Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN bàn LUẬN về VIỆC GIÁO dục đạo đức CHO học SINH TRUNG học HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.73 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC


TIỂU LUẬN

BÀN LUẬN VỀ VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC HIỆN NAY

HỌC PHẦN: PSYC1400 – TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC

Họ và tên: Lê Thị Thảo Nhi
Mã số sinh viên: 46.01.101.104
Lớp học phần: PSYC1400

Giảng viên hướng dẫn: NCS.ThS. Mai Mỹ Hạnh

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 09 năm 2021

Tieu luan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu


6. Kết cấu của đề tài
NỘI DUNG
1. Đạo đức
1.1 Quan niệm về đạo đức
1.1.1 Khái niệm đạo đức
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
1.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh
1.2.1. Giáo dục đạo đức là gì?
1.2.2. Vị trí giáo dục đạo đức
1.2.3. Mục tiêu giáo dục đạo đức
1.2.4. Chức năng giáo dục đạo đức
2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên và một số giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên
2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học
2.2.1. Giáo dục đạo đức cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu điểm là
chính, trên cơ sở đó mà khắc phục khuyết điểm
2.2.2. Tơn trọng nhân cách học sinh, đồng thời đề ra yêu cầu ngày càng
cao đối với học sinh
2.2.3. Phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh trung học và đặc điểm
hoàn cảnh cá nhân học sinh
2.2.4. Người thầy cần phải có nhân cách mẫu mực
2.2.5. Giáo dục theo nguyên tắc tập thể
2.2.6. Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự
giác của học sinh
KẾT LUẬN

Tieu luan



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Một trong những tư tưởng đổi mới GD & ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo
đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn
bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục 2005 đã xác định: “Mục tiêu của giáo
dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã
hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân”…(Điều 23-Luật giáo dục).
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện có đạo đức tri
thức, sức khỏe thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bời dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. (Điều 2 Luật Giáo dục của nước
CHXHCN Việt Nam 2005). Coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta đòi
hỏi phải: tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục lịng u nước, chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hờ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc
văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Từ
đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và
giữ vị trí chủ đạo trong tồn bộ q trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong
nhà trường ở nước ta, đặc biệt là trong nhà trường phổ thông, đối với học sinh ở lứa
tuổi thiếu niên.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong cơng cuộc đổi mới sâu sắc
và tồn diện: từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinhtế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chuyển từ
chính sách “đóng cửa” sang chính sách “mở cửa” làm bạn với các nước trong cộng
đồng thế giới. Với công cuộc đổi mới, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự
hào về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế
mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thối về đạo đức

và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm.
Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo: Nghị quyết TW 2 khóa 8 nhấn mạnh: Đặc
biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thối về đạo đức,
mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hồi bão lập thân, lập nghiệp vì
tương lai của bản thân và đất nước. Trong nhà trường nói chung và trường THPT nói
riêng, số học sinh vi phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh kết
thành băng nhóm đánh nhau, vi phạm pháp luật có nhiều dấu hiệu ngày càng phức tạp
cả về tính chất, mức độ lẫn sự nghiêm trọng của các vụ án. Ngoài việc vi phạm pháp

