Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TIỂU LUẬN: Triết học và vấn đề phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.03 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………








TIỂU LUẬN

Triết học và vấn đề phát huy vai trò
nhân tố con người ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay

















1
PHẦN MỞ ðẦU
Từ thời xa xưa đến nay con người luôn là trung tâm nghiên cứu của các
khoa học nói chung và của Triết học nói riêng. Vấn đề con người là vấn đề hết
sức phức tạp mà các khoa học nghiên cứu thì chỉ nghiên cứu một phần nào của
con người mà không thể nghiên cứu hết tất cả các cơ quan, các bộ phận, không
nghiên cứu được bản chất của con người. Chỉ có Triết học nói chung, đặc biệt là
Triết học Mác – LêNin mới có sự nghiên cứu con người trong một thể thống nhất
không tách rời các bộ phận, nghiên cứu con người trong một chỉnh thể từ đó đi
truy tìm bản chất của con người và có những đònh hướng giải phóng con người.
Trong xã hội hiện nay thì yếu tố con người là yếu tố cơ bản không thể
thiếu để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển đất nước và phát triển cả
thế giới. Con người là tiềm năng là và sức mạnh trí tuệ, tinh thần, đạo đức là
nhân tố quyết đònh và là vốn quý nhất để xây dựng đất nước giàu mạnh.
Do đó việc nghiên cứu để áp dụng quan điểm Triết học về con người vào
việc đònh hướng giải phóng con người hiện nay ở nước ta hiện nay là vấn đề quan
trọng, không thể thiếu vì đó là cơ sở, là động lực để phát triển đất nước. Đó cũng
là những lý do mà người nghiên cứu chọn chủ đề Triết học và vấn đề phát huy
vai trò nhân tố con người ở Việt nam trong giai đọan hiện nay làm tiểu luận
nghiên cứu cho mình.
Mục đích của đề tài là đưa ra những đònh hướng nhằm giải phóng con
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục đích trên người
nghiên cứu dùng phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu nhằm thu thập, phân
tích để đưa ra cơ sở lý luận của Triết học trước Mác và Triết học Mác-LêNin làm
nền tảng từ đó mới đi vào tìm hiểu, phân tích con người Việt Nam trong quá khứ
và nêu lên những đònh hướng giải phóng con người trong hiện tại.
Tiểu luận này gồm các nội dung chính sau:
Chương 1: Quan điểm về con người trong triết học trước Mác – tác giả đề
cập đến quan điểm Triết học phương Đông và Triết học phương Tây trước Mác
Chương 2: Quan niệm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất

con người – đề cập đến quan điểm về con người và bản chất của con người của
Triết học Mác.
Chương 3: Phát huy vai trò nhân tố con người ở việt nam trong giai đọan
hiện nay – tác giả đã nêu lên một số đặc điểm của người Việt Nam trong chiến
tranh rồi từ đó mới đònh hướng giải phòng con người.


2
Chương 1
QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
TRƯỚC MÁC
1.1 Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
1

Có thể nói rằng lich sử khoa học nói chung, của triết học nói riêng là
lòch sử nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, mỗi khoa học có cách tiếp cận vấn
đề con người theo phương pháp riêng, phù hợp với đặc điểm đối tượng của mình.
Các khoa học khác khi nghiên cứu con người thì nghiên cứu trực tiếp vào một bộ
phận nào của con người, còn triết học Mác nghiên cứu con người bằng cách tổng
hợp các yếu tố thành hệ thống. Do vậy, quan hệ giữa triết học với các khoa học
khoa học khác là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Từ thời cổ đại, các trường phái triết học đều tìm cách lý giải bản chất
con người, quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.
Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo
nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhò
nguyên luận. Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc.
Đời sống của con người trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy, cuộc đời con
người khi còn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vónh cửu là phải hướng
đến trạng thái Niết bàn, nơi tinh thần của con người được giải thoát để trở thành
bất diệt.

