Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tội mua dâm người chưa thành niên theo Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 92 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI MUA

10

DÂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1.

Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua dâm
người chưa thành niên

10

1.1.1.

Thời kỳ áp dụng luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985



10

1.1.2.

Thời kỳ áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi
ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999

12

1.1.3.

Thời kỳ áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999

15

1.2.

Một số khái niệm cơ bản liên quan đến tội mua dâm người
chưa thành niên

17

1.2.1.

Khái niệm "mua dâm"

17

1.2.2.


Khái niệm người chưa thành niên

20

1.3.

Tội mua dâm người chưa thành niên theo quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới

23

1.3.1.

Bộ luật Hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa

24

1.3.2.

Bộ luật Hình sự Liên bang Nga

25

1.3.3.

Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển

26



Chương 2: TỘI MUA DÂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO

27

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 1999

2.1.

Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua dâm người
chưa thành niên

27

2.1.1.

Khái niệm tội mua dâm người chưa thành niên

27

2.1.2.

Dấu hiệu pháp lý của tội mua dâm người chưa thành niên

29

2.1.2.1.

Khách thể của tội mua dâm người chưa thành niên


29

2.1.2.2.

Mặt khách quan của tội mua dâm người chưa thành niên

32

2.1.2.3.

Chủ thể của tội mua dâm người chưa thành niên

41

2.1.2.4.

Mặt chủ quan của tội mua dâm người chưa thành niên

45

2.2.

Đường lối xử lý đối với tội mua dâm người chưa thành niên

47

2.2.1.

Khung hình phạt cơ bản (khoản 1 Điều 256 Bộ luật Hình

sự 1999)

48

2.2.2.

Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều 256 Bộ
luật Hình sự 1999)

48

2.2.3.

Khung hình phạt tăng nặng thứ hai (khoản 3 Điều 256 Bộ
luật Hình sự năm 1999)

54

2.2.4.

Hình phạt bổ sung (khoản 4 Điều 256 Bộ luật Hình sự
năm 1999)

56

Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN

57

THIỆN TỘI MUA DÂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

TRONG LUẬT HÌNH SỰ

3.1.

Thực tiễn xét xử tội mua dâm người chưa thành niên

57

3.1.1

Thực tiễn định tội danh

65

3.1.2

Thực tiễn quyết định hình phạt

72

3.2.

Một số giải pháp hồn thiện tội mua dâm người chưa thành niên

74


3.2.1.

Quy định tội mua dâm người chưa thành niên là tội phạm

trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người

74

3.2.2.

Quy định khoa học, thống nhất khái niệm "mua dâm" trong
hệ thống pháp luật hình sự

76

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

3.1


Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm
người chưa thành niên từ năm 2001 - 2008

58

3.2

Độ tuổi của các bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm
người chưa thành niên từ năm 2001 - 2008

59

3.3

Giới tính của bị cáo bị đưa ra xét xử từ năm 2001 - 2008

60

3.4

Hình phạt áp dụng với người phạm tội mua dâm người

61

bảng

chưa thành niên từ năm 2001 - 2008
3.5


Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm người
chưa thành niên so sánh với nhóm tội xâm phạm tình dục
trẻ em từ năm 2001 - 2008

62


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm

58

biểu đồ
3.1

người chưa thành niên từ năm 2001 - 2008
3.2

Độ tuổi của các bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm

59

người chưa thành niên từ năm 2001 - 2008

3.3

Giới tính của bị cáo bị đưa ra xét xử từ năm 2001 - 2008

60

3.4

Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội mua dâm người

61

chưa thành niên từ năm 2001 - 2008
3.5

Số vụ phạm tội bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm người

62

chưa thành niên so sánh với nhóm tội xâm phạm tình dục
trẻ em từ năm 2001 - 2008
3.6

Số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua dâm người chưa
thành niên so sánh với nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em
từ năm 2001 - 2008

