễ bé hơn nữa.
+ Rễ chùm gồm nhiều rễ to, dài gần bằng nhau, thường mọc tỏa ra từ gốc thân
thành một chùm.
- Yêu cầu học sinh lấy thêm các ví dụ về cây có rễ cọc, rễ chùm ngồi thực tế để
củng cố kiến thức.
Ví dụ 2: Khi dạy tiết 21 (bài 19 – Sinh học 6) - Đặc điểm bên ngoài của lá .
Giáo viên cùng hướng dẫn học sinh sưu tầm lá, cành có đủ chồi nách, cành
có các kiểu mọc lá.
Để đảm bảo cho học sinh không phá hoại cây cối giáo viên hướng dẫn học
sinh sưu tầm lá của các cây mọc dại là chủ yếu.
Đối với bài này giáo viên nên làm tiêu bản ép khô các mẫu vật mà học

sinh đã sưu tầm được, nếu tích lũy dần trong vài năm giáo viên sẽ có đủ số vật
mẫu khơ cho học sinh quan sát.
Ngồi ra hệ thống hình trong sách giáo khoa được trình bày bằng những
ảnh chụp hoặc hình ảnh có màu có tác dụng gây hứng thú quan sát cho học sinh.
Qua việc quan sát mẫu vật học sinh nêu được các đặc điểm bên ngoài của
lá và cách xếp lá trên cây phù hợp với chức năng thu nhận ánh sáng. Phân biệt
được 3 kiểu gân lá, lá đơn và lá kép.
Với bài này, giáo viên có thể vào bài bằng những câu hỏi và hình ảnh như
hướng dẫn trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, để gây hứng thú và tạo động lực tìm
hiểu kiến thức cho học sinh, tơi đã sử dụng mẫu vật để giới thiệu vào bài.
Sau khi giới thiệu chương, tôi đã dùng mẫu vật là một chiếc lá dâu có đủ
các bộ phận cho học sinh quan sát.
Hướng dẫn để học sinh chú ý vào các bộ phận của lá, các đặc điểm
của lá cần tìm hiểu trong bài học bằng cách sử dụng các câu hỏi để vấn đáp trực
8


tiếp học sinh, kết hợp các câu hỏi mở để gây hứng thú và tạo ra nhu cầu tìm hiểu
kiến thức của học sinh. Cụ thể như sau:
- Lá là một cơ quan sinh dưỡng của cây. Vậy lá có đặc điểm gì? (Câu hỏi
này khơng u cầu học sinh trả lời ngay, đó là nhiệm vụ của học sinh phải thực
hiện trong cả chương).
- Cho học sinh quan sát lá dâu và yêu cầu các em cho biết tên các bộ phận
của lá.
- Học sinh trả lời được: Cuống lá, phiến lá, gân lá.
- Giáo viên chỉ từng bộ phận của lá trên mẫu vật.
- Chức năng quan trọng nhất của lá là gì?
- Học sinh sử dụng kiến thức đã có ở tiểu học và nêu được: Chức năng
quan trọng nhất của lá là quang hợp, chế tạo chất hữu cơ.


- GV nêu câu hỏi gợi mở để vào bài: Lá có nhận được ánh sáng mới thực
hiện được chức năng này. Vậy những đặc điểm nào giúp lá nhận được nhiều ánh
sáng?
Sau đó giáo viên bắt đầu tổ chức cho học sinh tìm hiểu các nội dung của bài học.
2.3.2. Giải pháp 2: Kết hợp mẫu vật với các phương tiện trực quan
khác để nâng cao hiệu quả
* Mẫu vật: Tùy vào từng bài dạy mà giáo viên lựa chọn mẫu tươi hay mẫu khô.
Việc quan sát trực tiếp trên các mẫu vật tạo điều kiện tốt nhất cho những
hoạt động học tập tích cực của học sinh. Để có được phương tiện dạy học loại
này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia chuẩn bị.
Giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị từ đầu năm học ( thậm chí từ những
năm học trước). Tìm hiểu và nắm chắc tình hình cây cối ở địa phương để có thể
lựa chọn được những đối tượng quan sát theo nội dung của bài học mà hướng
dẫn học sinh sưu tầm.

