Lý luận phê bình - Hiện tại và tương lai
Chiều về trên sông Đồng Nai - Ảnh: LÂM CÓN
(Trích tham luận tại Hội thảo LLPB nhiếp ảnh):
Những nhà lý luận phê bình của ngành nhi
ếp ảnh Việt Nam thực sự
không nhiều. Chúng ta có thể nhìn thấy tên tuổi của họ trên T
ạp chí
Nhiếp ảnh của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, trên T
ạp chí Ánh
sáng đẹp, trên một số tờ báo thường ngày và gần đây là trên Tạp c
hí
Thế giới Ảnh. Hầu hết họ là những nhà nhiếp ảnh, những ngư
ời có
kinh nghi
ệm trong sáng tác, có kiến thức về mỹ thuật, về triết học,
chính tr
ị kinh tế học Theo một cảm nghĩ chủ quan, tôi xin tạm chia
các “nhà” này thành 3 thế hệ:
Thế hệ thứ nhất: từ 60 tuổi trở lên, thế hệ trưởng thành t
ừ Cách mạng
tháng Tám và một số nhà trí thức Việt Nam thời Pháp.
Thế hệ thứ hai: từ 30 đến 60, thế hệ của hệ thống xã hội chủ nghĩa v
à
một phần những người được đào tạo trong chế độ Sài Gòn cũ.
Thế hệ thứ ba: từ 30 tuổi trở lại, lớn lên từ sau năm 1975.
Trong số những nhà lý luận phê bình th
ế hệ thứ nhất cũng thỉnh thoảng
có người có trình độ đại học, nhưng nhìn chung họ là những ngư
ời theo
cách mạng, được đào tạo qua những lớp học ảnh, chính trị ngắn ng
ày
chứ không được đào tạo chính quy như các thế hệ đàn em. Họ chuy
ên
vi
ết những vấn đề hết sức chung chung, ít có những thông tin về lý
luận đọng lại sâu trong lòng người đọc. Những bài vi
ết của họ nặng
những hoài niệm về quá khứ hình thành n
ền nhiếp ảnh cách mạng, về
những thành quả và tư liệu lịch sử cách mạng bằng ảnh, về những ng
ày
đấu tranh anh dũng của dân tộc trong sự nghiệp chống xâm lược. V
à
nếu có sự phê bình thì cũng thiên về sự phê bình cái h
ời hợt, cái nhạt
nhòa, chung chung, chứ ít có những bài viết về lý luận khoa học.
Những cây bút của thế hệ thứ hai thường là tác giả của những bài vi
ết
sâu hơn về nghiệp vụ, đánh giá, khen chê mạnh dạn hơn, có lý lẽ h
ơn,
khó bắt bẻ hơn, có sức thuyết phục hơn, đỡ nh
àm chán hơn. Chúng ta
dễ dàng nhận thấy rằng, những bài viết này hàm chứa lư
ợng thông tin
nhiều hơn. Điều đó cũng dễ hiểu, vì rằng họ được đào tạo cơ bản h
ơn,
tư tưởng tự do hơn, không bị gò bó trong nh
ững khuôn mẫu cứng nhắc
do hoàn cảnh thay đổi của xã hội. Họ được đào t
ạo trong các giảng
đường đại học nước ngoài, chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa nh
ư
CHDC Đức, Liên Xô, Trung Quốc
Và thế hệ thứ ba, một thế hệ chưa đ
ủ thời gian để chứng minh cho sức
trẻ của mình bằng những bài vi
ết ngồn ngộn thông tin, những nhận xét
sắc sảo, những so sánh khách quan, những phát hi
ện độc đáo. Thỉnh
thoảng có một vài cây bút trẻ xuất hiện trên các ấn phẩm chuy
ên ngành
hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác. Những bài vi
ết của
họ có vẻ mượt mà chất văn học hơn, câu từ h
ào nhoáng hơn, nhưng
thực sự mà nói, chưa thấy m
ột sự thay đổi về chất, một sự đánh giá táo
bạo, một cái nhìn hoàn toàn tươi trẻ, tự tin
Để có một bài phê bình lý luận sâu sắc, việc khen chê có tình có lý th
ật
là khó. Cái khó trước hết là trình độ của ngư
ời viết. Nếu không có kiến
thức tổng hợp, nh
ững kiến thức về lịch sử, về khoa học, về lý luận của
các h
ọc thuyết khác nhau, về quan điểm chính trị, về nhận thức đối với
cuộc sống, về những thông tin nghề nghiệp trên thế giới thì không th
ể
trở thành nhà lý luận phê bình. Nh
ững hiểu biết, những kinh nghiệm về
nghề nghiệp mới chỉ là cơ sở đầu tiên. Và sau cùng nhưng r
ất quan
trọng là tấm lòng, sự dũng cảm, sự nhạy bén, sáng tạo của ngư
ời viết.