Như vậy, dù bò chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc nhò nguyên, suy
đến cùng con người trong quan niệm của các học thuyết tôn giáo phương Đông
đều phản ánh sai lầm về bản chất của con người, hướng con người đến thế giới
thần linh. Trong tiết học phương Đông, với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm
hoặc duy vật chất phác, biểu hiện trong tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan niệm
về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong phú. Khổng tử cho rằng bản
chất con người do thiên mệnh chi phối quyết đònh, đức “nhân” chính là giá trò cao
nhất của con người. Mạnh Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm
sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bò nhiễm cái xấu,
xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy phải qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của
mình. Củng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo
đức để dẫn dắt con người hướng đến các giá trò đạo đức tốt đẹp.

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình triết học Mác – LêNin, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội,
2002, tr.462-464.

3
Triết học Tuân tử cho rằng, bản chất con người sinh ra là ác, nhưng có
thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được.
Trong Tiết học phương Đông, còn có quan niệm duy tâm cho rằng trời
và người có thể hoà hợp với nhau. Đổng Trọng Thư một người thừa kế Nho giáo
theo khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm trời và con người có thể thông
hiểu lẫn nhau. Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm. Quy cuộc đời con người
vào vai trò quyết đònh của “thiên mệnh”.
Lão tử, người mở đầu cho trường phái Đạo gia cho rằng người sinh ra từ
“Đạo”. Do đó con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phát
không hành động một cách gỉa tạo, gò ép, trái với tự nhiên. Quan niệm này biểu
hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của Triết học Đạo gia.
Có thể nói rằng, có nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương

Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú , thiên về con người trong mối quan
hệ chính trò, đạo đức. Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu
hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối
quan hệ với tự nhiên và xã hội.
1.2 Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
1

Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau
về con người:
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo,
nhận thức về vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong
Kitô giáo, con người là kẻ có thể xác. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn vẫn còn
tồn tại mãi mãi. Linh hồn là giá trò cao nhất trong con người. Vì vậy, phải thường
xuyên chăm sóc linh hồn để hướng tới thiên đường vónh cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu
của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu
lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Prôtago, một nhà nguy
biện cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ”. Quan điểm của Arixtốt về con
người, theo ông, chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật làm
cho con người nổi bậc lên, con người là bậc thang cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao
nhà nước, ông xem con người là “một động vật chính trò”.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã có sự phân biệt con người với tự
nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người.

1
Sđd, tr.464-467.

4
Triết học Tây u trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế
sáng ïtạo ra. Mọi số phân niềm vui, nổi buồn sự may rủi của con người đều do

Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh minh sáng suốt của
Thượng đế. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì
hạnh phúc vónh cửu là ở thế giới bên kia.
Trết học thời kỳ phục hưng – cận đại đặc biệt đề cao vai trò của trí tuệ,
lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong
những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát con người ra khỏi mọi gông cùm chật
hẹp mà chủ nghóa thầm học thời trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên, để
nhận thức đầy đủ con người cả về mặt sinh học và về mặt xã hội thì chưa có
trường phái nào đạt được. Con người chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem
nhẹ mặt xã hội.
Triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ, Hêghen
đã phát triển con người theo khuynh hướng của chủ nghóa duy tâm. Hêghen, với
cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự vận động của “ý niệm
tuyệt đối”, đã cho rằng, con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Bước diễu
hành của “ý niệm tuyết đối” thông qua quá trình tự ý thức của con người đã đưa
con người trở về giá trò tinh thần, giá trò bản thể và cao nhất trong đời sống con
người. Hêghen cũng trình bày một cách có hệ thống về các quy luật của quá trình
tư duy của con người, làm rõ cơ chế tinh thần đời sống tinh thần cá nhân trong
mọi hoạt động của con người. Mặc dù, con người được nhận thức được từ mức độ
duy tâm khách quan, nhưng Hêghen là người khẳng đònh vai trò chủ thể của con
người đối với lòch sử, đồng thời cũng là sự phát triển của kết quả lòch sử.
Tư tưởng duy tâm Phoiơbắc đã vượt qua những hạn chế trong triết học
Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực. Phoiơbắc phê
phán tính chất siêu nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản chất con người trong
triết học Hêghen, đồng thời khẳng đònh con người là sự vận động của thế giới vật
chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển của thế giới thự nhiên. Con
người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời. Phoiơbắc đề cao vai trò trí
tuệ của con người với tính cách là những cá thể người. Đó là những con người cá
biệt, đa dạng, phong phú không giống ai. Quan niệm này dựa trên nền tảng duy
vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính, nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy

nhiên, Phoiơbắc không thấy được bản chất xã hội trong đời sống con người, tách
con người ra khỏi điều kiện lòch sử cụ thể. Con người của Phoiơbắc là phi lòch sử,
phi giai cấp và trừu tượng.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước
Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhò nguyên luận hay duy vật

5
siêu hình đều không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan
niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh
thần thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt
xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt
được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao uy tính,
xác lập các giá trò về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những
tiền đề có ý nghóa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Mác.




