9


Một số cây khơng có ở địa phương hoặc hiếm khó kiếm, giáo viên có kế
hoạch sưu tầm hoặc mua về vườn trường trồng hay trồng trong chậu để đảm bảo
có đủ mẫu vật cho học sinh quan sát.
- Khi sử dụng mẫu vật cần đặc biệt chú ý việc bảo vệ môi trường, giáo
viên nên hướng dẫn học sinh cùng tham gia làm tập bách thảo, qua nhiều năm sẽ
có đủ vật mẫu cần thiết giúp hạn chế yêu cầu học sinh lấy mẫu tươi.
Ví dụ 1: Khi dạy bài biến dạng của lá giáo viên có kế hoạch chia nhóm để
phân cơng các nhóm sưu tầm mẫu vật như: Cây mây, đậu Hà Lan, cây hành còn
lá xanh, củ dong ta, cành xương rồng. Một số cây hiếm khơng tìm được mẫu vật
sống như cây nắp ấm, cây bèo đất thì giáo viên phải dùng hệ thống tranh vẽ có
màu cho học sinh quan sát để tìm ra sự sai khác đối với lá bình thường rồi suy
ra lá biến dạng nhằm thực hiện chức năng khác.

* Mô hình: Ở một số bài sử dụng mơ hình phát huy được ưu điểm của nó
như củng cố bài hoặc kiểm tra q trình tiếp thu bài của học sinh.
Ví dụ: khi dạy bài cấu tạo trong của phiến Lá sử dụng mơ hình nhưng trong
thực tế mơ hình có sẵn, được cấp phát chỉ mang tính hình thức, chất lượng
khơng đảm bảo.
* Tranh ảnh:
Đa số các bài đều có thể sử dụng tranh ảnh, trong trường hợp bài dạy
không chuẩn bị được mơ hình mẫu vật thì có thể thay thế bằng tranh ảnh.
Ví dụ: Khi dạy bài cấu tạo ngoài của Lá hoặc bài các loại Lá biến dạng
nhiều khi giáo viên phải sử dụng kết hợp cả mẫu vật và tranh ảnh để dạy
* Video- băng đĩa:
Khi dạy phần mơ tả các thí nghiệm giáo viên có thể sử dụng các đoạn
video cho học sinh quan sát vì qua đoạn video thường thể hiện đầy đủ nội dung
yêu cầu của mục tiêu, nó có thể thay thế tranh ảnh, mơ hình...
Ví dụ: Khi dạy bài Quang hợp hoặc thí nghiệm phần lớn nước vào cây đi
đâu hay bài Cây có hơ hấp khơng hoặc ảnh hưởng của các điều kiện bên ngồi
đến quang hợp giáo viên có thể sử dụng các đoạn video cho học sinh quan sát.
* Kính hiển vi- tiêu bản
Đối với những bài tìm hiểu cấu tạo hiển vi trong của cơ thể sinh vật giáo
viên cần chuẩn bị kính hiển vi và tiêu bản đã lên hình sẵn để học sinh quan sát.
Ví dụ: Bài cấu tạo trong của phiến lá giáo viên chuẩn bị kính hiển vi rồi lên
tiêu bản sẵn để học sinh quan sát cấu tạo trong của phiến lá, quan sát sự đóng
mở của lỗ khí..
10


* Chuẩn bị của học sinh.
Việc chuẩn bị đồ dùng học tập và chuẩn bị bài trước khi đến lớp đóng vai
trị quan trọng giúp học sinh chủ động trong q trình lĩnh hội kiến thức, phát
huy được tính tích cực, phát triển năng lực tư duy, óc sáng tạo đồng thời góp