Trách nhiệm của những nhà lý luận phê bình là phải biết nhìn th
ấy cái
sai, cái đúng, cái cũ, cái mới, biết chỉ ra cho người sáng tác, ngư
ời
thưởng thức đâu là sự sáng tạo, đâu là sự bắt chước nhằm hư
ớng dẫn
người xem nhận ra cái đẹp, cái hay của tác phẩm.
Hiện nay, hầu hết hai thế hệ đầu tiên đều đã già trong cách nghĩ, m
òn
trong cách nhận định, dễ dãi trong cách đánh giá, e ngại trong cách ph
ê
bình. Điều đó cũng dễ hiểu. Vì rằng, ngay những người đã từng đư
ợc
đào tạo ở nước ngoài cũng chỉ nhận đư
ợc những thông tin một chiều từ
các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Đã có m
ột thời chúng ta phủ nhận
hoàn toàn những gì thuộc về các nước tư bản. Vì v
ậy chúng ta biết rất
ít, biết không tư
ờng tận về các quan niệm nghệ thuật, về nền tảng lý
luận của những nước này Những kiến thức ngày xưa, những cơ s
ở lý
luận ngày xưa được dùng đi dùng l
ại trong nhiều năm qua không có sự
bổ sung thông tin mới, hoặc đư
ợc bổ sung một cách tự phát, ít ỏi không
theo một giáo trình khoa học nào. Điều đó dẫn đến hệ quả tất yếu l
à lý
luận sáo mòn, lặp lại những điều đã viết. Việc đọc những tài li
ệu mới
bằng tiếng nước ngoài không phải là một chuyện phổ biến vì nhi
ều lý
do: không có tài liệu, không có thời gian, không có l
òng kiên trì.
Nguồn thông tin của chúng ta bằng tiếng Việt hầu nh
ư không có. Trong
những năm gần đây, một số tác giả đã xuất bản một ít sách gọi l
à lý
luận phê bình, thực ra đó là tuyển tập những bài vi
ết về tất cả những
vấn đề của ngành nhiếp ảnh, phần lớn thiên về sơ k
ết, nhận định về
phong trào, về tổ chức các cuộc thi, cuộc liên hoan ảnh.
Ở thế hệ thứ ba có một số người được đào tạo trong nư
ớc từ khoa nhiếp
ảnh ở trình độ đại học, song nếu thế hệ này không tự mình tìm đ
ọc
nh
ững thông tin mới từ những nguồn quốc tế (từ Internet, từ các sách
in của nước ngoài chẳng hạn), thì họ cũng không thể v
ươn cao hơn. Và
con đường lý luận phê bình cũng luẩn quẩn trong một vòng tròn đ
ịnh
trước.
Một điều đáng nói nữa là không có ai chọn “lý luận ph
ê bình” làm
“nghề” thực sự của mình, biến nó thành một niềm say mê, m
ột sự
nghiệp cho cả cuộc đời. Người nào cũng làm công việc này như một
công việc tay trái.
Từ những thực tế đó, tôi xin có một số đề nghị:
Hãy có kế hoạch đào tạo những người làm nghề lý luận ph
ê bình
chuyên nghiệp trong tương lai bằng nhiều con đư
ờng khác nhau, trong
đó chú trọng đến việc đào tạo ở nước ngoài.
Hãy tạo điều kiện cho những nhà phê bình lý luận hiện nay đư
ợc nâng
cao nghề nghiệp, bổ sung thông tin mới bằng các lớp tập huấn.
Hãy tạo ra nguồn thông tin bằng cách tổ chức dịch v
à phát hành các tác
phẩm nước ngoài ra tiếng Việt. Để làm điều này, Nhà nước phải có sự
hỗ trợ về kinh phí.
Các tạp chí ảnh nên tăng trang nhiều hơn để giới thiệu những bài d
ịch
về lý luận nhiếp ảnh của thế giới và của Việt Nam
.