Chương 2

6
QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ
CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Qua sự trình bày trên, chúng ta thất rằng trước khi có triết học Mác ra
đời, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt đến sự hiểu biết về con người
“cụ thể”, “hiện thực” đều không đem lại kết quả. Cuối cùng thì chủ nghóa duy
tâm vẫn ngự trò trong nhận thức đời sống xã hội. Một nhiệm vụ có ý nghóa đặt ra
là: thay thế con người trừu tượng, hoặc con người tự nhiên – sinh học bằng con
người cụ thể trong sự phát triển lòch sử, con người xã hội. Một con người như vậy
đã thực sự ra đời trong quá trình Mác – ngghen xây dựng nên học thuyết hoàn
chỉnh của mình.
2.1 Quan điểm về con người trong triết học Mácxít
Lòch sử quá trình hình thành triết học Mác nói riêng, chủ nghóa Mác nói
chung, đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng: Con người là điểm xuất phát và sự
giải phóng con người là mục đích cao nhất của triết học Mác. Song triết học Mác
lại không thể lấy con người làm đối tượng nghiên cứu của mình.Vì:
- Con người là một khách thể có nội dung hết sức phong phú, sự tồn tại của
con người bao hàm nhiều mặt với vô vàn các quan hệ phức tạp, nên con
người được nghiên cứu bởi nhiều khoa học khác nhau như sinh vật học,
tâm lý học, y học, sử học, văn hóa học, giáo dục học v.v Nhưng các khoa
học này chỉ lấy một phần nào đó của con người để nghiên cứu và trực tiếp
nghiện cứu vào vào đối tượng đó.
- Còn triết học chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất về con người như
bản chất của con người, thế giới quan, tư duy, đạo đức, tín ngưỡng , thẩm
mỹ của con người, các quan hệ cá nhân và xã hội, quan hệ giai cấp, dân

tộc và nhân lọai… Song triết học không giới hạn đối tượng nghiên cứu của
mình ở từng mặt của con người trong trạng thái trừu tượng, cô lập với thế
giới bên ngòai. Hay nói cách khác triết học nghiên cứu về con người theo
hướng trước hết trả lời cho câu hỏi “Con người là gì?” từ đó mới đi truy tìm
bản chất con người.
Triết học Mác quan niệm rằng: “Con người là thực thể thống nhất giữa
mặt sinh vật với mặt xã hội”
1
.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm con người trong lòch sử triết học
đồng thời khẳng đònh con người người hiện thực là sự thống nhất giữa con người
sinh học và con người xã hội.

1
Sđd, tr.467.

7
Tiền đề vật chất là tiền đề đầu tiên quy đònh sự tồn tại của con người là
sản phẩm của giới tự nhiên. Do đó con người sẽ bò những quy luật tự nhiên và qui
sinh học ví du:ï như quy luật phủ đònh của phủ đònh, quy luật biến dò, di truyền
v.v chi phối cuộc sống một cách tự nhiên mà con người không cưỡng lại được.
Vì con người là thực thể sinh học cho nên con người mang bản chất tự
nhiên thể hiện nhu cầu có tính bản năng đói muốn ăn, khát muốn uống, đau
kêu… Như vậy, con người trước hết là một sinh vật, biểu hiện trong những cá
nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối
với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm – sinh lý,
các giai đọan phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con
người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng đònh rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy đònh bản chất con người. Đặc trưng quy đònh sự khác biệt giữa con