phần vào sự thành cơng của bài dạy.
* Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học.
Sau mỗi tiết dạy giáo viên cần có kế hoạch hướng dẫn học sinh làm bài
tập, chuẩn bị bài , đồ dùng, mẫu vật, tranh ảnh cần thiết cho tiết học tiếp theo.
Ví dụ: Đối với bài “Đặc điểm bên ngồi của lá” giáo viên phân cơng từng
nhóm học sinh sưu tầm 1 số cành và lá khác nhau, chú ý sao cho có đủ các loại:
- Lá đơn: Rau cải, su hào, rau húng,kinh giới, rau muống...
- Lá kép: Hoa hồng, me, xấu hổ...
- Lá mọc cách: Mồng tơi, dâm bụt,ớt, cúc tần...
- Lá mọc đối: Cỏ lào,rau dệu,cỏ nhọ nồi,sài đất...
- Lá mọc vòng: Trúc đào, cây hoa sữa...
- Lá có gân song song hay hình cung ( Tre, nứa, trúc nhật, ngọc trâm...)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh kẻ bảng trước vào vở bài tập.
Kiểu xếp lá trên cây
STT

Tên cây
Có mấy lá mọc từ một mấu thân

Kiểu xếp lá

* Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát mẫu vật.
♠ Quan sát mẫu vật sống:
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh quan sát “ Đặc điểm bên ngoài của Lá”
+ Quan sát phần phiến lá: Yêu cầu học sinh quan sát phần phiến lá của tất
cả các loại lá, nhận xét về hình dạng, kích thước, màu của phiến lá, diện tích bề
mặt của phiến lá so với phần cuống. Từ đó trả lời các câu hỏi:
- Tìm những điểm giống nhau của phần phiến các loại lá?
- Những điểm giống nhau đó có tác dụng gì đối với việc thu nhận ánh
sáng của lá?

Học sinh khác nhận xét bổ sung. Giáo viên chốt lại kiến thức.
+ Quan sát phần gân lá: Yêu cầu học sinh lật mặt dưới của lá sẽ thấy rõ
gân lá. Đối chiếu với H.19.3 để phân biệt đủ 3 kiểu gân lá.
+ Phân biệt lá đơn và lá kép: Yêu cầu học sinh quan sát mẫu vật và quan
sát h.19.4 để nhận biết và phân biệt lá đơn với lá kép. Giáo viên có thể yêu cầu
11


học sinh mỗi nhóm đưa ra các lá đã chọn lên để học sinh nhận xét lẫn nhau.
Giáo viên theo dõi nhận xét sửa chữa nếu các em còn phân loại sai.
♠ Quan sát tranh ảnh.
Ví dụ: Khi dạy bài 20- Cấu tạo trong của phiến lá. Phần tìm hiểu cấu tạo
và chức năng của biểu bì.GV chiếu tranh lên màn chiếu, giới thiệu tranh H20.2
và 20.3. Yêu cầu HS quan sát- đọc thông tin SGK, suy nghĩ để trả lời câu hỏi:
- Những đặc điểm nào của lớp tế bào biểu bì phù hợp với chức năng bảo
vệ phiến lá và cho ánh sáng chiếu vào những tế bào bên trong?
- Hoạt động nào của lỗ khí giúp lá trao đổi khí và thốt hơi nước?
HS trao đổi nhóm nhỏ để tìm câu trả lời. Thảo luận tồn lớp về 2 câu trả lời đó.
+ GV chốt lại:
- Đặc điểm phù hợp với chức năng bảo vệ: Biểu bì gồm một lớp tế bào có
vách ngồi dày, xếp sát nhau.
- Đặc điểm để phù hợp với chức năng để ánh sáng chiếu qua được: Tế bào
không màu, trong suốt.
- Hoạt động đóng mở của lỗ khí giúp lá trao đổi khí và thốt hơi nước.
♠ Quan sát mơ hình và tiêu bản.
Hướng dẫn học sinh quan sát mơ hình và tiêu bản để hướng dẫn học sinh
tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và chức năng của tế bào thịt lá.
- GV đưa ra mơ hình cấu tạo một phần phiến lá yêu cầu học sinh quan sát
và đọc thông tin SGK để trả lời các câu hỏi về đặc điểm của lớp tế bào thịt lá và
ghi vào vở bài tập.