63



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
"Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa con người
được bảo vệ và phát triển tồn diện về thể chất và trí tuệ. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành những chính sách về kinh tế, văn hóa, giáo dục… nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của con người trong khn khổ quy định
của pháp luật. Pháp luật hình sự - bằng việc quy định các chế định về tội
phạm và hình phạt, là một cơng cụ hữu hiệu để đấu tranh chống và phịng
ngừa tội phạm, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên
nói riêng.
Ngay từ Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên đánh dấu sự ra
đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho đến Hiến pháp năm 1992
hiện hành, quyền trẻ em nói riêng hay quyền của người chưa thành niên nói
chung tồn tại như một chế định hồn chỉnh. Cụ thể hóa Hiến pháp, luật hình
sự đã có nhiều quy định nhằm bảo vệ sự phát triển lành mạnh về thể chất và
tinh thần của người chưa thành niên. Trong đó, quy định tội mua dâm người
chưa thành niên tại Điều 202a trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và Điều 256
Bộ luật Hình sự năm 1999 đã thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta
trong việc bảo vệ người chưa thành niên.
Mua dâm người chưa thành niên là một hiện tượng xã hội tiêu cực,
xuất hiện sớm trong lịch sử xã hội loài người. Vấn đề mua dâm người chưa
thành niên chỉ đặt ra đồng thời với việc nghiên cứu và làm rõ các quy định
của luật hình sự về người thành niên, cũng là cơ sở để xác định thế nào là
người chưa thành niên và hành vi mua dâm người chưa thành niên theo luật
hình sự Việt Nam. Mặt khác, mua dâm người chưa thành niên không phải là

1



một hiện tượng riêng lẻ chỉ tồn tại ở quốc gia này hay quốc gia khác, hoặc chỉ
tồn tại ở chế độ xã hội này hay chế độ xã hội khác. Đây là một hiện tượng phổ
biến của nhiều quốc gia, nhiều chế độ xã hội trên thế giới. Bên cạnh đó, mua
dâm người chưa thành niên là một trong những hiện tượng trái với quan điểm
truyền thống, đạo đức của con người Việt Nam. Hiện tượng này đã và đang
làm xói mịn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến
đời sống văn hóa và trật tự công cộng. Nghiêm trọng hơn nữa, mua dâm
người chưa thành niên còn trực tiếp xâm hại tinh thần, sức khỏe sinh sản
người chưa thành niên, chứa đựng nguy cơ làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS,
gây dư luận tiêu cực trong đời sống xã hội. Trong thời gian gần đây, đối tượng
mua dâm ngày càng đa dạng, có thể là người Việt Nam hoặc người nước
ngoài. Các đối tượng này bị phát hiện và xử lý ngày càng nhiều. Điều đáng
quan tâm là cùng với sự gia tăng của hiện tượng mua dâm người chưa thành
niên đã có hàng triệu trẻ em ở Châu Á trong đó có Việt Nam bị bắt cóc, bị
bán, bị giam nhốt trong các nhà chứa và buộc phải trở thành gái bán dâm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất của nhân dân ngày
càng được nâng cao. Điều đó tác động không nhỏ đến nhu cầu vật chất, tinh
thần của giới trẻ nói chung hay của người chưa thành niên nói riêng. Sự đầy
đủ về vật chất dẫn tới sự phát triển sớm về tâm sinh lý của người chưa thành
niên, xuất hiện những nhu cầu và địi hỏi đơi khi trái với quy luật tự nhiên,
sinh học của con người, vượt ra khỏi chuẩn mực truyền thống đạo đức dân
tộc. Sự tác động mạnh mẽ của nhu cầu vật chất với lối sống buông thả, hưởng
thụ ảnh hưởng lớn đến việc người chưa thành niên vì lợi ích vật chất nào đó
tự nguyện bán dâm hoặc bị lợi dụng tình dục. Mặt trái của sự phát triển của
nền kinh tế thị trường với nhu cầu vật chất và ảnh hưởng của lối sống phương
Tây cũng làm tỉ lệ ly hơn gia tăng, trật tự, an tồn xã hội ngày càng phức tạp.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, ảnh hưởng của giao

