PHẦN MỞ ĐẦU
Môi trường hiện nay đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của
các quốc gia trên thế giới. Những biến đổi khí hậu toàn cầu gần đây đang tác
động không nhỏ tới cuộc sống con người như một lời cảnh báo về sự xuống
cấp nghiêm trọng của môi trường. Trái đất nóng lên dẫn tới băng tan làm
nước biển dâng lên, thu hẹp diện tích đất liền, các thiên tai xảy ra thường
xuyên hơn với sức tàn phá lớn hơn.Việt Nam không nằm ngoài vòng ảnh
hưởng đó. Nước ta với đường bờ biển dài trên 3000 km sẽ bị thu hẹp rất nhiều
nếu nước biển dâng lên, miền Bắc vừa trải qua đợt rét dài nhất trong 10 năm
trở lại đây…Vì thế bảo vệ môi trường đang là một vấn đề vô cùng cấp thiết
đòi hỏi phải có sự chung tay giúp đỡ của toàn cộng đồng.
Môi trường ô nhiễm có nhiều nguyên nhân: khí thải, rác thải, các sự cố
tràn dầu… Vấn đề mà nhiều đô thị đang phải đối mặt là rác thải sinh hoạt. Hà
Nội, thủ đô của Việt Nam, trung tâm kinh tế văn hóa chính trị xã hội, là một
trong những thành phố lớn nhất nước, nơi có mật độ dân cư đông thứ hai
trong cả nước. Lượng rác thải sinh hoạt hằng ngày rất lớn.Vì thế vấn đề rác
thải mà cụ thể là làm sao để quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt hiệu quả đang
được quan tâm.Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên nhóm
chúng em đã đưa ra cùng nghiên cứu nhằm thấy rõ được thực trạng và từ đó
nêu ra một vài ý kiến về giải pháp cho vấn đề rác thải sinh hoạt ở Hà Nội.
1
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP RÁC THẢI SINH HOẠT HÀ NỘI
I.Tổng quan về rác thải
1.Khái niệm- phân loại:
Rác là một từ dùng chỉ chung những vật không có giá trị sử dụng đối với
một số đối tượng nhất định. Rác là một bộ phận của chất thải tức là các chất
được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động
khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, khí, lỏng hoặc một số dạng khác (theo Điều
2 Luật Bảo vệ môi trường )
Việc phân loại chất thải hiện nay chưa có những quy định thống nhất,
tuy nhiên bằng cách nhìn thực tiễn của hoạt động kinh tế và ý nghĩa của quản
lý đối với chất thải, có các cách phân loại sau đây:
Phân loại theo nguồn gốc phát sinh:
Chất thải từ các hộ gia đình hay còn gọi là rác thải sinh hoạt
Chất thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại: là những
chất thải có nguồn gốc phát sinh từ các ngành kinh tế như công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ.
Phân loại chất thải theo thuộc tính vật lý: gồm chất thải rắn, chất thải
lỏng và chất thải khí.
Phân loại chất thải theo tính chất hóa học: chất thải dạng hữu cơ và vô
cơ hoặc chất thải dạng kim loại, chất dẻo, thủy tinh, giấy bìa…
Phân loại chất thải theo mức độ nguy hại đối với con người và sinh vật
như chất thải độc hại, chất thải đặc biệt độc hại…
Mỗi cách phân loại có mục đích nhất định nhằm phục vụ cho việc nghiên
cứu, sử dụng, tái chế hay kiểm soát và quản lý chất thải có hiệu quả.
Riêng với các chất thải phát sinh từ khu vực đô thị bao gồm 4 nhóm: vô
cơ, hữu cơ, phân bắc và chất thải nguy hiểm. Các chất thải vô cơ phát sinh
chủ yếu từ các khu vực công nghiệp, thương mại và xây dựng, với một lượng
nhất định đầu vào từ nền kinh tế hộ gia đình. Chất thải hữu cơ chiếm khoảng
2
53% tổng dòng thải được phát sinh từ công nghiệp chế biến thực phẩm, các
chợ, các cửa hàng bán lẻ rau và từ các thức ăn thải ra từ kinh tế hộ gia đình.
Phân bắc phát sinh chủ yếu từ hộ gia đình, với một phần ít hơn là nước thải
cống từ các khách sạn, các cơ quan và các hộ gía đình có đường cống nối với
hệ thống cống thoát nước thành phố. Các chất thải nguy hiểm chủ yếu phát
sinh từ các bệnh viện và khu vực luyện kim hoặc xử lý kim loại.
