Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TIỂU LUẬN: Các đặc trưng của nền kinh tế tri thức- Và vai của giáo dục pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.36 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………








TIỂU LUẬN

Các đặc trưng của nền kinh tế tri
thức- Và vai của giáo dục
















MỞ ĐẦU



Kinh tế học giáo dục ra đời chính thức từ cuối thập niên 70 do yêu cầu
của thực tiễn phải soi sáng các vấn đề lý luận , phương pháp luận của kinh tế
trong hoạt động giáo dục đồng thời nó thừa hưởng sự phát triển tri thức của cả
khoa học kinh tế giáo dục .Đề cập đến kinh tế là đề cập đến con người , con
người vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế , người được hưởng lợi ích , đồng
thời là nhân tố của sự phát triển , tiềm lực của sự phát triển . Lao động sử dụng
trong hoạt động kinh tế được hiểu cả về mặt chi phí và mặt lợi ích .
Đặc biệt bước sang thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ thay đổi sâu sắc nhất . Đó là
thế kỷ “Toàn cầu hóa “, thế kỷ “Hội nhập “, thế kỷ công ty xuyên quốc gia “
với khối lượng thông tin cao tốc ,…Tất cả những sự chuyển biến đó sẽ làm thay
đổi lối sống , cách thức làm việc , hình thức phân công của chúng ta . Kết cấu
kinh tế do cách mạng công nghiệp đẻ ra sẽ rạn nứt , nhường chỗ cho một hình
thái Kinh tế mới , đó là “Kinh tế tri thức “ .
Thế kỷ XXI sẽ là thồi đại kinh tế tri thức . Tri thức , với tư cách là yếu tố
sản xuất độc đáo , sẽ thay thế đất đai , tài nguyên , sẽ phá vỡ giới hạn đòa lý ,,
không gian , văn hóa , sẽ vượt qua lãnh thổ quốc gia , dân tộc , giai cấp ,… trở
thành “ Sức mạnh vô đòch “ trong xã hội .Tri thức , với tư cách là nguồn tài
nguyên chủ chốt sẽ thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội , sáng tạo ra động lực
phát triển mới .Đây là thời đại bùng nổ thông tin trên quy mô lớn , thời đại đòi
hỏi sự phức hợp của nhiều năng lực .Sự tiến bộ như vũ bảo của khoa học và
công nghệ , sự xuất hiện không ngừng của những cái mới sẽ tạo cho con người
những cơ hội tìm kiếm việc làm vô cùng rộng lớn , chủ yếu quy tụ vào những bộ
óc đã được chuẩn bò sẵn sàng , vào những con người có một năng lực phức hợp ,
vừa thông mimh lại vừa có những thành phần phi trí lực ưu việt .
Thế kỷ này sẽ là thời đại cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Đây là thời kỳ tạo
ra những anh hùng và đồng thời đào thải những kẻ ươn hèn .
Nền kinh tế tri thức sẽ làm tiền vốn , kỹ thuật và nhân tài lưu động cực
nhanh, đồng thời cũng đề ra những tiêu chuẩn đối với nhân tài .
Với những kiến thức đã lĩnh hội được trong chương trình học , người

nghiên cứu sẽ trình bày những hiểu biết nhằm làm rõ hai vấn đề trên trong phạm
vi một bài tiểu luận.
Cấu trúc của bài tiểu luận này gồm 3 phần:

Phần 1: Mở đầu .
Phần 2 : Nội dung :
1. Vai trò giáo dục trong nền kinh tế tri thức
2. Vốn nhân lực và phát triển người . Vai trò của vốn nhân lực
trong phát triển kinh tế xã hội .
Phần 3 : Kết luận.
Với những kiến thức còn hạn hẹp về hai vấn đề trên, chắc chắn người
nghiên cứu trình bày se có những thiếu sót và sai lệch. Rất mong được Thầy và
những đồng nghiệp quan tâm đóng góp sửa chữa, để những hiểu biết của người
nghiên cứu được hồn thiện hơn.