2


lưu văn hóa cũng làm thay đổi nhận thức xã hội về đời sống tình dục. Một số
người coi hoạt động tình dục là hàng hóa, có thể mua bán như các hàng hóa
khác, nhất là hoạt động tình dục với người chưa thành niên - đối tượng còn
non nớt cả về thể chất và tinh thần. Bên cạnh đó, một bộ phận người chưa
thành niên hình thành những quan điểm lệch lạc, coi thường các chuẩn mực
đạo đức truyền thống dẫn tới việc dễ dàng chấp nhận bán dâm. Đây cũng
chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để quy định tội mua dâm người chưa thành
niên trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận
và thực tiễn về tội mua dâm người chưa thành niên trong quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 hiện hành, đánh giá thực tiễn xét xử và áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự về tội mua dâm người chưa thành niên để đưa ra
kiến giải lập pháp góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự
khơng những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi
quyết định chọn đề tài "Tội mua dâm người chưa thành niên theo Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999 - những vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội mua dâm người chưa thành niên là một tội cụ thể trong nhóm tội
xâm phạm an tồn cơng cộng và trật tự cơng cộng. Tội phạm này cũng đồng thời
xâm phạm sự phát triển lành mạnh của người chưa thành niên cả về mặt thể chất
và tinh thần. Vì vậy, nó có mối quan hệ hữu cơ với các tội trong nhóm tội xâm
phạm tình dục, có quan hệ mật thiết với các tệ nạn trong xã hội như ma túy, cờ
bạc, rượu chè... Đây là một trong những nguyên nhân của tệ nạn mại dâm.

Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu đối với loại tội này còn nhiều hạn chế:
Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam chưa có một cơng trình
khoa học nào nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống tội mua dâm người

3


chưa thành niên dưới góc độ là một đề tài riêng biệt, tách rời tội phạm này với
nhóm tội phạm mại dâm hay các tội phạm trong nhóm tội phạm xâm phạm
tình dục. Một số đề tài đã tiếp cận tội mua dâm người chưa thành niên ở
những mức độ khác nhau. Cụ thể:
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 05/NQ-CP ngày 29/01/1993
về ngăn ngừa và chống tệ nạn mại dâm đã có khá nhiều các nhà khoa học cùng
nghiên cứu. Trước hết, phải kể đến cơng trình nghiên cứu của PTS Nguyễn
Xuân Yêm: Khái quát về bản chất xã hội của tệ nạn mãi dâm, lịch sử phát
triển pháp luật của một số nước trên thế giới về chống mãi dâm, Tạp chí
Kiểm sát, số 3, 1993. Tiếp theo đó là cơng trình nghiên cứu: Các tội tham
nhũng, ma túy và các tội phạm về tình dục đối với người chưa thành niên, của
Bộ Tư pháp, 1997; Tư pháp với người chưa thành niên và quyền trẻ em, của
Vũ Ngọc Bình, 1997. Ngồi ra, trong Kỷ yếu hội thảo của Hội liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam năm 1997 cũng có bài: Nạn lạm dụng tình dục trẻ em và hiếp
dâm trẻ em; Viện Khoa học pháp lý trong thơng tin chun đề năm 1998 có
bài: Pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế bảo vệ trẻ em trước tệ nạn lạm
dụng tình dục; ấn phẩm Tịa án và quyền trẻ em - Trường Cán bộ tòa án,
1998; Tìm giải pháp ngăn chặn tệ nạn mua, bán dâm trẻ em của tác giả
Hồng Bá Thịnh, Nxb Chính trị quốc gia, 1998; Vai trò của Tòa án nhân dân
trong việc đấu tranh phịng chống các tội phạm về tình dục - Cơng trình khoa
học cấp Bộ của Tịa án nhân dân tối cao, 2001. Luận văn thạc sĩ Luật học của
Đỗ An Bình - Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Bảo vệ trẻ em và người
chưa thành niên bằng pháp luật hình sự Việt Nam, 2002. Luận văn thạc sĩ

Luật học của Nguyễn Văn Hương: Luật hình sự Việt Nam với việc bảo vệ trẻ
em. Bài viết của Phạm Mạnh Hùng trong Tạp chí Tịa án nhân dân: Hồn
thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ
em... Theo đó, những cơng trình này chủ yếu mới tập trung làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến tệ nạn mãi dâm hay nhóm tội xâm
phạm tình dục đối với người chưa thành niên - bao gồm đối tượng là trẻ em.