người với thế giới lòai vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện
trong họat động sản xuất vật chất, nó biểu hiện căn bản tính xã hội của con
người. Thông qua họat động lao động sản xuất, con người tạo ra của cảùi vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư
duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết đònh hình thành
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong xã
hội.
Con người sống không tách rời khỏi cộng đồng xã hội . Mối quan hệ với
cộâng đồng xã hội nên con người chòu sự chi phối của các quy luật xã hội như quy
luật kinh tế, quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng
sản xuất v.v
Con người là một thực thể xã hội nên con người có bản chất xã hội. Bản
chất xã hội thể hiện những nhu cầu có tính bản năng con người luôn chú ý để đáp
ứng nhu cầu của cộng đồng của xã hội chính điều này đã làm cho con người từ
động vật ra nhưng con người khác với con vật.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Trong mối quan hệ giữa thực thể tự nhiên và
thực thể xã hội thì thực thể tự nhiên là tiền đề trên tiền đề đó thực thể xã hội tồn
tại và phát triển. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người còn mặt xã
hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học
phải được “nhân hoá”để mang giá trò văn minh con người, đến lượt nó nhu cầu xã
hội không thể thoát ly khỏi tiền đề nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với
nhau, hoà quyện vào nhau để trở thành con người tự nhiên - xã hội.

8
2.2 Vấn đề bản chất con người
Con người là thể thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Nếu xét con người
là một chỉnh thể thì con người mang bản chất xã hội. “Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.”

1

Con người sống trong cộng đồng người nào, sống trong chế độ xã hội
nào thì mang bản chất của cộng đồng đó, chế độ xã hội đó. Chúng ta thấy rằng,
con người đã vượt lên thế giới loài vật về cả ba phương diện khác nhau: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba
mối quan hệ đó, suy cho cùng, đều mang tính chất xã hội, trong đó quan hệ xã
hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm các quan hệ khác và mọi
hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản
chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng “Bản chất con
người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riệng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”
2
. Điều
này khẳng đònh rằng không có con người trừu tượng, thoát ly khỏi mọi điều kiện
mọi hoàn cảnh lòch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác đònh, sống trong
một điều kiện lòch sử nhất đònh, một thời đại nhất đònh. Trong điều kiện lòch sử
đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trò vật chất và
tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và cả tư duy trí tuệ. Do đó, bản chất
con người, trong mối quan hệ với điều kiện lòch sử xã hội luôn vận động và biến
đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nên khi xem xét về bản chất con người ta
phải đặt con người trong không gian cụ thể, thời gian cụ thể, hoàn cảnh cụ thể.
Bản chất con người không phải là hệ thống đóng kín, mà là hệ thống
mở, là “tổng hoà các quan hệ xã hội”. Các quan hệ xã hội khác nhau không ít thì
nhiều có sự thâm nhập với nhau, chi phối nhau để góp phần hình thành nên bản
chất của con người. Bản chất con người bò chi phối bởi tất cã các yếu tố. Nếu như
xét về mặt thời gian thì thì bản chất con người bò chi phối bới quá khứ, hiện tại và
tương lai. Nếu xét về mặt không gian thì tất cả những quan hệ trực tiếp, gián tiếp,
quan hệ gần quan hệ xa đều góp phần hình thành bản chất con người. Nếu xét về
các loại quan hệ thì có bao nhiêu loại quan hệ thì có bay nhiêu quan hệ góp phần

hình thành nên bản chất con người. Những quan hệ cơ bản có thể kể đến đó là
quan hệ kinh tế, chính trò, đạo đức, huyết thống, hôn nhân… trong các quan hệ ấy

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, 2003, t.3, tr.103.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình triết học Mác – LêNin,Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội,
2002, tr.471.


9
thì quan hệ kinh tế giữ vai trò quyết đònh vì khi kinh tế thay đổi thì bản chất con
người sẽ thay đổi rất nhanh.
Như vậy, bản chất của con người không được sinh ra mà được sinh
thành. Bản chất con người hình thành và thay đổi theo sự hình thành các quan hệ
xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là quan hệ về kinh tế.
Vì vậy, để giải phóng con người thì phải tạo điều kiện tối ưu để con
người phát huy tối ưu khả năng của mình. Phải kìm hãm tất cả các mối quan hệ,
các hoàn cảnh đang kìm hãm sự phát triển con người. Trong đó quan hệ về kinh
tế là quan hệ quan trọng nhất cho nên khi giải phóng con người cần xem trọng
quan hệ này. Muốn giải phóng con người thì trước tiên những con người đó phải
được giải phóng ra khỏi sự áp bức, bóc lột, giải phóng họ ra khỏi chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất. Phải làm cho hoàn cảnh tác động đến đến con người theo
khuynh hướng phát triển nhằm đạt đến các giá trò có tính mục đích, tự giác, có ý
nghóa đònh hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một
cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh theo nhiều phương diện khác nhau:
hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm
chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt
động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người hoàn cảnh trong
bất kỳ giai đoạn nào của lòch sử loài người.