NỘI DUNG
Câu hỏi 1 :

Các đặc trưng của nền kinh tế tri thức , giáo dục có vai trò như thế
nào trong nền kinh tế tri thức . Theo bạn giáo dục Việt Nam cần làm gì
trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri
thức .
1. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức :
Tri thức , với hệ thống “ Tri thức lớn “ lấy khoa học kỹ thuật và văn hóa
tư tưởng làm chủ thể , đã giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của nền
văn minh xã hội loài người .Trong khoảng 50 năm trở lại đây , những phát minh
khoa học kỹ thuật và những thành tựu về văn hóa tư tưởng do loài người sáng
tạo ra nhiều hơn những kết quả mà loài người đã đạt được trong khoảng 3000

năm về trước .Lượng tri thức tăng như vũ bảo , khối lượng thông tin cứ 10 năm
thậm chí có lónh vực chỉ 5 năm lại tăng gấp đôi . Trong sự tăng trưởng nhanh
chóng tổng sản phẩn quốc dân toàn cầu ( GNP ), thành phần tri thức đang từ 5%
ở đầu thế kỷ XX lên tới 80 – 90% ở đầu thế kỹ XXI , và tri thức đã trở thành
nguồn của cải chính của xã hội và động lực chủ yếu của văn minh .Tri thức đã
biến không thành có , trở thành sức đẩy số một , sức sản xuất số một trong sự
tiến bộ của xã hội loài người . Vậy ta có thể khẳng đònh nền văn minh nhân loại
đang tiến tới nền văn minh tri thức và nền kinh tế sẽ kéo theo nó , nền kinh tế
tri thức .
Vậy tri thức là gì ?
Tri thức là sản phẩm của hoạt động trí tuệ của con người , vì vậy là tài
sản q bấu nhất của loài người . Con người khác với động vật là con người có
khả năng tích lũy kinh nghiệm , hình thành tri thức .Nhờ có quá trình lónh hội ,
tích lũy , sử dụng và truyền thụ tri thức đã làm cho con người vượt lên trên
muôn loài , đứng ở đỉnh cao của bậc thang tiến hóa , đồng thời tạo ra cơ chế di
truyền hoàn toàn mới – di truyền xã hội . Qua đây ta có thể thấy rõ vai trò của
tri thức trong lòch sử văn minh , tri thức là tài sản q bấu nhất của loài người và
sách vở là bậc thang của sự tiến bộ loài người .
Trong “ Từ điển tiếng Việt “ Viện Ngôn ngữ học đònh nghóa :
“Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật , hiện tượng tự nhiên
hoặc xã hội “ ( Nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học – Hà Nội – Đà
Nẵng 2000 ).
Trong Từ điển tiếng Việt nhà xuất bản Văn hóa thông tin đònh nghóa :
“ Tri thức là những điều hiểu biết do từng trải và học tập mà thu được “ (
Nhà xuất bản Văn hóa thông tin , Hà Nội – 1999 ) .
Trong Từ điển Bách khoa Xô Viết đònh nghóa :
“ Tri thức là kết quả nhận thức hiện thực đã được thực tiễn kiểm nghiệm ,
là sự phản ánh đúng đắn hiện thực trong tư duy của con người “ ( Nhà xuất bản
Bách khoa Xô Viết – Moskva – 1983 ).
Trong Từ điển Hán ngữ hiện đại , do Phòng Từ điển Sở nghiên cứu