4


Như vậy, đã có nhiều cơng trình đề cập về tội mua dâm người chưa
thành niên dưới những góc độ khác nhau. Các cơng trình kể trên đã phần nào
làm sáng tỏ về mặt lý luận của tội phạm này theo quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, đầy đủ và tồn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua dâm
người chưa thành niên quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam; nghiên cứu
tổng thể lịch sử lập pháp về sự hình thành và phát triển của tội phạm này qua
các giai đoạn từ năm 1945 cho đến nay; phân tích đánh giá thực tiễn xét xử,
cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối
với tội phạm này. Bên cạnh đó, một số nội dung xung quanh tội mua dâm
người chưa thành niên cần được nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc
hơn nữa vì rõ ràng vấn đề này trong giai đoạn hiện nay có tính thời sự và ảnh
hưởng nghiêm trọng đến trật tự an tồn cơng cộng cũng như truyền thống, đạo
đức của dân tộc ta. Từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị và giải pháp hoàn
thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả thực tiễn xét xử tội mua
dâm người chưa thành niên góp phần đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách cụ thể, khoa học và có
hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản liên quan đến tội mua dâm

người chưa thành niên theo quy định của luật hình sự Việt Nam và việc xét xử
tội phạm này trong thực tiễn. Từ đó, chỉ ra những vấn đề cịn hạn chế và đề
xuất các kiến giải lập pháp cũng như các giải pháp để hoàn thiện các quy định
về tội mua dâm người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu như đã trình bày ở trên, tác giả luận
văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu như sau:

5


Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển về mặt lập pháp
của tội mua dâm người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Việt Nam, phân
tích các khái niệm, các dấu hiệu pháp lý cơ bản trong cấu thành tội phạm của tội
phạm này và đường lối xử lý đối với người phạm tội mua dâm người chưa thành
niên qua các giai đoạn từ 1945 cho đến nay. Từ đó, làm sáng tỏ bản chất pháp
lý và những nội dung cơ bản của tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực tiễn việc xét xử
và áp dụng các quy định liên quan đến tội mua dâm người chưa thành niên: Định
tội danh, quyết định hình phạt... đồng thời phân tích những vướng mắc xung
quanh việc quy định các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm trên phương diện
lý luận với thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất, luận chứng sự cần thiết phải bổ sung
và đưa ra các giải pháp hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội
phạm này nhằm nâng cao hiệu quả chống và phịng ngừa các loại tội phạm nói
chung và tội mua dâm người chưa thành niên nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về tội mua dâm người chưa thành niên trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Cụ thể
là: Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua dâm người chưa thành niên
qua các giai đoạn từ năm 1945 cho đến nay; so sánh quy định tội mua dâm người

chưa thành niên trong luật hình sự Việt Nam với quy định về tội này của một số
nước trên thế giới; các yếu tố cơ bản trong cấu thành tội phạm của tội mua dâm
người chưa thành niên. Đồng thời, thông qua thực tiễn xét xử chỉ ra những vấn
đề cần khắc phục và đề xuất các giải pháp hoàn thiện về mặt lý luận và kỹ thuật
lập pháp của pháp luật hình sự về tội mua dâm người chưa thành niên.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua
dâm người chưa thành niên trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 dưới
góc độ của khoa học luật hình sự. Cụ thể là: Nội dung, điều kiện áp dụng các

6


quy định của pháp luật hình sự, thực tiễn truy tố và xét xử về tội mua dâm người
chưa thành niên theo pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận khoa học của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Nhà nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tội phạm nói chung cũng như tội mua dâm người
chưa thành niên nói riêng theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999. Đồng thời phương pháp luận được sử dụng trong luận văn cũng dựa trên
cơ sở những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà
nước và pháp luật, lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật,
tâm lý học, tội phạm học, luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng
khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng
trên báo, tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngồi.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là kết hợp lý luận và thực tiễn, dùng lý
luận để phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
mua dâm người chưa thành niên. Trên cơ sở lý luận kết hợp với việc phân tích
những vấn đề thực tiễn nảy sinh từ việc áp dụng các quy định của luật hình

sự, sử dụng những số liệu cụ thể để chứng minh những vấn đề về mặt lý luận.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm
sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu
bao gồm: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa trên các
văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất
chỉ đạo qua thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tịa án nhân
dân tối cao, các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan
đến người chưa thành niên, tệ nạn xã hội… cụ thể là các quy định, hướng dẫn
có liên quan đến tội mua dâm người chưa thành niên như định tội danh, quyết
định hình phạt. Một số tài liệu là các bản án trong thực tiễn xét xử, những