2.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lòch sử
Với tư cách là thực thể xã hội, con người họat động thực tiễn tác động
vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, thúc đẩy sự vận động và phát triển của
lòch sử xã hội thì càng đóng vai trò là chủ thể. Thế giới lòai vật dựa vào những
điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua họat động thực
tiễn của mình để làm phong phú thêm giới tự nhiên, tái tạo lại lại tự nhiên thứ
hai theo mục đích của mình.
Mặt khác, trong quá trình cải biến giới tự nhiên thì con người vừa làm
nên lòch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lòch sử, đồng thời là chủ
thể sáng tạo ra lòch sử của chính bản thân con người. Họat động lao động sản
xuất vừa là điều kiện tồn tại của con người, vừa là phương thức để biến đổi đời
sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lòch sử xã hội, con người
thông qua họat động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến
cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có họat động
của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn
tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của tòan bộ lòch sử xã hội lòai
người.

10
Không có con người từu tượng, chỉ có con người trong mỗi giai đọan
phát triển nhất đònh của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ
với điều kiện lòch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho
phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất của con người theo hướng tích cực thì cần
phải làm cho hòan cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hòan cảnh trên
nhiều phương diện khác nhau, nó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người
và hòan cảnh trong bất kỳ giai đọan nào của lòch sử.
















Chương 3
PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐỌAN HIỆN NAY
Theo chủ nghóa duy vật biện chứng thì muốn phát triển thì ta phải dựa
vào những tiền đề đã có, lấy đó làm cơ sở để họach đònh cho tương lai. Do đó để
hiểu rõ hơn về con người Việt Nam trong giai đọan hiện nay để từ đó có đònh

11
hướng phát triển thì trước hết ta phải tìm hiểu đôi nét về con người Việt Nam
trong thời kỳ chiến tranh gần đây – Chiến tranh chống đế quốc Mỹ.
3.1 Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh
Năm 1975 Việt Nam đã đánh thắng Mỹ thống nhất đất nước là một biểu
tượng của thời đại. Chính những con người Việt Nam thời đại Hồ chí Minh đã
làm nên lòch sử mà không phải dân tộc nào cũng có thể làm được. Với ý chí
quyết chiến, quyết thắng, thái độ sống lạc quan, sự đòan kết nhất trí giữa lãnh
đạo và quần chúng, lòng yêu thương giữa những con người với nhau trong điều
kiện khắc nghiệt của chiến tranh đã góp phần làm xua tan tâm trạng bi quan