Ngôn ngữ Viện khoa học xã hội Trung Quốc soạn giải thích :
“ Tri thức là tổng hòa những nhận thức và kinh nghiệm con người thu
được trong thực tiễn cải tạo thế giới “.( Thương vụ ấn thư quán , Bắc Kinh –
1991 ) .
Trong Từ điển “ Di sản văn hóa Mỹ “ về ngôn ngữ Anh viết :
“ Tri thức là sự tinh thông , sự thông hiểu hoặc sự hiểu biết thu được qua
kinh nghiệm hay học tập “ ( Công ty Haughton Miffloin – Boston , NewYork ,
London – 1992 ) .
Trong Từ điển “ Grand Larousse “ về Ngôn ngữ Pháp viết :
“ Tri thức là những tư tưởng , khái niệm ít nhiều chính xác và đầy đủ mà
chúng ta hình thành được trong trí chúng ta về đời sống , về tự nhiên và
về giá trò của một cái gì “ ( Nhà sách “ Larousse “ – Paris – 1972 ) .
Nhìn chung , những đònh nghóa trên phần lớn hạn chế tri thức ở phạm trù
nhận thức , phạm trù kinh nghiệm , chưa cho ta thấy được vai trò của tri thức ,
nói cụ thể chưa cho tri thức qua các phạm trù thực tiễn , phạm trù xã hội , phạm
trù sáng tạo , phạm trù kinh tế .
Ngay từ thế kỷ XVI , nhà triết học Anh nổi tiếng F.Bacon đã đề xuất “
Tri thức là sức mạnh “.Vào cuối thế kỷ XVIII , Adam Smith đã gắn liền tri thức
với yếu tố đầu tiên của nền kinh tế công nghiệp và tư bản . Rồi vào cuối thế kỷ
XX , tri thức không chỉ là sức mạnh , không chỉ là tư bản mà còn là yếu tố sản
xuất đầu tiên , vượt lên trên sức lao động và tư bản , được gắn cho một ý nghóa
hoàn toàn mới . Bước nhảy vọt về chất trong nhận thức về tri thức hoặc nói
cách tiếp cận “ Tri thức về tri thức “ mới mẻ đó chính là cơ sở của kinh tế tri
thức .
Ở đây , xuất phát từ gốc độ kinh tế học , ta có thể xem : “ Tri thức là sản
phẩm lao động của con người tồn tại và lưu động nhờ một vỏ vật chất bên ngoài
nhất đònh “ .
Đònh nghóa về tri thức của các nhà kinh tế học Tây Phương thường thiên
về vai trò của tri thức trong các hoạt động kinh tế . Trong số đònh nghóa ấy , đònh
nghóa của hai nhà bác học Mỹ T.H Davenport và L.Prusak phản ánh khá đầy đủ

tính thực dụng của tri thức : “ Tri thức là một tổ hợp tổng kinh nghiệm , quan
điểm giá trò , thông tin có liên quan và bộ óc xét đoán có tổ chức .Cơ cấu do tổ
hợp này tạo nên có thể luôn luôn được đánh giá và hấp thu những kinh nghiệm
và thông tin mới .Tổ hợp này xuất phát từ bộ não và tác động vào bộ não những
người có tri thức .
Đònh nghóa tri thức như trên bao gồm những đặc điểm sau :
• Nội hàm của tri thức vô cùng phức tạp , trong đó không những bao gồm
nội dung có thể mã hóa và ghi chép lại , mà còn bao gồm những nội dung
sâu ẩn rất khó ghi chép .
• Tri thức vừa có cấu trúc ổn đònh nội tại , lại vừa có mặt linh động và biến
đổi , mà sự biến đổi của cấu trúc và nội dung ấy được thực hiện thông
qua cơ chế học tập .
• Tri thức vừa có mặt tồn tại phổ biến thông thường . lại vừa có mặt đặc
thù tồn tại trong một bối cảnh không gian nào đó .
Rõ ràng , đònh nghóa tri thức theo nhận thức luận và kinh nghiệm luận chưa
phản ảnh được sự phát triển nhanh chống và sự thay đổi mang tính cách
mạng của thế giới tri thức trong xã hội loài người . Tri thức ngày nay đã vượt
ra khỏi phạm trù nhận thức , phạm trù kinh nghiệm , đã trở thành phương
pháp thực tiễn , công cụ sáng tạo , trở thành sự vật và hiện tượng khách quan
tự động vận hành . Tri thức rõ ràng là một phạm trù xưa cổ nhưng lại vô
cùng mới mẻ , thời đại khác nhau , nhận thức của con người về ý nghóa , đặc
điểm loại hình , nội dung , vai trò của tri thức cũng khác nhau .
2. Vai trò của giáo dục trong nền kinh tế tri thức :

Vai trò của giáo dục nói chung là truyền đạt những kinh nghiệm sống tích
lũy được từ thế hệ trước sang thế hệ sau, làm cho các thế hệ sau có khả năng tồn
tại trong cuộc sống. Giáo dục trang bị cho con người những kiến thức cần thiết để
làm việc và làm việc có hiệu quả; Nhưng trong thời đại kinh tế tri thức, những tri
thức hiện tại rất mau lạc hậu, chính do sự tiến q nhanh của khoa học – kỹ thuật
trong mọi lĩnh vực, có nghĩa là tri thức sẽ biến đổi khơng ngừng. Như vậy giáo