7


thông tin trên mạng internet được sử dụng để phân tích, tổng hợp và luận
chứng khoa học các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. Từ đó
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội mua dâm người chưa
thành niên nói riêng và hồn thiện pháp luật hình sự nói chung.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là một trong những luận văn thạc sĩ nghiên cứu một cách cụ thể,
khoa học, đồng bộ và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến tội mua dâm người chưa thành niên theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về những vấn đề sau đây:
1) Phân tích một cách cụ thể, có hệ thống những vấn đề lý luận về tội
mua dâm người chưa thành niên như: Hệ thống hóa lịch sử lập pháp hình sự
của tội mua dâm người chưa thành niên trong luật hình sự Việt Nam qua các
giai đoạn từ những năm 1945 cho đến nay. Từ đó, rút ra những nhận xét, đánh
giá về quan điểm, chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta trong việc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm này. So sánh quy định của pháp luật

hình sự một số nước trên thế giới về tội mua dâm người chưa thành niên.
2) Phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản trong cấu thành tội phạm
của tội mua dâm người chưa thành niên và đường lối xử lý đối với người
phạm tội này.
3) Phân tích những tồn tại xung quanh việc quy định trên phương diện
lý luận về tội mua dâm người chưa thành niên thông qua việc nghiên cứu các
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn xét xử. Từ đó kiến nghị một số giải pháp
nhằm hồn thiện quy định của pháp luật hình sự nói chung và tội mua dâm
người chưa thành niên nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đây là một trong những đề tài nghiên cứu cụ thể, thống nhất và đồng
bộ, đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực

8


tiễn về tội mua dâm người chưa thành niên theo luật hình sự Việt Nam ở cấp
độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu
trên. Ngồi ra, luận văn đã góp phần vào việc xác định đúng đắn những vấn
đề lý luận về tội mua dâm người chưa thành niên trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn xét xử, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự về tội mua dâm người chưa thành niên dưới góc độ lập pháp. Bên
cạnh đó, luận văn cịn có thể làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà
khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học cũng
như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tội mua dâm người chưa

thành niên.
Chương 2: Tội mua dâm người chưa thành niên theo quy định của Bộ
luật Hình sự Việt Nam năm 1999.
Chương 3: Thực tiễn xét xử và phương hướng hoàn thiện tội mua dâm
người chưa thành niên trong luật hình sự.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI MUA DÂM
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA
DÂM NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

Sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật hình sự của nước ta
gắn liền với các giai đoạn của cách mạng dân tộc trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ đến khi đất nước thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bước vào thời kỳ đổi mới.
1.1.1. Thời kỳ áp dụng luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thắng lợi, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tun ngơn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa. Đây là thời kỳ chính quyền cách mạng cịn
non trẻ, phải đương đầu với mn vàn thử thách khó khăn: Vừa phải khôi
phục và xây dựng lại nền kinh tế - xã hội bị chiến tranh tàn phá, vừa phải xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, phải đối phó với các thế lực thù địch
ở trong nước và nước ngồi... Vì vậy, chính quyền mới chưa thể xây dựng
được hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Tuy nhiên,

vấn đề lập pháp và thực thi pháp luật luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 47/SL
quy định tạm thời sử dụng luật lệ cũ hiện hành lúc đó tại Việt Nam. Theo nội
dung Sắc lệnh, Tòa án xét xử theo luật hình sự cũ mà thực dân phong kiến đã
đề ra với điều kiện không trái nguyên tắc độc lập của Nhà nước và chính thể
Dân chủ cộng hịa. Tuy vậy, do hồn cảnh đất nước lúc bấy giờ, chính quyền
cách mạng tập trung chủ yếu vào việc xét xử những tội phạm phản cách