tuyệt vọng, bế tắc khôi phục lại niềm tin ở mỗi con người vào sự tất thắng của
chính nghóa và lý trí.
Dân tộc Việt Nam ta trong thời kỳ chiến tranh được đánh giá rất cao vì
họ là những người dám hy sinh thân mình vì người khác, vì cuộc chiến đấu giải
phóng dân tộc. Họ là những con người có vóc dáng rất nhỏ bé nhưng ý chí, niềm
tin thật là to lớn, không có kẻ đòch nào có thể khuất phục được họ. Thế điều gì đã
tạo nên sức mạnh Việt Nam, phẩm chất Việt Nam trong thời kỳ đánh Mỹ cứu
nước.
Một điều hiển nhiên là khi xem xét hiện tại thì không thể tách rời khỏi
quá khứ lòch sử, nhân dân ta rất tự hào về nền văn hiến mấùy nghìn năm lòch sử.
Mặc dù bò đô hộ hơn 1000 năm nhưng nước ta không bò mất, dân ta không bò
thuần hóa bởi chế độ thống trò mà trái lại họ vẫn là người Việt Nam, vẫn kiên
cường đấu tranh để giành lại quyền độc lập tự do.
Không phải những đặc điểm về chủng tộc, về hòan cảnh đòa lý… mà
chính lòch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước trải qua cuộc đấu tranh chinh
phục thiên nhiên và chống giặc ngọai xâm đã tạo nên một vốn rất cơ bản cho
người Việt Nam. Hồ Chí minh đã nói, chủ nghóa yêu nước là cái vốn quý nhất là
đặc điểm lớn nhất trong di sản tinh thần của dân tộc Việt Nam ta. Chủ nghóa yêu
nước là truyền thống Việt Nam: thà chết, thà hy sinh tất cả chứ không chòu cúi
đầu làm nô lệ, là động lực tinh thần của ý chí quyết chiến, quyết thắng bất cứ kẻ
xâm lược lớn mạnh nào, là cơ sợ đạo lý của đại đòan kết tòan dân. Chủ nghóa
yêu nứơc kết hợp với tài thao lược, mưu trí, sáng tạo đã hung đúc nên nghệ thuật
quân sự Việt Nam điêu luyện bách chiến bách thắng.
Con người Việt Nam trong chiến tranh mang tính nhân văn, tính “người”
rất cao. Chúng ta phải tôn trọng, nâng niu những giá trò truyền thống đó, nhưng
chúng ta không nên quá đề cao vai trò của lòch sử. Chúng ta phải hiểu rằng lòch
sử là một quá trình tiếp nối vô tận, trong đó luôn luôn diễn ra sự phủ đònh biện

12
chứng giữa cái cũ và cái mới, con người luôn luôn diễn ra sự phủ đònh biện chứng

cái cũ bởi cái mới, trong đó con người luôn đứng trước những yêu cầu, đòi hỏi
mới chưa hề đặt ra cho các thế hệ trước. Truyền thống lòch sử là cái vốn có để từ
đó đi lên, nhưng chính khi đối chiếu với những yêu cầu, đòi hỏi mới thì nét tiêu
cực, lạc hậu của cái cũ nổi lên rất rõ.
3
.2 Xây dựng và phát huy vai trò con người Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
Con người Việt Nam có một lòch sử mấy ngàn năm nhưng con người
Việt Nam kiểu mới chỉ mới bắt đầu khai sinh từ khi cách mạng Việt Nam đã đi
vào quỹ đạo cuả cách mạng thời đại, trải qua phong trào cách mạng trong những
năm 30, cách mạng tháng tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước,
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cuộc chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước.
Xét về mặt quan hệ với lòch sử đó là một sự phục hưng vó đại cuả tất cả các giá
trò truyền thống lâu đời cuả cả dân tộc, chuyển sức mạnh tiềm tàng cuả lòch sử
thành sức mạnh hiện đại.
Xét về mặt lòch sử con người Việt nam sống trong chiến tranh tranh, phải
luôn luôn tìm cách chống giặc bảo vệ tổ quốc chiếm một thời gian gấp bội lần so
với công cuộc xây dựng đất nước. Nên khi hoà bình được lặp lại thì câu hỏi được
đặt ra là: làm thế nào chuyển được khí thế và sức mạnh cuả chủ nghiã anh hùng
cách mạnh thời chống Mỹ, cứu nước vào mặt trận xây dựng chủ nghiã xã hội,
trước hết là vào lao động sản xuất. Nhiều người đã tin tưởng rằng khi đã có một
truyền thống kiên cường trong đấu tranh thì cũng sẽ thành công trong công cuộc
đổi mới đất nước. Tuy nhiên, chiến tranh và lao động lại là những hiện tượng xã
hội khác nhau, phát triển theo những quy luật khác nhau, chòu sự tác động cuả
những quy luật khác nhau, đứng trước bước ngoặc này đòi hỏi chúng ta giải quyết
hàng loạt vấn đề mới mẻ mà chúng ta chưa nhiều kinh nghiệm, đòi hỏi mỗi
chúng ta phải có sự thích ứng mới, rèn luyện mới.
Thật vậy, sau chiến tranh người Việt Nam chưa phát huy được mọi năng
lực vốn có cuả mình, vì con người không được giải phóng ra khỏi những quan hệ
ràng buộc sự phát triển. Trong thời gian này rất nhiều tài năng bò chôn chặt do