Tieu luan


luật hình sự, tình trạng học sinh vi phạm pháp luật hành chính, có những hành vi lệch
chuẩn về đạo đức, lối sống như vi phạm Luật Giao thông, rượu chè, cờ bạc, nghiệm
game, matuý...bên cạnh đó cịn lười lao động và học tập, không dám đấu tranh với
biểu hiện sai trái, sống thờ ơ vô cảm, thiếu kỹ năng sống....cũng là vấn đề đáng báo
động, gây lo lắng cho gia đình và xã hội. Một số cán bộ quản lý, giáo viên chưa thật sự
là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri thức khoa học, xem
nhẹ môn GDCD, thờ ơ không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh.
Theo kết quả khảo sát của Viện nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt Nam, thì tỉ lệ
học sinh đi muộn ở cấp Tiểu học là 20%, ở cấp THCS là 21% và ở cấp THPT là 58%;
tỉ lệ quay cóp ở cấp Tiểu học là 8%, THCS là 55% và THPT là 60%; tỉ lệ học sinh nói
dối cha mẹ ở cấp Tiểu học là 22%, THCS là 50% và THPT là 64%; tỉ lệ học sinh
không chấp hành An tồn giao thơng ở cấp Tiểu học là 4%, THCS là 35% và THPT là
70%...Những con số này cho thấy càng lớn thì ý thức đạo đức của học sinh càng đi
xuống.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào cơng tác giáo dục đạo đức
cho học sinh trong giai đoạn hiện nay, và qua thực tiễn, nhận thấy việc nắm rõ thực
trạng và đề ra biện pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng của toàn ngành giáo dục và của tồn xã hội. Đó là lý do

tại sao em chọn đề tài: “ Bàn luận về hoạt động trải nghiệm và hoạt động trải nghiệm
hướng nghiệp được đưa vào chương trình giáo dục trung học ".
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đánh giá được thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở Trường THPT
thông qua đó đề ra biện pháp giáo dục đạo đức học sinh một cách có hiệu quả giúp cho
các em trở thành những công dân tốt cho xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở phổ thông hiện nay: thực trạng và đưa ra một
số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT trong
giai đoạn hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh cấp trung học phổ thông
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp thống kê; phương pháp quan sát;
phương pháp lơgíc và lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp...
6. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu, nội dung, kết luận

Tieu luan


NỘI DUNG
1. Đạo đức
1.1 Quan niệm về đạo đức
1.1.1 Khái niệm đạo đức
Theo chủ nghĩa Mác thì đạo đức là cái có thật trong ý thức xã hội, trong đời sống
tinh thần của con người nghĩa là về lý luận nó là bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội. Đạo đức tồn tại trong mọi ý thức, hoạt động giao lưu, trong tồn bộ hoạt động

sống của con người.
Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt được phản ánh
dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi
của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên với xã hội, giữa con
người với nhau và với chính bản thân mình.
Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của con người,
phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với người khác
và với chính bản thân mình.
Tóm lại, đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh
giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con người,
đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân
và cộng đồng tồn tại phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về
những vấn đề đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động
nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đờng, từ đó bảo đảm cho sự tờn tại, phát triển
của chính mình và cộng đồng. Trong sự vận động phát triển của xã hội loài người suy
cho cùng nhân tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa cái
“chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và hành động đến những lầm lạc
đáng tiếc. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã hội khơng thể thiếu vai trị của
đạo đức. Và khi xã hội lồi người có giai cấp, có áp bức, có bất cơng, chiến đấu cho
cái thiện đẩy lùi cái ác đã trở thành ước mơ, khát vọng, đã trở thành chất men, thành
động lực kích thích, cổ vũ nhân loại vượt lên. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời
cũng là động lực để phát triển xã hội.

Tieu luan



Vai trị của đạo đức cịn được biểu hiện thơng qua các chức năng cơ bản của đạo
đức: Chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục, chức năng nhận thức như đã
trình bày ở phần trên.
Ngày nay để xây dựng xã hội mới, chúng ta đang cần có những con người mới.
Những con người phát triển toàn diện cả đức và tài. Tuy nhiên, cần chú ý trong quan
hệ giữa đức và tài hôm nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln lưu ý, nhắc nhở chúng ta
phải coi trọng cả tài và đức nhưng phải lấy đức là gốc. Bởi lẽ tài năng chỉ có thể phát
triển lâu bền trên nền của đức và tài năng chỉ có thể hướng thiện trên gốc của đức.
1.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh
1.2.1. Giáo dục đạo đức là gì?
Ngày nay giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục lòng trung thành đối với
Đảng, hiếu với Dân, u q hương đất nước, có lịng vị tha, nhân ái, cần cù liêm khiết
và chính trực . Đó là đạo đức Xã hội Chủ Nghĩa là đạo đức của cá nhân, tập thể và chủ
nghĩa nhân đạo mang tính chân thực tích cực, khác với đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo
dục đạo đức học sinh gắn chặt với giáo dục tư tưởng- chính trị, giáo dục truyền thống
và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước XHCN, cung cấp
cho học sinh những phương thức ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội …. giúp cho
các em có khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả
năng chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống.
1.2.2. Vị trí giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh
nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có
những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá
nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính
mình.
Trong tất cả các mặt giáo dục, đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Giáo dục
đạo đức cịn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống
chứ khơng phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những địi hỏi