10


mạng, chống phá chính quyền tại các Tịa án qn sự và một số tội đặc biệt
nguy hiểm khác như: tội đầu cơ, tội tích trữ... nhằm củng cố và bảo vệ Nhà
nước trong những ngày mới thành lập. Như vậy, thời kỳ sau những năm 1950,
Nhà nước ta chưa ban hành văn bản pháp luật quy định về tội mua dâm người
chưa thành niên nói riêng hay các tội xâm phạm đến trật tự, an toàn cộng cộng
cũng như tội phạm về tình dục nói chung.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trên cơ sở những kinh nghiệm
của thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các báo cáo tổng
kết, các chỉ thị hướng dẫn về đường lối xử lý một số tội phạm nguy hiểm và
phổ biến, trong đó có nhóm tội phạm xâm phạm tình dục, đặc biệt là xâm
phạm tình dục trẻ em. Trước hết phải kể đến Sắc lệnh số 392/HS2 ngày
11/05/1967 đã đề cập bốn hình thức phạm tội là: Hiếp dâm (trong đó có hiếp
dâm trẻ em); cưỡng dâm (trong đó có cưỡng dâm trẻ em); giao cấu với người
dưới 16 tuổi; dâm ơ (trong đó có dâm ô với trẻ em). Tuy vậy, các tội phạm
liên quan đến trật tự, an tồn cơng cộng nói chung chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể.
Ở miền Nam, Bộ hình luật của Việt Nam Cộng hịa ban hành ngày
20/12/1972 của chính quyền Sài Gịn có nhiều điều khoản quy định về các tội
phạm đối với trẻ em, trong đó có các tội xâm phạm về tình dục. Bộ hình luật

không quy định mua dâm người chưa thành niên là tội phạm, tuy nhiên với
những đối tượng kích động, giúp đỡ trẻ em thực hiện những hành vi dâm
đãng, trụy lạc cũng bị xử lý: "Sẽ bị phạt giam từ hai năm đến năm năm và
phạt vạ từ 10 ngàn đồng đến 500 ngàn đồng người nào xâm phạm mỹ tục
bằng cách khiêu động, giúp đỡ làm dễ dàng việc dâm đãng hay sự trụy lạc
của thanh niên nam nữ dưới 16 tuổi..." (Điều 360).
Sau khi được giải phóng, ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm
thời cộng hịa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật 03/SL quy định về
tội phạm và hình phạt trong đó ngồi các quy định liên quan đến các hành vi

11


phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em như hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm
ô... Trong Thông tư số 03/BTP hướng dẫn thi hành Sắc luật này đã đề cập đến
hành vi thông gian với gái vị thành niên, hành vi này khá tương đồng với
hành vi mua dâm người chưa thành niên được quy định trong Bộ luật hình sự
sau này.
Như vậy, có thể khẳng định, trong thời kỳ áp dụng luật hình sự giai
đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự quy định về các tội xâm
phạm tình dục bên cạnh các tội phạm khác. Tuy nhiên, do hồn cảnh đất nước
nên các văn bản hướng dẫn cịn chưa thống nhất, các tội xâm phạm tình dục,
các tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng nói chung cũng như
tội mua dâm người chưa thành niên nói riêng chưa được đề cập cụ thể. Hành
vi mua dâm người chưa thành niên không bị coi là tội phạm.
1.1.2. Thời kỳ áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trƣớc khi
ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Trước tình hình đổi mới của đất nước, với những biến chuyển về mặt
kinh tế - xã hội, để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội, tất yếu

đòi hỏi Nhà nước phải ban hành hệ thống pháp luật mới trong đó có pháp luật
hình sự.
Để đáp ứng yêu cầu bức thiết đó, sau một thời gian dài nghiên cứu
soạn thảo, Bộ luật Hình sự được Quốc hội nước ta thơng qua ngày 27/06/1985
và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là đạo luật được pháp điển hóa hồn
chỉnh bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm
và hình phạt nói chung cũng như về các tội phạm cụ thể và các khung hình
phạt cụ thể đối với tội phạm đó. Sự ra đời của Bộ luật Hình sự đầu tiên của
Nhà nước ta đã đánh dấu sự phát triển của cơng tác lập pháp trong lĩnh vực
hình sự. Trong đó, chương XIII quy định về các tội xâm phạm an tồn, trật tự
cơng cộng và trật tự quản lý hành chính với 3 mục tương ứng là mục A: Các