Rác thải có thể chia thành 3 loại chính sau đây: rác thải sinh hoạt (chất
thải từ các hộ gia đình), rác thải sản xuất kinh doanh (phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh của các nhà máy, xí nghiệp, cửa hàng…), rác thải
nguy hiểm( các chất độc hại, nguy hiểm cho con người và sinh vật như chất
thải y tế, chất phóng xạ…)
2. Đặc điểm
Không phải tất cả các loại rác thải đều ảnh hưởng xấu đến môi trường,
có những loại rác thải nếu nắm được đặc tính của nó, ta có thể biến nó thành
các nguồn năng lượng mới hay tái chế để sử dụng.
Trong rác thải sinh hoạt có rất nhiều thành phần, mà sự ảnh hưởng đến
môi trường của chúng cũng khác nhau. Rác hữu cơ dễ phân hủy (thực vật,
chất thải động vật, giấy…) có thể đem chế biến thành phân bón, ủ kín phân
hủy nhờ vi sinh vật, tạo khí thiên nhiên làm nhiên liệu. Rác vô cơ (nilon, thủy
tinh, chất dẻo…) có thể thu hồi tái chế hay xử lý theo từng loại.
Hiện nay, lượng rác thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương
mại tăng lên rất nhanh. Điều đáng lo ở đây là các thành phần của loại rác thải
này lại ảnh hưởng nhiều đến môi trường và nguy hiểm đến đời sống con
người ví dụ như các loại rác thải từ các khu công nghiệp hóa chất, cao su, chế
biến thực phẩm, da, vật liệu xây dựng…hay rác thải y tế gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Nước rỉ rác ngấm vào mạch nước ngầm, hoặc theo côn
trùng xâm nhập vào thực phẩm, muỗi đốt từ người này sang người khác làm
lây lan bệnh dịch. Đặc biệt rác thải y tế là loại rác thải rất nguy hiểm, nếu
không được xử lý tốt sẽ là nguyên nhân gây mầm bệnh.
3
Với những đặc điểm trên, chúng ta phải biết và tìm ra các cách xử lý rác
hiệu quả sao cho hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến môi trường và con
người được đồng thời tiết kiệm được tài nguyên.
3. Các phương thức xử lý rác thải
Trên thế giới có 3 phương pháp xử lý rác chủ yếu là: thiêu đốt, ủ sinh
học và chôn lấp.
Ủ sinh học: đối với các loại rác thải chứa các chất hữu cơ.
Chôn lấp:đối với các loại rác thải không thể chế biến được nữa.
Thiêu đốt: đối với một số loại rác thải độc hại.
Ở các nước phát triển các phương pháp này được triển khai mang lại
hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo an toàn cho môi trường. Tuy nhiên ở các
quốc gia đang phát triển thì việc thực hiện đúng các giải pháp này không phải
điều đơn giản.Tuy đảm bảo vệ sinh, gọn nhẹ nhưng chi phí lại cao, trang thiết
bị rất đắt tiền nên phương pháp thiêu đốt không thích hợp với việc áp dụng
đại trà ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Phương pháp ủ sinh học chi
phí đầu tư ban đầu thấp, nhưng nhược điểm là quy trình kéo dài 3 – 4 tháng,
xử lý bãi nơi chôn lấp để ủ rác khó làm triệt để nên dễ gây thiệt hại tới môi
trường. Cuối cùng chỉ có cách chôn lấp là được sử dụng nhiều nhất. Cách này
vừa dễ làm, vừa đỡ tốn kém nhưng lại có nhược điểm là không vệ sinh, làm ô
nhiễm đất, nước, các loại khí sản sinh khi rác phân huỷ gây ô nhiễm không
khí và cháy nổ.
4. Quy định của Nhà nước về rác thải sinh hoạt
Theo điều 53 chương VI Luật Bảo vệ tài nguyên môi trường thì hộ gia
đình cần có trách nhiệm thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường sau đây:
Thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi do tổ chức giữ gìn vệ
sinh môi trường tại địa bàn quy định.
Nộp đủ và đúng thời hạn các loại phí bảo hiểm môi trường theo quy định
của pháp luật.
4
Tham gia hoạt động vệ sinh môi trường khu phố, đường làng ngõ xóm,
nơi công cộng và hoạt động tự quản về bảo vệ môi trường và cộng đồng dân
cư.