- Nếu GV có tiêu bản hiển vi về cấu tạo cắt ngang của phiến lá thì chia
lớp thành 4-5 nhóm tùy thuộc vào số lượng tiêu bản hiện có rồi lần lượt yêu cầu
từng HS trong nhóm quan sát tiêu bản.sau đó mỗi HS thực hiên lệnh SGK trả lời
các câu hỏi về đặc điểm của lớp tế bào thịt lá rồi ghi vào vở bài tập.
- HS trao đổi trong nhóm nhỏ về các câu trả lời để có thể giúp nhau tìm
được đặc điểm cấu tạo phù hợp với chức năng của lớp tế bào thịt lá.
- HS trao đổi tồn lớp để tìm được những câu trả lời đúng.
- Cuối cùng GV giúp HS hoàn thiện kiến thức:
+ Tế bào thịt lá ở cả hai phía đều chứa nhiều lục lạp giúp cho phiến lá thu
nhận ánh sáng để chế tạo chất hữu cơ cho cây.
+ Những điểm khác nhau giữa các lớp tế bào thịt lá:
Các đặc điểm so sánh

Tế bào thịt lá phía trên

Tế bào thịt lá phía dưới

Hình dạng tế bào

Những tế bào dạng dài

Những tế bào dạng tròn

Cách xếp của tế bào

Xếp rất sát nhau

Xếp không sát nhau

Lục lạp


Nhiều lục lạp hơn, xếp Ít lục lạp hơn, xếp lộn
theo chiều thẳng đứng
xộn trong tế bào

12


+ Lớp tế bào phía trên có cấu tạo phù hợp với chức năng chính là chế tạo
chất hữu cơ. Lớp tế bào thịt lá phía dưới có cấu tạo phù hợp với chức năng chính
là chứa và trao đổi khí.
♠ Hướng dẫn học sinh quan sát video.
Ví dụ 1: Cho học sinh quan sát đoạn video về thí nghiệm về sự hô hấp của cây:
- Bài 23 “ Cây có hơ hấp khơng” Vì đối với bài này thời gian tiến hành và
để theo dõi được thí nghiệm diễn ra trong thời gian dài, buộc GV phải làm thí
nghiệm trước ở nhà nên việc trình chiếu đoạn video là hợp lý để HS được làm
quen dần với cách thức làm một thí nghiệm.Mỗi thí nghiêm GV cho HS xem 2-3
lần.
- GV giới thiệu đoạn băng cần quan sát.
- Giao nhiệm vụ cho học sinh quan sát bao gồm:
+ Cách tiến hành thí nghiệm.
+ Kết quả thí nghiệm.
+ Thí nghiêm 1: Chứng minh trong q trình hơ hấp cây thải ra khí
cacbonic.
GV cho HS trình bày lại thí nghiệm trước lớp và trả lời được câu hỏi:
* Thí nghiêm đặt trên tấm kính ướt nhằm mục đích gì?
* Khơng khí trong 2 chng đều có chất gì? Vì sao em biết?
* Vì sao trên mặt cốc nước vơi trong chng A có lớp váng dày hơn?
* Vậy vì sao lượng khí cacbonic trong chng A lại nhiều hơn?
- Đại diện nhóm trình bày kết quả → nhóm khác nhận xét bổ sung tìm câu

trả lời đúng.
- GV giúp HS hồn thiện đáp án và rút ra kết luận: Khi không có ánh
sáng, cây đã thải ra nhiều khí cacbonic.
+ Thí nghiệm 2
Sau khi HS xem xong đoạn băng thí nghiệm; GV u cầu HS các nhóm
thiết kế lại thí nghiệm dựa trên thiết bị đã có sẵn, sau đó cho HS thảo luận tồn
lớp về cách thiết kế thí nghiệm.
GV u cầu nhóm có thiết kế đúng trình bày và giải thích.
GV giúp HS hồn thiện cách thiết kế thí nghiệm.
Từ đó u cầu HS trả lời câu hỏi:
- Thí nghiệm vừa xem nhằm mục đích gi?
- Nêu kết quả thí nghiệm?
- Từ thí nghiệm 1 và 2 em rút ra kết luận gi?
- Đại diện nhóm trình bày kết quả, nhóm khác bổ sung.
GV chốt lại: Cây có hơ hấp thải ra khí cacbonic và hút khí oxi của khơng khí.
2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn và nhắc nhở học sinh chuẩn bị mẫu vật cho
từng bài học.
Với học sinh lớp 6, việc thu thập mẫu vật cho bài học là không đơn giản.
Cho dù mẫu vật rất gần gũi và dễ kiếm, tuy nhiên các em đang còn nhỏ, nhiều
khi chưa phân biệt được các cây thường gặp xung quanh. Hơn nữa, các em lại
mới làm quen với phương pháp học tập bộ môn nên nhiều khi các em quên đi
việc chuẩn bị mẫu vật trước khi đến lớp. Sự chuẩn bị mẫu vật cho bài học
13