cấp bách.
Trong nhà trường, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi trọng,
nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục tồn diện sẽ được nâng lên vì
đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác. Để thực hiện những yêu
cầu về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường thì:
- Vai trị của tập thể sư phạm giữ một vị trí quan trọng có tính quyết định, trong đó
vai trị của Hiệu trưởng, người quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục
của nhà trường là quan trọng nhất.

Tieu luan


- Vai trò của cấu trúc và nội dung chương trình mơn giáo dục cơng dân cũng góp
phần khơng nhỏ đối với công tác này.
1.2.3. Mục tiêu giáo dục đạo đức
Chuyển hóa những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất
đạo đức, nhân cách cho học sinh, hình thành ở học sinh thái độ đúng đắn trong giao
tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen chấp hành các quy
định của pháp luật.
1.2.4. Chức năng giáo dục đạo đức
Làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng đạo đức
Hờ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, sống và làm việc theo pháp luật, sống
có kỷ cương, nề nếp, có văn hóa trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
với xã hội và giữa con người với nhau.
2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên và một số giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên
Tuổi thiếu niên về tên gọi và giới hạn độ tuổi vẫn chưa được xác lập một cách rõ
ràng, chuẩn xác. Trong đời sống xã hội, ta có thể gặp rất nhiều cụm từ mang tính tích
cực hoặc tiêu cực để gọi tên lứa tuổi này như: tuổi dậy thì, tuổi mới lớn, tuổi hồng, tuổi

ngọc, tuổi hoa niên, tuổi khủng hoảng, tuổi khó bảo, tuổi bất trị, tuổi lì lợm,... Những
tên gọi đa dạng đã nói lên tính chất phức tạp của lứa tuổi này.
Về thể chất, dấu hiệu cơ bản để nhận biết một trẻ em đã bước sang tuổi thiếu niên
là hiện tượng dậy thì. Về độ tuổi, đa số thiếu niên ở trong độ tuổi 11,12 tuổi đến 14,15
tuổi. Ở Việt Nam, lứa tuổi này gần trùng với thời điểm trẻ học ở bậc trung học cơ sở,
vì vậy tuổi thiếu niên còn được gọi là tuổi học sinh trung học cơ sở. Tuy nhiên, trên
thực tế nhiều trẻ bắt đầu dậy thì vào đầu cấp học, nhưng cũng có trẻ dậy thì sớm hơn
hoặc muộn hơn.
Về thời điểm kết thúc tuổi thiếu niên, các chỉ số thường gắn liền với sự trưởng
thành về mặt cơ thể và sinh dục, cịn về phương diện xã hội thì khơng rõ ràng. Ở các
nước phát triển, trẻ em dậy thì và có tính tự lập sớm nên thời điểm bắt đầu và chấm
dứt tuổi thiếu niên thường sớm hơn so với trẻ em ở nước ta.
Sự phát triển về mặt tâm sinh lý: sự phát triển về mặt sinh lý ở thiếu niên có đặc điểm
là tốc độ phát triển cơ thể rất nhanh, mạnh, nhưng không đồng đều về mọi mặt, đồng
thời xuất hiện hiện tượng dậy thì đánh dấu sự trưởng thành về hệ sinh dục. Ở lứa tuổi
thiếu niên diễn ra sự cải tổ rất mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lý, đây là giai
đoạn bứt phá lần thứ hai trong cuộc đời, sau giai đoạn sơ sinh. Là giai đoạn các em
đang phát triển mạnh về thể chất, tinh thần và tình cảm. Nhận thức của các em cũng
trưởng thành hơn nhưng chưa đủ lớn để nhận thức tốt mọi vấn đề diễn ra trong cuộc