Theo điều 54 Chương VI Luật bảo vệ môi trường: Nhà nước khuyến
khích cộng đồng dân cư thành lập các tổ chức tự quản bảo vệ môi trường nơi
mình sinh sống nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tổ chức thu gom tập kết và xử lý rác thải, chất thải;
Giữ vệ sinh đường làng ngõ xóm, khu phố nơi công cộng
Tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường được thành lập và hoạt động
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách nhiệm, tuân theo quy định
của pháp luật v.v…
Theo chỉ thị 199/TTg của Thủ tướng chính phủ:
- Về việc quản lý việc phát sinh, thu gom, vận chuyển chất thải
Nghiêm cấm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện…cũng
như các hộ gia đình đổ các loại chất thải ra sông, hồ, đường phố làm mất mỹ
quan và gây ô nhiễm môi trường. Tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị xử lý
theo pháp luật bảo vệ môi trường và các pháp luật liên quan khác của Việt
NamTổ chức thu gom kịp thời và triệt để chất thải, tiến hành phân loại chất
thải ngay từ nguồn thải để thuận tiện cho việc tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy.
Khuyến khích việc áp dụng các công nghệ mới tronmg thu gom, vận chuyển
và xử lý chất thải.
Kiểm soát nghiêm ngặt việc thải và vận chuyển các chất thải theo dúng
các quy định về vệ sinh môi trờng.
Tổ chức thực hiện nếp sống vệ sinh, văn minh, xóa bỏ các thói quen và
tập quán xấu, như vứt rác thải, chất thải bừa bãi… Mỗi đô thị phải có các quy
định cụ thể về các việc nói trên.
- Về việc quản lý việc xử lý , tiêu hủy chất thải
Tổ chức và tiến hành việc quy hoạch các bãi chôn lấp chất thải; xây
dựng các bãi chôn lấp chất thải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường và
5
đáp ứng được yêu cầu chôn lấp chất thải của địa phương mình tối thiểu là 25
năm.
Có các công nghệ phù hợp để xử lý hoặc tiêu hủy chất thải đảm bảo các
tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt đối với chất thải công nghiệp nguy hại cần
phải được xử lý triệt để.
Có các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường do các bãi chôn lấp chất thải
cũ gây ra v.v…
Các quy định, văn bản pháp luật của Nhà nước về vấn đề rác thải sinh
hoạt nhìn chung phù hợp với hiện trạng nước ta. Tuy nhiên việc thực hiện
chưa tốt nên trên thực tế vẫn chưa hiệu quả. Đội ngũ những người đảm bảo
việc thực hiện các quy định này còn thiếu và yếu .
II. Thực trạng rác thải sinh hoạt Hà Nội
1. Tình trạng chung
Nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường đã được hơn 20 năm. Cuộc sống người dân đã có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực: mức sống được nâng lên rõ rệt, hàng tiêu dùng nhiều hơn cả
về số lượng và chủng loại, các dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tốt thì cuộc sống hiện đại cũng làm nảy sinh những vấn đề nan giải. Rác
sinh hoạt là một trong số đó. Cuộc sống được cải thiện cũng có nghĩa là con
người tiêu dùng nhiều hơn, các vật dụng đẹp hơn, làm từ nhiều loại chất liệu
hơn, bền hơn và cũng khó phân hủy hơn. Ngày càng nảy sinh nhiều loại chất
thải rắn có tính chất độc hại cao và phức tạp. Theo kết quả quan trắc về chất
thải thì lượng rác thải rắn nguy hại chiếm khoảng 16%, trong đó hơn 10% là
chất dẻo PVC và 6% chất thải là các loại: pin, ắc quy, bơm kim tiêm, nhiệt kế
thuỷ ngân, bóng đèn hỏng có chứa thuỷ ngân…Khối lượng rác tăng chóng
mặt đã gây sức ép lớn cho các bãi rác của thành phố.