thường bị thiếu, không đồng bộ, mẫu vật không đủ bộ phận, quá to, quá nhỏ…
nên hiệu quả sử dụng khơng cao. Vì vậy trong q trình giảng dạy, tơi đã nghiên
cứu để cuối mỗi tiết học, dành ra một khoảng thời gian nhỏ để hướng dẫn chuẩn
bị vật mẫu cho tiết học tiếp theo. Việc hướng dẫn, phân công được thực hiện một
cách rõ ràng, cụ thể đến từng bàn, từng nhóm chuẩn bị những vật mẫu nào cho

tiết học tới; cách thu thập mẫu vật; kích thước và các bộ phận cần có của mẫu
vật; thời gian chuẩn bị mẫu vật… Có những bài học mẫu vật phải chuẩn bị trước
3 ngày, năm ngày hay cả tuần, do đó khi soạn bài tơi đã nghiên cứu cả những bài
sau xem cần mẫu vật gì để nhắc nhở, dặn dị cho kịp thời.
Ví dụ: GV hướng dẫn HS làm thí nghiệm xác định chất khí thải ra trong
q trình lá chế tạo tinh bột. Đối với bài này làm thí nghiệm sau 6 giờ mới quan
sát được kết quả. Do vậy GV phải có kế hoạch trước hướng dẫn HS
Dụng cụ: - 2 cốc thủy tinh to.
- 2 ống nghiệm cỡ lớn.
- Bao diêm, que đóm, túi bóng đen.
Vật mẫu: 2 cành rong đi chó.
Tiến hành thí nghiệm: Lấy vài cành rong đi chó cho vào 2 cốc thủy tinh
A và B đựng đầy nước. Đổ nước vào đầy 2 ống nghiệm, úp mỗi ống nghiệm đó
vào 1 cành rong trong mỗi cốc, sao cho khơng có bọt khí lọt vào.
Lấy túi bóng đen bịt kín cốc A. Đưa cốc B ra chỗ có ánh sáng mạnh (hoặc nắng).
+ Hiện tượng thí nghiệm: Sau 6 giờ quan sát 2 cốc ta thấy: Cành rong trong cốc
B có những bọt khí thốt ra rồi nổi lên và chiếm một khoảng dưới đáy ống
nghiệm. Cịn cành rong trong cốc A khơng có hiện tượng đó.
Lấy ống nghiệm ra khỏi cốc B, lật lại để xác định chất khí do cây rong đã
thải ra bằng cách: Đưa nhanh que đóm vừa tắt ( tàn đỏ) vào miệng ống nghiệm
thấy que đóm lại bùng cháy.
Qua thí nghiệm GV yêu cầu HS suy nghĩ thảo luận nhóm để trả lời câu
hỏi. Câu trả lời của các nhóm đưa ra thảo luận tồn lớp để có thể tìm được câu
trả lời đúng.
Sau khi lớp đã thảo luận, GV chốt lại đáp án:
- Chỉ có cành rong trong cốc B chế tạo được tinh bột vì được chiếu sáng.
- Cành rong trong cốc B đã tạo ra chất khí vì có bọt khí thốt ra từ cành
rong và khí tạo thành là khí O2 vì đã làm que đóm bùng cháy.
Trong q trình sử dụng mẫu vật, nhiều lúc cần kết hợp với các phương tiện
trực quan khác để nâng cao hiệu quả của mẫu vật, đồng thời nâng cao hiệu quả