dục với vai trò là truyền đạt tri thức liệu có đủ hay khơng?
Đầu tiên ta sẽ nói đến việc con người sẽ làm gì một khi kiến thức của họ bị
lạc hậu so với thời đại. Trong bối cảnh tri thức nhân loại liên tục thay đổi phát
triển rất nhanh chóng, con người phải ln vận động học tập để cập nhật những
kiến thức mới cho mình. Ví dụ trong ngành cơng nghệ thơng tin, tuổi thọ làm việc
của một lập trình viên trung bình là 10 năm, lập trình viên thường “về hưu” ở độ
tuổi 40. Muốn tồn tại trong ngành Công nghệ thông tin điều duy nhất là khơng
ngừng học tập. Học tập khơng phải là vào trường lớp, có giáo viên hướng dẫn.
Học tập trong thời đại kinh tế tri thức, cơng nghệ ln biến đổi học tập có nghĩa là
tự học là chính. Trường lớp chỉ trang bị những kiến thức cơ bản mang tính nền
tảng. Do vậy giờ đây học tập được xem là một loại năng lực.
Chính vì lý do trên giáo dục ngày nay, ngồi vai trò là phương tiện truyền
đạt tri thức, giáo dục còn phải trang bị khả năng và kỹ năng tự tìm tòi học hỏi. Nhà
trường chỉ là nơi cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về một lĩnh vực nào đó.
Nhà trường phải trang bị những kỹ năng “sinh tồn” trong thời đại kinh tế tri thức.
Giáo dục phải chuyển từ giáo dục truyền thụ tri thức sang giáo dục năng lực, bồi
dưỡng cho học sinh năng lực học tập tri thức. Tạo cho con người có khả năng học
mọi lúc mọi nơi. Ln ln học hỏi ln ln tìm tòi cái mới, đó là mơ hình học
tập của nền kinh tế tri thức. Giáo dục phải có vai trò thực hiện các điều này.

3. Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa :
a. Tồn cầu hóa là gì?
Tồn cầu hóa có thể hiểu một cách đơn giản là một thời đại hay một kỷ
ngun thay thế cho thời đại chiến tranh lạnh. Trong thời đại này mọi sự ngăn trở
về chính trị biên giới quốc gia hầu như bị xóa bỏ. Cả thế giới hầu như bị kết nối
vào một cỗ máy, một cơ chế chung – cỗ máy tồn cầu hóa. ðể hòa nhập vào vào
cơ chế này các quốc gia cần phải chơi một luật chơi chung, phải thay đổi hệ thống
luật pháp, hàng rào thuế quan, phong tục tập qn, chính sách tơn giáo và đơi khi
phải thay đổi cả chế độ chính trị. Việc điều khiển thế giới tồn cầu hóa khơng nằm
trong tay một quốc gia nào, một liên minh nào mà nằm trong tay các tập đồn đa

quốc gia và các nhà đầu cơ chứng khốn. Tất cả các quốc gia đều có một mẫu số
chung để hoạt động nếu quốc gia nào khơng tn thủ luật chơi sẽ bị loại ra khỏi
cuộc chơi ngay lập tức.
b. Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì trong bối cảnh tồn cầu hóa khi
bước vào nền kinh tế tri thức:
Với vai trò trang bị kỹ năng học tập tri thức trong bối cảnh hội nhập khu
vực , quốc tế khi bước vào nền kinh tế tri thức , giáo dục Việt Nam cần quan tâm
, thực hiện những vấn đề sau:
Thay đổi phương pháp giảng ở các cấp tiểu học đến trung học phổ thông.
Loại bỏ kiểu học thuộc lòng, học vẹt chuyển sang cách học tìm tòi, tự
học.
Bồi dưỡng , nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy và đội
ngũ quản lý với đúng và đủ kiến thức , năng lực của họ .
Ln ln cập nhật những tri thức mới cơng nghệ mới vào chương trình
học nhất là ở các trường kỹ thuật và trường đại học.
Trang bị kỹ năng ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) và kỹ năng tin học cho
học sinh ngay từ cấp tiểu học.
Giao lưu học hỏi các mơ hình giáo dục ở các nước tiên tiến từ đó sàn lọc
những tinh hoa để áp dụng vào giáo dục Việt Nam.
Tăng cường việc quản lý , việc kiểm tra giám sát chất lượng các trường
học.
Nhà nước tăng kinh phí đầu tư và khuyến khích cá nhân trong và ngoài
nước đầu tư vào giáo dục .


Câu 2 :

Quan niệm về vốn nhân lực ( Human Capital ) và phát triển người .
Vai trò của vốn nhân lực và vốn xã hội trong phát triển kinh tế, xã hội .
Bạn suy nghó gì về vốn nhân lực của Việt Nam hiện nay .