chế độ xã hội không khuyết khích họ, họ không được giải phóng ra khỏi những
ràng buộc nhất là ràng buộc về kinh tế. Kết quả là sau 10 năm đổi mới nền kinh
tế nước ta không thể phát triển, con người không thể phát huy được tính năng
động sáng tạo vốn có cuả họ.
Có thể nói rằng con người Việt Nam trong thời bình có thể phát huy
được tài năng cuả mình từ khi chế độ bao cấp được bải bỏ, khi ta tiến hành xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự đònh hướng cuả nhà nước. Khi Đảng ta

13
vận dụng quan điểm cơ bản cuả chủ nghiã duy vật biện chứng và chủ nghiã duy
vật lòch sử về sự tác động biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, về con người
với tư cách là chủ thể có ý thức cuả xã hội, vưà là sản phẩm cuả xã hội, Đảng ta
xem xét và giải quyết vấn đề xây dựng con người mới trong mối liên hệ thống
nhất hữu cơ với việc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới.
Muốn phát huy hơn về vai trò nhân tố con người trong thời đại hiện nay
thì phải đề cao vai trò của con người với tư cách là chủ thể cuả lòch sử và tạo
điều kiện để con người phát huy được tài lực, trí lực, nhân lực. Để làm được điều
này thì Đảng ta phải có những đònh hướng, phải có những đường lối, chính sách
rõ ràng để từng bước nâng cao trình độ học vấn, trình độ tư tưởng, nâng cao mức
sống… nhằm để con người có những điều kiện tốt nhất để phát huy khả năng cuả
mình.
Những vấn đề này đã được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm và được
thực hiện qua nhiều việc làm cuả toàn dân như sau:
- Thực hiện xoá đói giảm nghèo để mọi người thoát ra khỏi nghèo đói từ
đó tài năng sẽ dễ dàng phát huy. Khi điều kiện kinh tế quá thấp, suốt ngày ý nghó
không ra thể vượt ra ngoài cơm, áo, gạo, tiền thì người ta rất khó nghó đến những
thứ khác như học tập nâng cao trình độ, tìm tòi để phát hiện ra những cái mới. Do
đó phải thực hiện được xoá đói giảm nghèo bằng cách cho họ vay vốn để sản
xuất nông nghiệp, tạo cho họ có công ăn việc làm …. Cũng đã đem lại hiệu quả
nhất đònh đã làm cho một số người dân thoát ra khỏi tình trạng thiếu trước hụt sau

từ đó họ mới có điều kiện để lo cho con cháu cuả họ.
- Khi trình độ cuả con người quá thấp thì họ cũng khó có thể phát huy vai
trò cuả mình, khó góp phần tích cực vào xu thế phát triển chung. Do đó muốn
mọi người dân đều có thể tiếp thu được những chính sách, những thành tựu khoa
họïc kỹ thuật … thì phải tiến hành xã hội hóa giáo dục. Nước ta hiện nay đã hoàn
thành xong việc xoá mù chữ ở bậc tiểu học và đang tiến hành phổ cập hoá bậc
trung học. Nhìn chung hiện nay trình độ dân trí cuả ta còn thấp nên vần đề nâng
cao dân trí là vấn đề cấp bách nhưng khá là nan giải vì một số bộ phận người dân
cho là việc học là không cần thiết, nên họ không đi học. Đảng và nước ta phải có
chính sách như thế nào để mỗi người dân có được điều kiện tốt nhất để học tập
nâng cao trình độ, để họ có thể tự giải phóng họ.
- Nếu chỉ kể đến kinh tế, giáo dục thì chưa đủ điều kiện để phát huy vai
trò cuả nhân tố con người. Một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đó là
con người phải có một sức khoẻ tốt, vì có sức khoẻ thì mới có thể tham gia vào
các hoạt động vật chất cũng như là tinh thần tốt được. Để phần nào nâng cao
được chất lượng sức khỏe nước ta tiến hành xây dựng mạng lưới y tế rộng khắp,