Tieu luan


sống. Do đó các em dễ bị kích động, lơi kéo nếu không được định hướng, dẫn dắt kịp
thời. Bên cạnh đó các em cịn có nhu cầu giao tiếp rất lớn đặc biệt là sự giao tiếp với
bạn bè, từ đó hình thành lên các nhóm bạn cùng sở thích. Nếu khơng được giáo dục dễ
bị sai lệch.
Điều kiện sống và hoạt động: bước sang tuổi thiếu niên, điều kiện sống và hoạt
động của các em có sự thay đổi cơ bản so với tuổi nhi đồng. Vị trí của các em trong
gia đình, nhà trường và xã hội được nâng cao. Từ vị trí là “trẻ con” chuyển dần sang vị

trí mới “vừa trẻ con, vừa người lớn”. Đặc biệt trong lứa tuổi này tâm lý của các em rất
nhạy cảm, sự thay đổi hay những tác động từ gia đình và xã hội rất dễ ảnh hưởng và
hình thành xu hướng hành động của các em.
Tóm lại, sự phát triển nhảy vọt về thể chất, sự thay đổi điều kiện sống và hoạt
động (học tập, giao tiếp…), sự chín muồi về tâm lý ở giai đoạn chuyển tiếp là những
điều kiện giúp cho tâm lý của lứa tuổi thiếu niên hình thành và phát triển nhảy vọt về
chất, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân.
2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học
2.2.1. Giáo dục đạo đức cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu điểm là chính,
trên cơ sở đó mà khắc phục khuyết điểm
Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học là thích được khen, thích được thầy, bạn
bè, cha mẹ biết đến những mặt tốt, những ưu điểm, những thành tích của mình. Nếu
giáo dục đạo đức quá nhấn mạnh về khuyết điểm của học sinh, luôn nêu cái xấu,
những cái chưa tốt trong đạo đức của các em thì sẽ đễ đẩy các em vào tình trạng tiêu
cực, chán nản, thiếu tự tin, thiếu sức vươn lên. Đừng bao giờ để bụng những lỗi lầm
của học sinh, đừng vội nhìn thấy hiện tượng mà đánh giá học sinh của mình chưa tốt
mà hãy cố phát hiện những ưu điểm ẩn sâu trong mỗi em – đó là một trong những yếu
tố góp phần vào thành công trong việc giáo dục những học sinh cá biệt. Có thể chính
các em cũng khơng biết mình có những ưu điểm đó mà người thầy phải giúp học sinh
của mình nhận ra, khích lệ các em phát triển. Điều này sẽ giúp các em phát huy được
điểm mạnh của mình, góp phần vào xây dựng tập thể vững mạnh mà cịn hình thành ở
các em phẩm chất tự tin, kiên định trước tập thể, khẳng định được khả năng của mình.
Với học sinh cá biệt, thường là các em học rất yếu vì hổng kiến thức, vì ham chơi hơn
ham học, vì bị bạn bè xấu lơi kéo,…Trước khó khăn đó, phải chịu khó, kiên trì nhắc
nhở, dỗ dành các em, phân tích chí tình chí lí, đưa ra mọi tình huống nếu các em khơng
theo kịp bạn bè. Thậm chí đơi lúc phải “khích” các em, chạm vào lịng tự trọng vốn có
của tuổi mới lớn để các em thay đổi hành vi, thái độ theo chiều hướng tích cực. Vậy
địi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học