dạy học. Mẫu vật có thể sử dụng kết hợp với tranh ảnh (như trong ví dụ 1) hay
nhiều bài học cụ thể khác. Với những mẫu vật nhỏ, có thể quan sát bằng kính
lúp sẽ giúp học sinh quan sát dễ dàng, chính xác và đầy đủ hơn, đồng thời củng
cố và rèn luyện kỹ năng sử dụng dụng cụ nghiên cứu bộ môn.
2.3.4.Giải pháp 4: Giáo viên chủ động thu thập, nghiên cứu mẫu vật trước
khi đến lớp để có sự chủ động trong tiến trình tổ chức dạy học.
Khi chuẩn bị bài dạy, đơi khi giáo viên đã giao phó việc chuẩn bị mẫu vật
cho học sinh, mà không chủ động chuẩn bị và nghiên cứu, sắp xêp trước mẫu
vật. dẫn tới khi lên lớp giáo viên không chủ động được với mẫu vật mà học sinh
đã chuẩn bị, đôi khi học sinh chuẩn bị thiếu, quên, hay mẫu vật các em mang
14


đến khơng đầy đủ bộ phận, khó quan sát. Để chủ động khi tổ chức giờ học, trong
quá trình chuẩn bị bài, cùng với việc giao cho học sinh chuẩn bị mẫu vật, tôi đã
chủ động thu thập, chuẩn bị, nghiên cứu và sắp xếp mẫu vật trước khi đến lớp.
Đơi khi, có những mẫu vật khơng cần giao cho học sinh chuẩn bị mà chỉ mình
giáo viên chuẩn bị, khi sử dụng sẽ gây hứng thú, kích thích trí tị mị, tạo nhu
cầu cần tìm hiểu của học sinh.
Ví dụ 5. Khi dạy tiết 21( Bài 19- Sinh học 6): Đặc điểm bên ngoài của lá.
Ở nội dung 1 - Tìm hiểu đặc điểm bên ngồi của lá.
Trong nội dung này, học sinh cần quan sát, so sánh mẫu vật để tìm hiểu
được đặc điểm chung của phiến lá, đồng thời chỉ ra được sự đa dạng về hình
dạng, kích thước, màu sắc của phiến lá, sự đa dạng của các loại gân lá, sự khác
nhau giữa lá đơn và lá kép. Đồng thời chỉ ra được các ví dụ thực tế ngoài tự
nhiên tương đương với các nội dung đã tìm hiểu. Để thực hiện được mục tiêu
trên, ngoài việc giao cho học sinh chuẩn bị mẫu về các loại lá, tôi đã chủ động
chuẩn bị mẫu vật, nghiên cứu sắp xếp trước các mẫu vật trước khi lên lớp. Do
bài học cần rất nhiều mẫu vật với nhiều loại lá khác nhau, nếu chỉ để cho học
sinh chuẩn bị sẽ dễ bị thiếu, hoặc học sinh lấy nhiều loại lá có hình dạng, kích

thước tương tự nhau, có loại lá cần dùng lại khơng đủ. Vì vậy khi tổ chức giờ
học sẽ gặp khó khăn nhất định. Bên cạnh đó, một số loại lá có hình dạng, màu
sắc đặc biệt không giống với hầu hết các loại lá khác (chẳng hạn lá huyết dụ
khơng có màu xanh mà màu tím, lá tía tơ một mặt xanh, một mắt tía), với những
loại lá này tơi đã tự chuẩn bị, khi đưa ra cho học sinh quan sát đã gây được hứng
thú và trí tị mị của học sinh