1. Khái niệm về vốn người và vốn nhân lực :
a. Vốn người ( Human Capital ) :
Đồng tiền con người đêm ra mua bán , trao đổi , sản xuất gọi là vòng
xoay sản xuất . Cái đưa vào vòng xoay sản xuất thì gọi là vốn .Nhưng
muốn sản xuất thì phải có con người can thiệp .
Vốn người được xem như một thành phần của cơ cấu đầu vào của sản
xuất . Theo Meljansev : Tổng số vốn sản xuất gồm có :
Vốn tự nhiên :Nguồn tài nguyên được thu hút vào vòng quay sản xuất
.
Vốn vật chất : Nhà cửa , công trình , thiết bò , dự trữ hàng hóa vật tư .
Vốn người : Gồm có vốn vật chất và vốn phi vật chất .
- Vốn vật chất như cơ thể , sức khỏe ,…
- Vốn phi vật chất như tri thức , đạo đức ,…
Sự phát triển của một quốc gia tùy thuộc vào sự sử dụng 4 nguồn
vốn :
1. Vốn thiên nhiên : Như đất đai , rừng biển , sông nước , khoáng sản ,
quặng mỏ , tài nguyên ,
2. Vốn nhân tạo : Như nhà cửa , đường xá , sân bay , hải cảng , máy
móc , thiết bò ,…
3. Vốn người : Như sức khỏe , kiến thức , kỹ năng , phẩm chất , đạo
đức ,…
4. Vốn xã hội : Như chính sách mở cửa , sức cạnh tranh , cơ cấu tổ
chức , hệ thống thông tin , sự hợp tác , …
b. Nguồn nhân lực con người ( Human Resources ) :
Nguồn nhân lực con người hay gọi là nguồn nhân lực , được xem xét dưới
hai góc độ :
Năng lực xã hội :
Là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội , là bộ phận quan trọng nhất
của dân số , có khả năng tạo ra mọi giá trò vật chất và tinh thần cho xã hội
( của cải vật chất , văn hóa và dòch vụ ). Ở góc độ này , nguồn nhân lực là

tôngt thể những tiềm năng của con người mà cơ bản nhất là tiềm năng lao
động của một quốc gia có trong một thời kỳ nhất đònh phù hợp với chiến
lược và kế hoạch phát triển .Tiềm năng đó bao hàm tổng hòa năng lực về
thể lực , trí lực , nhân cách của con người lao động của một quốc gia , đáp
ứng với một cơ cấu nhất đònh của con người lao động do nền kinh tế – xã
hội đòi hỏi đó chính là tiềm năng của con người về số lượng , chất lượng
và cơ cấu .
Tính năng động xã hội của con người :
Nguồn nhân lực ở dạng tiềm năng là ở trạng thái tónh , mặc dù nguồn nhân
lực luôn luôn được phát triển . Nguồn lực đó phải được chuyển sang trạng thái
động , tức là được phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ; điều
quan trọng ở đây là phải làm thế nào để chuyển nguồn lực con người dưới dạng
tìm năng đó thành “ Vốn con người , vốn nhân lực “. Con người với tiềm năng
vô tận , nếu được tự do phát triển , tự do tư duy sáng tạo và cống hiến , được trả
đúng giá trò lao động , giá trò sáng tạo và cống hiến thì tiềm năng vô tận ấy
được của nguồn lực con người sẽ được khai khác và phát huy trở thành nguồn
vốn vô cùng to lớn , đồng thời nó phản ánh tình độ phát triển của một quốc gia .
Vậy , nguồn lực con người được hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu
cơ giữa năng lực xã hội của con người ( thể lực , trí lực , nhân cách ) và tính
năng động xã hội của con người .
Đây là khái niệm khái quát, trừu tượng về nguồn lực con người ; Nhưng để
xác đònh nguồn lực cho một quốc gia trong một thời kỳ nhất đònh phải được chỉ
tiêu hóa và lượng hóa . Về mặt lý luận cần làm rõ quan niệm về phát triển
nguồn lực con người :
• Theo UNESCO sử dụng khái niệm phát triển nguồn lực con người (
Nguồn nhân lực ) theo nghóa hẹp và quan niệm rằng , đó là làm cho toàn
bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự
phát triển của đất nước .
• Theo ILO , cho rằng phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng
hơn . Không chỉ là sự chiếm lónh trình độ ngành nghề hoặc bao gồm ngay