Tieu luan


sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng những gương tốt của học sinh trong trường
và những tấm gương người tốt việc tốt khác để giáo dục các em.
2.2.2. Tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời đề ra yêu cầu ngày càng cao
đối với học sinh
Muốn xây dựng nhân cách cho học sinh người thầy cần phải tôn trọng nhân cách
các em. Tôn trọng học sinh, thể hiện lòng tin đối với học sinh là một yếu tố tinh thần
có sức mạnh động viên học sinh khơng ngừng vươn lên rèn luyện hành vi đạo đức. Khi
các em mắc phải sai lầm không nên la mắng, nhục mạ trước mọi người đặc biệt trước
tập thể lớp làm như thế các em sẽ bị tổn thương, tự ti, mặc cảm và làm cho khoảng
cách giữa thầy và trò ngày một xa hơn và hiệu quả giáo dục sẽ không cao. Trong thực
tế đã xảy ra những câu chuyện rất đau lịng xuất phát từ thầy khơng tơn trọng nhân
cách của học sinh. Do đó mỗi thầy cơ giáo phải lấy đó làm bài học kinh nghiệm để
đừng bao giờ phải xảy ra những điều đáng tiếc như thế, vì ở lứa tuổi các em rất dễ bị
tổn thương nếu người thầy không khéo léo trong cư xử, trong lời nói. Khi học sinh tiến
bộ về đạo đức cần kịp thời có yêu cầu cao hơn để thúc đẩy các em vươn lên cao hơn
nữa. Trong công tác giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải yêu thương học sinh nhưng
phải nghiêm với chúng, nếu chỉ thương mà không nghiêm học sinh sẽ nhờn và ngược
lại thì các em sẽ sinh ra sợ sệt, rụt rè, không dám bộc lộ tâm tư tình cảm, do đó người
thầy khơng thể uốn nắn tư tưởng, xây dựng tình cảm đúng đắn cho học sinh được.
2.2.3. Phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh trung học và đặc điểm hoàn
cảnh cá nhân học sinh
Ngày nay, với quan điểm dạy học hướng vào người học, thì việc phải hiểu đối
tượng mà người thầy đang tác động vào học sinh, là điều vô cùng cần thiết, không chỉ
cho công việc dạy học, mà cho cả công tác giáo dục. Trong một vài năm gần đây, do
tác động của nhiều yếu tố, vấn đề quan hệ thầy- trị khơng được tn thủ. Cơng tác
giáo dục đạo đức cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT là quá
độ, phức tạp và nhiều mâu thuẩn để từ đó hình thức, biện pháp thích hợp. Cần phải chú

ý đến cá tính, giới tính của các em. Đối với từng em, học sinh nữ, học sinh nam cần có
những phương pháp giáo dục thích hợp, khơng nên đối xử sư phạm đờng loạt với mọi
học sinh. Muốn vậy người thầy phải sâu sát học sinh, nắm chắc từng em, hiểu rõ cá
tính để có những biện pháp giáo dục phù hợp. Những đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng ở
lứa tuổi học sinh trung học cho thấy, lứa tuổi này, đúng như nhận định của nhiều nhà
nghiên cứu trước đây, là lứa tuổi khó dạy, đặc biệt với học sinh nam. Nhưng cũng như
các khuyến cáo đã đưa ra, các em sẽ phát triển bình thường hay khơng trong tương lai
phụ thuộc vào chính sự quan tâm và cách giáo dục của người lớn. Vấn đề chỉ thực sự
được giải quyết kết hợp từ nhiều phía: nhà trường, gia đình, xã hội. Với tư cách là nơi
giáo dục (theo nghĩa rộng) chính thống cho các em- nhà trường, mà cụ thể là các thầy