15


2.3.5. Giải pháp 5: Kết hợp giáo dục ý thức bảo vệ thực vật, bảo vệ môi
trường.
Mẫu vật sử dụng cho các bài học Sinh học 6 là thực vật; có thể là cả cây,
cành cây, thân cây, lá cây hay hoa, quả, hạt. Với tính hiếu kỳ và chưa hiểu biết
nhiều, học sinh có thể thu thập mẫu vật bằng những cây, những bộ phận của cây
đang có giá trị sử dụng cao; học sinh có thể bẻ cây, ném cành, ném là ở bất kỳ
nơi nào (trong trường, cổng trường hay ngồi đường). Những việc làm vơ tình
đó của học sinh đã làm phá hoại cây xanh, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi
trường. Để khắc phục tình trạng đó, khi dặn dị và hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bẫu vật, tôi đã nhắc nhở học sinh để các em vừa chuẩn bị đảm bảo mẫu vật cho
bài học, vừa có được ý thức và hành vi bảo vệ thực vật, bảo vệ mơi trường. Bên
cạnh đó, mẫu vật sau khi sử dụng, tôi yêu cầu học sinh thu dọn gọn gàng không
làm bẩn lớp, bẩn trường.
Khi dạy tiết 21(bài 19 - sinh học 6): Đặc điểm bên ngoài của lá
Với bài này mẫu vật học sinh cần chuẩn bị là rất nhiều các loại lá khác
nhau, để đáp ứng yêu cầu tìm hiểu kiến thức. Do sự hiếu kỳ học sinh có thể lấy
mẫu quá nhiều, lấy ở bất kỳ cây nào, nơi nào. Khi đến lớp, trước giờ học hoặc
sau giờ học các em có thể ném lá làm rác lớp, bẩn trường. Vơ tình các em đã có
hành vi phá hoại thực vật, gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, khi yêu cầu học sinh
chuẩn bị mẫu tôi đã phân công cụ thể đến từng nhóm học sinh, mỗi nhóm cần

chuẩn bị mẫu vật nào, số lượng mẫu. Đồng thời nhắc nhở các em phải bảo quản
mẫu cẩn thận, không được làm vương vãi vừa gây rác lớp lại khơng có mẫu để
sử dụng.
Cụ thể:
Tơi chia lớp thành 6 nhóm (mỗi nhóm 2 bàn) - nhóm trưởng phân cơng
cho các thành viên chuẩn bị và chịu trách nhiệm về mẫu vật của nhóm mình.
Mỗi nhóm cần chuẩn bị các loại lá: lá dâu, lá trúc đào, lá rau muống, lá
rau ngót, lá kinh giới, lá lốt, lá xương sông, lá rau má, lá sen, lá gai, lá rẻ quạt, lá
địa liền, cành mồng tơi, cành hoa hồng, cành dừa cạn, cành ổi,… (mỗi loại lấy 1
mẫu/1 nhóm). Nhóm trưởng phân cơng cho các thành viên trong nhóm, mỗi
thành viên một số loại mẫu để đảm bảo số mẫu của nhóm.
Chú ý, nên lấy lá ở những cây đang khỏe mạnh, khi lấy mẫu cần cẩn thận
tránh làm gãy cành, gãy cây. Nên lấy mẫu ngay trước khi đi học để mẫu được
tươi, bỏ mẫu vài túi và mang đến lớp, khi nào đến giờ học giáo viên yêu cầu mới
được mang ra.
Sau khi sử dụng mẫu xong, tôi yêu cầu học sinh bỏ mẫu vào túi để trực
nhật thu dọn đảm bảo không làm rác lớp.
Với cách làm này, học sinh đã có ý thức bảo vệ thực vật, bảo vệ môi
trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện cịn gặp nhiều khó khăn như: trang
thiết bị dạy học còn hạn chế, khả năng làm việc của học sinh có giới hạn, thời
gian nghiên cứu chưa nhiều,… Tuy nhiên bằng sự nỗ lực, cố gắng của bản thân
kết hợp sự tích cực của học sinh trong quá trình học tập, đề tài cũng đã mang lại
kết quả đáng kể: Đa số học sinh đã biết cách sưu tầm mẫu vật, đồng thời biết
16


cách sử dụng mẫu vật trong quá trình học tập, các em đã biết phân loại, quan sát,
so sánh mẫu vật để hình thành kiến thức. Từ đó học sinh tự hình thành kiến thức