cả vấn đề đào tạo nói chung , mà còn là phát triển năng lực và sử dụng
năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả , cũng
như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân .
• Theo Liên hiệp quốc thì sử dụng khái niệm phát triển nguồn lưcj con
người theo nghóa rộng , bao hàm giáo dục , đào tạo và sử dụng tiềm năng
con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống . Cách hiểu của hệ thống Liên hiệp quốc bao quát hơn
và nhấn mạnh khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực . Nó vừa là yếu tố
của sản xuất , của tăng tưởng kinh tế ( yếu tố đầu vào ) , vừa là mục tiêu
của phát triển và tăng trưởng kinh tế ( yếu tố đầu ra ).
Vậy , phát triển nguồn lực con người là quá trình làm biến đổi về số lượng ,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
nền kinh tế –xã hội .
Các yếu tố tác động đến phát triển nguồn lực con người bao gồm : Sinh đẻ
và sức khỏe sinh sản ( chăm sóc sức khỏe : dinh dưỡng , vệ sinh môi trường ,
phòng ngừa bệnh tật ,…) , giáo dục và đào tạo nghề nghiệp ( Văn hóa và
truyền thống dân tộc : mối quan hệ xã hội và gia đình ,…), việc làm và trả
công lao động ( thu nhập và mức sống ) , an ninh xã hội , trình độ phát triển
kinh tế – xã hội ,…
2. Sự phát triển người ( Human Development):
Con người được xem là mục đích của sự phát triển ; kiến thức , sức khỏe
được xem là thành phần thiết yếu của hạnh phúc .
a. Phát triển nguồn lực con người :
• Mục tiêu tổng quát : Là giữ ở quy mô hợp lý , đồng thời nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực , đặc biệt phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao nhằm tăng sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa , hiện đại hóa và hội nhập , góp
phần vào sự phát triển nhanh và bền vững đất nước .
• Mục tiêu cụ thể : Là duy trì xu thế kế hoạch hóa gia đình một cách
vững chắc , cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với sự phát

triển kinh tế – xã hội , năng cao chất lượng dân số về thể chất , trí
tuệ và tinh thần , phấn đáu đạt chỉ số phát triển con người ( HDI )ở
mức trung bình tiên tiến thế giới .
• Các chỉnh tiêu cơ bản cần đạt được đến năm 2010 :
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,1%
- Dân số cả nước không quá 88 triệu người .
- Hạ tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 25%.
- Mức dinh dưỡng đạt trên 2.600Kcal/người /ngày .
- Nâng cao thể lực ( nam cao trung bình 1m65cm , Nữ 1m55cm ) và
các chỉ số về sức bền , sức nhanh của thanh thiếu niên .
- Nâng cao tuổi thọ trung bình của dân số lên 71 tuổi .
- Nâng cao dân trí , phổ cập văn hóa trung học cơ sở và phổ thông
trung học , xóa không còn nạn mù chữ .
- Tỷ lệ người lao động qua đào tạo tăng lên khoảng 40% .
- Chỉ số phát triển con người ( HDI) đạt khoảng 0,700 – 0,750 ,chỉ số
phát triển về giới ( GDI ) đạt 0,700.
Nâng cao chất lượng nguồn lực , đặc biệt phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao là phương hướng cơ bản , ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội ở nước ta thời kỳ 2001 – 2010 .
Muốn vậy , đào tạo nguồn nhân lực trong cơ chế thò trường phải gắn chặt với
phát triển hệ thống thông tin thò trường lao động và dòch vụ việc làm để nối
cung và cầu lao động , nhiều người có cơ hội tìm việc làm . Nhà nước thực hiện
chính sách khuyến khích đaod tạo nhân tài chuyên gia giỏi và lao động trình độ
cao và thực hiện chính sách xã hội để hỗ trợ đối tượng thuộc diện chính sách xã
hội , gia đình nghèo , đào tạo lại cho lao động mất việc , người thất nghiệp trong
cơ chế thò trường , trước hết là chính sách học bổng , việc làm sau khi đào tạo .
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết đònh nhất
của tăng trưởng kinh tế , nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và lao
động trên thò thường trong nước , khu vực và quốc tế . Bởi vậy , tập trung phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao là sự lựa chọn tối ưu và là một trong những