Tieu luan


cô giáo cần biết về sự phát triển của học sinh, vận dụng chúng trong giao tiếp, trong
giải quyết các vấn đề liên quan đến các sản phẩm giáo dục của mình. Có như vậy,
quan hệ thầy – trị mới trở thành nền tảng vững chắc, để từ có những phương pháp
giáo dục phù hợp. Bên cạnh đó thì để công tác giáo dục đạo đức đạt kết quả cao thì
người thầy phải quan tâm đến hồn cảnh của mỗi em và từ đó sẽ kết hợp các lực lượng
giáo dục khác trong nhà trường tạo điều kiện để các em có thể yên tâm mà học tập và
rèn luyện tốt.
2.2.4. Người thầy cần phải có nhân cách mẫu mực
Kết quả công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường trung học phụ thuộc rất
lớn vào nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu, phương pháp
sư phạm dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp
của nhân cách người thầy với học sinh. Lúc sinh thời Bác Hờ đã có lời dạy chúng ta về
rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân: … Giáo viên phải chú ý cả tài, cả
đức, tài là văn hóa chun mơn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo
viên phải có đức…Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con.
Và C.Mác cũng đã có quan niệm: “Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo

dục”.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, người thầy bao giờ cũng được xã hội tơn vinh và
kính trọng. Nghề giáo được coi là một trong những nghề cao quý nhất trong những
nghề cao quý. Chủ tịch Hờ Chí Minh từng nói: “Nhiệm vụ thầy giáo rất vẻ vang, vì
nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục…Khơng có giáo dục thì nói gì đến kinh
tế, văn hóa”. Bác xem việc dạy học là một nghề đào luyện những thế hệ con người xây
dựng xã hội. Tuy sự cống hiến của thầy giáo là rất thầm lặng nhưng nếu trở thành một
người thầy giáo tốt là điều vơ cùng hữu ích và rất mực vẻ vang. Vì thế, Người dạy:
Người thầy giáo tốt là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng trên báo, không
được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vơ
danh. Ngồi ra, Lãnh tụ Hờ Chí Minh cịn chỉ rõ, người làm thầy giáo phải luôn là tấm
gương không ngừng học tập để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ; phải thường
xun tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để làm tấm gương sáng cho học trò noi theo, để
đáp ứng yêu cầu của thời đại mới trên mọi phương diện.
2.2.5. Giáo dục theo nguyên tắc tập thể
Nguyên tắc này thể hiện ở cả 3 nội dung: Dìu dắt học sinh trong tập thể để giáo
dục; giáo dục bằng sức mạnh tập thể; giáo dục học sinh tinh thần vì tập thể. Trong một
tập thể lớp, tập thể chi đồn có tổ chức tốt, có sự đồn kết nhất trí thì sức mạnh của dư
luận tích cực sẽ góp phần rất lớn vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Những phẩm
chất tốt đẹp như tinh thần tập thể, tính tổ chức kỷ luật, tình đờng chí và tình bạn, tinh
thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, tính khiêm tốn học hỏi mọi người bao giờ cũng do

Tieu luan


giáo dục tập thể hình thành. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi nhà trường phải
tổ chức tốt các tập thể lớp, tập thể chi đoàn…Nhà trường phải cùng với đoàn làm tốt
phong trào xây dựng các chi đồn mạnh trong trường học. Bên cạnh đó cần phát huy
vai trò tự quản của tập thể và tự rèn luyện của học sinh, biến quá trình giáo dục thành
quá trình tự giáo dục để các em tự thể hiện, tự đánh giá và điều chỉnh trong rèn luyện