14
mọi đứa trẻ sinh ra phải được tiêm phòng một số bệnh nguy hiểm, mọi người đều
có thể đến trạm y tế để chăm sóc sức khoẻ cho mình. Có những chương trình tư
vấn về sức khỏe cốt yếu là để nâng cao sức khỏe y tế công đồng.
- Để có thể phát huy vai trò nhân tố con người khái quát và quan trọng
nhất là thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa để phát tiển nền kinh
tế, đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu đến với sự giàu mạnh và có thể hoà
nhập được vào thế giới đang biến đổi hết sức sôi động. Khi thực hiện thành công
quá trình này thì đời sống cuả người dân dần dần được cải thiện, họ mới có điều
kiện để học tập, nghiên cứu, có điều kiện thể hiện được bản thân mình, phát huy
tài năng cuả mình. Đây phải nói là vấn đề then chốt nhất quy đònh sự phát triển
cuả xã hội, cuả một quốc gia. Hiện nay dường như vấn đề này đã bắt đầu được
diễn ra ở khắp mọi nơi, từ thành thò đến cả nông thôn, đâu đâu chúng ta cũng

thấy bắt đầu xuất hiện những cơ sở sản xuất, những nhà máy, những khu công
nghiệp mói bắt đầu mọc lên. Khi những cơ sở, những nhà máy này mọc lên thì ở
khắp nơi thì tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình lao động sản xuất
tạo ra cuả cải vật chất, để đời sống cuả họ được nâng lên từ đó làm cho xã hội
phát triển, mọi người có đủ điều kiện làm chủ bản thân mình, làm chủ tiến trình
lòch sử.





KẾT LUẬN
Sau khi đã tìm hiểu chủ đề Triết học và vấn đề phát huy vai trò nhân tố con
người ở Việt nam trong giai đọan hiện nay tôi rút ra được một số vấn đề cơ bản
sau:
- Con người là một thự thể sinh học xã hội nên muốn nghiên cứu về con
người Việt Nam phải nghiên cứu những đặc điểm của con người Việt Nam về
mặt sinh học, về mặt tâm lý về nhận thức để làm cơ sở đònh hướng cho sự phát
triển.
- Vì con người là chủ thể và là sản phẩm của lòch sử nên khi nghiên cứu
con người Việt nam thì phải nghiên cứu con người Việt Nam trong lòch sử dựng

15
nước và giữ nước cũng như phải nghiên cứu con người Việt Nam mới xã hội chủ
nghóa qua các giai đọan phát triển khác nhau của cách mạng Việt Nam cho đến
nay.
- Nghiên cứu con người Việt Nam hiện nay. Những đặc điểm, chỗ mạnh
và chỗ yếu của nó. Làm thế nào phát huy được đầy đủ những ưu điểm và chỗ
mạnh, khắc phục được nhanh chóng những chỗ yếu, những nhược điểm, để hòan
thành nhiệm vụ của thời kỳ lòch sử và đưa con người Việt Nam lên một bước phát

triển cao hơn.
- Nghiên cứu con người phải đặt trong các quan hệ không cô lập tách rời
ra khỏi xã hội, khỏi các quan hệ, phải tìm ra những quan hệ ràng buộc sự phát
triển để từ đó có đònh hướng cải tạo các quan hệ theo chiều hướng tích cực để
cho con người phát huy hết khả năng của mình.
- Nhìn chung để áp dụng thành công quan điểm triết học nói chung và
quan điểm của Triết học Mác – Lênin vào việc giải phóng con người ở nước ta
hiện nay thì trước hết chúng ta cần nghiên cứu thật kỹ về lý luận và phương pháp
về lý luận để từ đó mới có những chính sách, những chiến lược, những đònh
hướng … phù hợp với vòêc phát triển và giải phóng con người.






TÀI LIỆU THAM KHAO

1. Bộ giáo dục và đào tạo. (2002), Gíao trình triết học Mác – Lênin, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và đào tạo. (2003), Triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. GS. Phạm Như Cương. (2004), Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, Nxb. Hà Nội,
Hà Nội.
4. TS. Nhị Lê. (2002), Một số suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội: từ lý luận đến thực
tiễn, Nxb. Lao động, Hà Nội.

PDF Merger
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!

Go to Purchase Now>>
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one
AnyBizSoft

×