giải pháp đột phá để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hội
nhập .Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải bắt đầu từ nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực về mọi mặt như : Sức khỏe , trình độ chuyên môn , kỹ
thuật cao
nhất là những nhà quản lý , các chuyên gia kinh tế , chuyên gia kỹ thuật và đội
ngũ công nhân lành nghề , công nhân có trình độ cao để tạo nền móng vững
chắc bước vào nền kinh tế tri thức . Đặc biệt phải tập trung đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cho một số ngành kinh tế mũi nhọn ( tin học , công nghệ sinh
học , công nghệ tự động hóa , công nghệ vật liệu mới ,…) .
3. Chỉ số GNP và chỉ số HDI :
a. Chỉ số GDP ( Gross Domestic Product ) : Là Tổng sản phẩm trong nước .
GDP được đánh giá sự giàu có của một quốc gia ( do Keyness đưa ra ).
GNP ( Gross National product ) là Tổng sản phẩm quốc dân .
Tổng sản phẩm trong nước ( GDP ) phản ánh kết quả cuối cùng các hoạt
động sản xuất vật chất và dòch vụ của tất cả các cá nhân đơn vò thường trú tại
nước đó tính trong khoảng thời gian một năm .
b. Chỉ số phát triển HDI ( Human Development Index ) :
Chỉ số phát triển người HDI ngày nay trở thành một đại lượng thông dụng
biểu thò cho sự phát triển của mỗi quốc gia , mỗi vùng . Chỉ số này hợp thành
từ 3 đại lượng thành phần :
• Tuổi thọ bình quân .
• Chỉ số phát triển giáo dục .
• Thu nhập trong nước tính theo đầu người bằng phương pháp sức mua
tương đương .
Chỉ số HDI bao hàm đánh giá cả về sự giàu có và về mặt tinh thần .
Thống kê so sánh các nước thường dùng chỉ số HDI để làm căn cứ .
Vào năm 1996 các nhà kinh tế học bổ sung thêm Chỉ số CPM , Là chỉ số
khắc phục 3 năng lực cơ bản của các nước đang phát triển .
4. Suy nghó về Vốn nhân lực của Việt Nam hiện nay .
Nguồn nhân lực Việt Nam đạt chất lượng chưa được cao, tuy công dân

Việt Nam có lòng yêu nước , yêu chủ nghóa xã hội , có trình độ dân trí ,
văn hóa , kỹ thuật , công nghệ và tay nghề cao , tác phong công nghệ và
đạo đức , lối sống lành mạnh nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu công
nghiệp hóa , hiện đại hóa và hội nhập của đất nước ,cũng như đáp ứng
nhu cầu nền kinh tế tri thức . Để đáp ứng nhu cầu trên ta cần quan tâm ,
chú ý đến các vấn đề như : Chiến lược trong phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao trong thời gian tới là phải tăng nhanh về số lượng để nâng
cao tỷ lệ lao động được đào tạo , đặc biệt chú trọng đào tạo nghề , đồng
thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với tiêu chuẩn về trình độ
chuyên môn , kỹ năng nghề nghiệp , phẩm chất và năng lực phù hợp với
yêu cầu của một nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay .

KẾT LUẬN

Nước ta đang trên đường bước vào nền kinh tế tri thức và bước vào thời
kỳ công nghiệp hóa , hiện đại hóa và hội nhập nên vấn đề hội nhập về giáo dục
trong bối cảnh tồn cầu hóa khi bước vào nền kinh tế tri thức là hết sức quan
trọng và vấn đề phát triển nguồn nhân lực con người có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Muốn hội nhập ta phải mở cửa cho các nhà đầu tư giáo dục vào Việt Nam
để tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực con người ; Muốn nền giáo dục Việt
Nam phát triển cạnh tranh được với các nhà đầu tư nước ngồi thì ta phải mở rộng
các loại hình giáo dục trong nước, huy động mọi người tham gia vào việc đầu tư
cho giáo dục.
Nền kinh tế tri thức và phát triển nguồn nhân lực con người là 2 yếu tố
quan trọng khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn công nghiệp hóa , hiện đại hóa
và hội nhập hay nói cách khác là giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay. Vấn đề quan
trọng là nhà nước ta phải có những chính sách như thế nào để đặt niềm tin cho
người dầu tư và nhằm hạn chế những khuyết điểm thiếu sót xảy ra .



PDF Merger
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one
AnyBizSoft

×