một cách chủ động, giờ học sơi nổi, tích cực, các em có hứng thú học tập. Do
vậy, học sinh đã nắm được kiến thức sâu hơn, chắc hơn. Hơn nữa, học sinh có
được kiến thức thực tế, có ý thức và hành vi bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên một số em vẫn cịn chưa tích cực học tập, sự chuẩn bị và q trình
học tập chưa tự giác, chưa tích cực, kết quả học tập chưa cao. Điều đó phần nào
ảnh hưởng đến việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
hố hoạt động học tập bằng cách sử dụng mẫu vật, cũng như ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục chung.
Nhìn chung sau thời gian nghiên cứu và thực hiện, tuy hiệu quả chưa triệt
để nhưng chất lượng học sinh đã được nâng lên rõ rệt cả về kiến thức và kỹ năng
bộ môn cũng như năng lực thực tiễn của học sinh. Điều đó đã góp phần thực
hiện đổi mới phương pháp và phần nào thực hiện được mục tiêu giáo dục trong
thời đại mới.
Khảo sát chất lượng giữa học kỳ II năm học 2018 - 2019 môn sinh học 6
ở trường TH - THCS Đông Nam với nội dung khảo sát giống với nội dung khảo
sát giữa học kỳ I năm học 2017 - 2018 môn sinh học 6 ở trường TH - THCS
Đông Nam (đã trình bày ở phần thực trạng).
Kết quả thu được:
Số
HS
49

Loại giỏi
SL
9

%
18,4

Loại Khá

SL
22

%
44,9

Loại TB
SL
18

%
36,7

Loại yếu
SL
0

Loại kém
%
0

SL
0

%
0

Đối chiếu với kết quả khảo sát ở năm học trước, khi chưa áp dụng đề tài “
Một số biện pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả học Sinh học 6 ở
trường TH & THCS Đông Nam, huyện Đông Sơn ” kết quả thu được cụ thể

như sau:
- Loại giỏi tăng . 10,9 %
- Loại khá tăng . 26%
- Loại trung bình giảm 1,3%
- Loại yếu khơng cịn.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
3.1. Kết luận:
Qua SKKN này tôi rút ra được các kinh nghiệm sau:
Giáo viên dạy bộ mơn sinh học cần có lịng nhiệt tình ,chịu khó, năng
động sáng tạo trong các giờ dạy .
Giáo viên bộ môn sinh hoc cần phải tìm ra phương pháp phù hợp vào
từng mảng kiến thức trong bài học, để giúp học sinh hiểu và nhớ sâu sắc về phần
kiến thức và áp dụng ngoài thức tế tốt.

17


Ngoài ra giáo viên cần chuẩn bị trước những đồ dùng dạy học ( chưa có
trong phịng thiết bị mà trong phạm vi có thể làm được. Các em đã bước đầu có
được khả năng lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời có được ý thức và
hành vi bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường. Đây là phương pháp không thể thiếu
trong dạy học sinh học.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với Nhà trường
Để đổi mới phương pháp dạy học được triệt để, nhà trường cần được
trang bị thêm các trang thiết bị dạy học, thay thế những thiết bị đã hư hỏng hoặc
chất lượng thấp, hiệu quả sử dụng khơng cao. Tổ chức có hiệu quả phong trào
làm đồ dùng dạy học để tăng cường trang thiết bị cho dạy học. Quy hoạch để có
khu vườn trường với nhiều loại cây làm nguồn mẫu vật nghiên cứu trong quá

trình dạy học.
3.2.2. Đối với các cấp quản lý:
Các cấp quản lí cần tổ chức các đợt chuyên đề, tập huấn về vấn đề sử
dụng khai thác các thiết bị dạy học trong dạy học, về việc sử dụng các phương
pháp dạy học theo định hướng đổi mới.
Qua thời gian nghiên cứu thực hiện sáng kiến này, bản thân tơi đã hết sức
cố gắng, nhưng trong điều kiện cịn nhiều khó khăn chắc rằng sẽ có nhiều thiếu
sót, rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp và quý thầy cô để bản thân tôi
rút kinh nghiệm và thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đông Nam, ngày 15 tháng 3 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Vũ Thị Thu

18



×