đạo đức. GVCN phải chọn ra được ban cán sự có năng lực, uy tín, có sức thuyết phục,
có năng lực tổ chức, điều khiển hoạt động tập thể. Vận động học sinh thực hiện tốt tinh
thần phê và tự phê bình để giúp bạn cùng tiến bộ. Phát động học sinh tồn trường tự
giác bỏ phiếu kín phát giác những học sinh có hành vi vi phạm đạo đức nhưng chưa
được phát hiện. Thực hiện đánh giá xếp loại theo đúng các tiêu chuẩn đã quy định
công khai, công bằng trước tập thể học sinh hàng tuần, hàng tháng, học kỳ và năm học.
2.2.6. Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự giác
của học sinh
Phải giáo dục đạo đức bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác của học
sinh, chứ khơng phải bằng sự cưỡng ép, mệnh lệnh, dọa nạt, biến học sinh thành
những đứa trẻ thụ động, sợ sệt, rụt rè. Có một số giáo viên chủ nhiệm lớp trong giờ
sinh hoạt lớp, khơng biết nói gì với học sinh, khơng biết làm gì cho hết giờ…, ngoại
trừ việc răn đe, xử phạt những học sinh vi phạm nội quy”. Chính những giáo viên này
đã tự tạo ra khoảng cách vơ hình với học sinh của mình. Vậy thì làm sao tìm ra được
biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng giáo dục? Nếu không quan tâm đến các em,
không chia sẻ tâm tư các em thì bản thân người giáo viên sẽ dẫn đến sự dửng dưng, vô
cảm – biểu hiện thái độ này không được tồn tại trong môi trường sư phạm thì chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh mới được nâng cao. Nguyên tắc này đòi hỏi
người thầy phải kiên trì, nhẫn nại, phải có tình thương đối với học sinh một cách sâu
sắc, không thể làm qua loa làm cho xong việc. Mọi đòi hỏi đối với học sinh phải giải
thích cặn kẽ, tỉ mỉ cho các em hiểu, để các em tự giác thực hiện. Khi học sinh có sai
phạm thầy khơng nên chỉ biết dùng uy quyền để doạ nạt, quát mắng các em mà phải
biết cảm thông, chia sẻ, vừa là thầy nhưng phải vừa là người bạn để cùng các em vượt
qua lúc khó khăn, chán nản. Người thầy phải dùng tình u thương và trách nhiệm của
mình để cảm hóa và giúp các em thay đổi theo hướng tích cực. Khi các em đã nhận ra
được những sai lầm của mình và được thầy thường xuyên quan tâm, nhắc nhở chắc
chắn các em sẽ tự giác sửa đổi để không phụ tấm lòng của thầy. Do vậy người thầy
muốn giáo dục học trị của mình nên người thì khơng thể thiếu được chữ “tâm”.

Tieu luan



KẾT LUẬN
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng trong mục tiêu giáo
dục nhân cách con người phát triển tồn diện.Vì vậy cơng tác giáo dục trước tiên phải
đặt chăm lo bồi dưỡng đạo đức cho học sinh, coi đó là cái căn bản, cái gốc cho sự phát
triển nhân cách. Bàn về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bây giờ phải học;
học để yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức”. Nhưng
thực tế việc giáo dục đạo đức trong nhà trường thường mới chú trọng tới nền nếp kỉ
cương, những bài học giáo huấn, ít chú ý đến hành vi ứng xử thực tế, chưa đáp ứng
được yêu cầu đào tạo con người mới phù hợp với sựp hát triển của xã hội trong giai
đoạn hiện nay. Giáo dục đạo đức trong trường phổ thơng là một bộ phận của của q
trình giáo dục tồn diện,có quan hệ biện chứng với các q trình giáo dục khác, như
giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng nghiệp nhằm
hình thành cho học sinh niềm tin, thói quen, hành vi, chuẩn mực đạo đức.Giáo dục đạo
đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người có ý thức, tình cảm, động cơ
và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu được các quan điểm, nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể hiện các quan điểm, nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống của cá nhân. Dựa trên các quan điểm,
nguyên tắc ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán
những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu xã hội. Giáo dục đạo đức cho học
sinh bao gồm tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên
trong, là q trình được thực hiện có tính liên tục về thời gian, không gian, do nhiều
lực lượng xã hội tham gia, trong đó nhà trường đóng vai trị then chốt.
Là một sinh viên đại học sư phạm, một giáo viên tương lai của nước nhà, việc
hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh là điều hết sức cần thiết,
đồng thời không ngừng rèn luyện, trau dồi thêm tri thức cho bản thân, cập nhật tình
hình giáo dục hằng ngày để đưa ra những phương hướng, biện pháp cụ thể nhất nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho thế hệ học sinh mai sau.


Tieu luan


Tieu luan



×