Tổng hợp lượng chất thải phát sinh của thành phố Hà Nội 2006
Nguồn phát sinh Khối lượng Khối lượng
6
(tấn/ngày) (tấn/năm)
Chất thải sinh hoạt 2.350 803.000
Chất thải công nghiệp (nguy hại chiếm
khoảng 15%)
350 128.000
Chất thải xây dựng 950 347.000
Chất thải y tế nguy hại 2 720
Phân bùn bể phốt 370 135.000
(Nguồn: URENCO 2006)
Thành phần chất thải sinh hoạt năm 2006
STT Thành phần Tỷ lệ (%)
1 Chất hữu cơ: thức ăn thừa, rau, vỏ quả… 49.03
2 Giấy vụn: giấy, bìa… 2.90
3 Nhựa: chai, lọ, hộp, nhựa vụn… 4.20
4 Nilon 7.48
5 Cao su, da vụn, giả da… 4.15
6 Vải 2.15
7 Cành cây, gỗ 1.03
8 Thuỷ tinh: chai lọ, thuỷ tinh vỡ… 0..79
9 Kim loại: vỏ hộp, sợi kim loại… 1.00
10 Sành sứ 7.36
11 Chất trơ: đất đá, cát, gạch vụn, bê tông, các tạp
chất nhỏ khó phân loại khác…
26.22
Tổng cộng ~100
Độ pH trung bình: 6.5-7.0
Độ ẩm: 67-70%
Tỷ trọng 0.4-0.5 (tấn/m3)
( Nguồn: URENCO, 2006)
Theo số liệu thống kê, trong năm 2002, khối lượng chất thải rắn đô thị
tính bình quân đầu người một ngày tại các đô thị lớn dao động khoảng từ
1-1,2 kg và ở các đô thị nhỏ khoảng 0,5 kg. Con số này đã tăng lên không
ngừng, đặc biệt từ năm 2001 cùng với sự phát triển của các đô thị và điều kiện
sống của người dân. Trung bình mỗi ngày người dân Hà Nội thải ra khoảng
2.700 tấn rác gồm rác hữu cơ, vô cơ và rác tái chế, thì chỉ có khoảng 160 tấn
7
rác vô cơ là không thể tái chế được cần phải chôn lấp, hai loại rác còn lại đều
có thể tận dụng để chế biến làm phân bón, phục vụ Việc chôn lấp chung các
loại rác như vậy vừa gây lãng phí tài nguyên, vừa tốn kém công thu gom, vận
chuyển, diện tích chôn lấp sản xuất nông nghiệp hoặc tái chế thành các sản
phẩm có ích. Bãi rác Nam Sơn có tổng diện tích chôn lấp rác là 83,5 ha với
thời gian hoạt động đến năm 2015 nhưng khả năng đến năm 2010 đã hết chỗ
đổ. Ông Phạm Ngọc Hải- Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Môi trường Đô
thị lo lắng cho biết: “Với khối lượng rác tăng trung bình hàng năm 15% như
trong vòng 5 năm trở lại đây thì chỉ tới 2010, bãi chôn lấp này sẽ đầy. Hiện
nay, bãi chôn rác Nam Sơn đang phải tiếp nhận khoảng 2.500 tấn rác/ngày".
2. Quá trình thu gom( phân loại và vận chuyển) rác thải sinh hoạt
Công ty Môi trường Ðô thị cho biết, hiện nay, Hà Nội có 2 lò đốt rác
tiêu chuẩn là lò đốt rác y tế tại Từ Liêm và lò đốt rác công nghiệp tại khu xử
lý chất thải Nam Sơn, Sóc Sơn. Do bãi xử lý rác Nam Sơn cách Hà Nội tới 56
km, nên trước khi đưa về đây xử lý, rác vẫn được tập kết rải rác ở các huyện
ngoại thành gây mất trật tự và vệ sinh. Các bãi rác là nơi kiếm sống của nhiều
người thất nghiệp, trẻ lang thang. Họ không hề có bất cứ trang bị gì để đảm
bảo sức khỏe khi tiếp xúc với trực tiếp với rác. Không ai dám đảm bảo là sau
vài tiếng bới rác kiếm sống ở đây, người bới rác khi mang những thứ kiếm
được bán lại cho các chủ đầu mối phế liệu lại không “nhân tiện” phát tán luôn
loại bệnh dịch nào đó. Ngoài mối lo phát tán bệnh dịch, các bãi rác cũng tiềm
ẩn nhiều nguy cơ với người bới rác, đặc biệt là trẻ em. Các mảnh thủy tinh
hay kim loại sắc nhọn, kim tiêm, hóa chất độc hại được đổ lẫn cùng rác sinh
hoạt…đều tác động xấu đến sức khỏe thậm chí cướp đi sinh mạng của các
em.
Ô nhiễm không chỉ ở các bãi rác mà còn hiện diện ngay từ khâu thu gom
do việc thu gom rác hoàn toàn thủ công. Hiện nay Hà Nội chỉ có cách dùng
chổi, xẻng gom rác lên xe rồi đưa đến điểm tập kết. Từ đấy rác sẽ lên những
chiếc ô tô chuyên dụng chạy ra bãi rác ngoại ô đợi chôn lấp. Rác thỉnh thoảng
8