12


tội xâm phạm an tồn cơng cộng, mục B: Các tội xâm phạm trật tự công cộng
và mục C: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính bên cạnh việc quy
định các tội phạm xâm phạm tình dục tại chương II (tội hiếp dâm, tội cưỡng
dâm, tội giao cấu với người dưới 16 tuổi). Hành vi mua dâm người chưa
thành niên chưa bị coi là tội phạm.
Bộ luật Hình sự 1985 ra đời khi nước ta đang chuẩn bị tiến hành cơng
cuộc đổi mới tồn diện về mọi mặt của đời sống xã hội đã góp phần thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển. Cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới, các vấn
đề xã hội và nhu cầu của cuộc sống ngày càng phức tạp. Vì vậy, để phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các
năm 1989, 1991, 1992 và năm 1997.
Qua ba lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 các điều
luật mới đã phát huy tác dụng đối với cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm. Tuy nhiên, tình trạng xâm phạm tình dục trẻ em nói chung có chiều

hướng gia tăng, gây những tác hại nghiêm trọng không chỉ đến sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của trẻ em, mà còn ảnh hưởng đến truyền thống, văn hóa
dân tộc cũng như trật tự, an tồn cơng cộng. Bên cạnh đó, với hồn cảnh mới
của đất nước, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị
trường, cải thiện đời sống nhân dân. Trong giai đoạn này, tệ nạn xã hội có xu
hướng gia tăng, đặc biệt là tệ nạn mãi dâm. Đối tượng bán dâm không chỉ giới
hạn trong phạm vi độ tuổi - đã thành niên, mà còn mở rộng ở những đối tượng
chưa thành niên, thậm chí là trẻ em. Vì vậy, để thực hiện những cam kết của
Nhà nước ta đối với cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền trẻ em cũng
như đáp ứng đòi hỏi của dư luận xã hội về việc xử phạt nghiêm minh những
hành vi xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên, tại kỳ họp thứ IX
ngày 10/05/1997, Quốc hội khóa IX nước ta đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ
sung lần thứ tư đối với Bộ luật Hình sự năm 1985, trong đó quy định thêm tội
danh mới tại Điều 202a là tội mua dâm người chưa thành niên bên cạnh Điều

13


202b - tội dâm ô với trẻ em, nhằm trừng trị thích đáng những người thực hiện
hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
Đây là những hành vi có xu hướng gia tăng trong thời kỳ đổi mới, bị dư luận
lên án gay gắt và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự, sự
phát triển lành mạnh của người chưa thành niên, trong đó có trẻ em.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự 1985 ngày 10/05/1997
đã quy định tại Điều 202a về tội mua dâm người chưa thành niên như sau:
Điều 202a. Tội mua dâm người chưa thành niên
1- Người nào mua dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
năm năm đến mười năm:

a) Phạm tội nhiều lần;
b) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười năm đến mười lăm năm:
a) Mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Để kịp thời hướng dẫn áp dụng tội phạm mới được bổ sung trong Bộ
luật hình sự, tại Thơng tư liên tịch số 01/1998/TTLT ngày 02/01/1998 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là
Bộ Công an) "Về sửa đổi và bổ sung một số quy định của Bộ luật Hình sự
năm 1985" đã đưa ra định nghĩa hành vi mua dâm người chưa thành niên: "Là
hành vi của người phạm tội dùng vật chất mua chuộc người chưa thành niên
để người chưa thành niên đồng ý cho giao cấu".

14


Như vậy, qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật hình sự năm 1985 đã
tương đối hồn thiện và góp phần khơng nhỏ vào cơng tác đấu tranh chống và
phòng ngừa tội mua dâm người chưa thành niên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên cũng như đảm bảo trật tự, an tồn cơng cộng.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải
thiện, tình hình đất nước có nhiều thay đổi. Bộ luật hình sự năm 1985 dù được
sửa đổi bốn lần nhưng vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, hạn chế trong quy
định về tội phạm nói chung cũng như tội mua dâm người chưa thành niên nói
riêng. Có thể kể đến một số điểm còn hạn chế trong quy định về tội mua dâm
người chưa thành niên như:
- Chưa quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội mua dâm

người chưa thành niên.
- Một số tình tiết tăng nặng cịn chưa đầy đủ và chi tiết. Ví dụ: tình tiết
"gây hậu quả nghiêm trọng" (điểm b khoản 2) hoặc tình tiết "gây hậu quả rất
nghiêm trọng" (điểm c khoản 3)… quy định như vậy là rất chung chung,
không có cơ sở rõ ràng để xác định thế nào, bao nhiêu thì được coi là nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, gây khó khăn trong q trình định khung hình phạt.
Hơn nữa một số tình tiết nguy hiểm khác cịn chưa được ghi nhận tại các
khung tăng nặng dẫn tới bỏ lọt tội phạm như tình tiết biết mình bị nhiễm HIV
mà vẫn phạm tội…
- Việc sắp xếp tình tiết "mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi" tại điểm c khoản 3 là chưa hợp lý.
1.1.3. Thời kỳ áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999
Qua gần 15 năm thi hành, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã giữ một vai
trị quan trọng, đặc biệt tích cực trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm của nước ta. Tuy nhiên, do được xây dựng và ban hành trong bối cảnh
tình hình kinh tế, xã hội trong nước cũng như quốc tế có nhiều điểm khác biệt

15


cơ bản so với giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước sau này. Vì vậy, dù đã qua bốn lần sửa đổi, bổ
sung song nhiều quy định của Bộ luật Hình sự khơng cịn phù hợp cũng như
khơng đáp ứng đầy đủ yêu cầu phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Do vậy, ngày 21/12/1999 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thơng qua
Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực thi hành trên cả nước từ ngày 01/07/2000
và đây là Bộ luật vẫn được áp dụng trong giai đoạn hiện nay. Bộ luật Hình sự
năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, cơ bản Bộ luật Hình sự
năm 1985, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong tình hình mới.

Kế thừa và phát triển các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985, tội
mua dâm người chưa thành niên trong Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được các
nhà làm luật quy định khá chặt chẽ. Cụ thể:
- Tội mua dâm người chưa thành niên được quy định tại Điều 256
trong chương "Các tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng". Về
cơ cấu, Bộ luật Hình sự 1999 quy định 4 khoản (so với 3 khoản của Bộ luật
Hình sự 1985), các điều khoản được sắp xếp khá tương đồng với các khoản
của Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985, khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.
Như vậy, so với Bộ luật Hình sự 1985, Bộ luật Hình sự 1999 cịn có quy định
thêm về một số tình tiết tăng nặng định khung và hình phạt bổ sung.
- Khung hình phạt cơ bản được giữ lại như Bộ luật Hình sự 1985 tuy
nhiên có sửa đổi cho phù hợp. Khoản 1 Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985 quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù tiếp tục được quy định tại
Khoản 1 Điều 256 Bộ luật Hình sự 1999. Khoản 2 Điều 202a quy định mức cao
nhất của khung hình phạt là 10 năm tù trong khi đó khoản 2 Điều 256 quy định
mức cao nhất của khung hình phạt là 8 năm tù, việc điều chỉnh quy định này
nhằm phù hợp với mức độ nguy hiểm của tội phạm. Khoản 3 Điều 256 vẫn giữ
nguyên mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản 3 Điều 202a là 15 năm tù.

16


- Các tình tiết tăng nặng định khung trong Bộ luật Hình sự 1999 được
quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn. Ví dụ: tình tiết "gây hậu quả nghiêm
trọng" (điểm b khoản 2) hoặc tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng" (điểm c
khoản 3) Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985 đã được sửa đổi với việc định
lượng chi tiết hơn, tương ứng là "gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân mà tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%" (điểm c khoản 2), "gây tổn hại cho sức khỏe của
nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên" (điểm c khoản 3) Điều 256 Bộ
luật Hình sự 1999.

- Ngồi ra, cịn bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng mới đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn xét xử và đánh giá đúng mức độ gây nguy hiểm của
các tình tiết đó như: Chuyển tình tiết "mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi" tại điểm c khoản 3 Điều 202a lên điểm b khoản 2 Điều 256; bổ sung
tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi"
(điểm a khoản 3), "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội" (điểm b khoản 3).
Như vậy, trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, pháp
luật hình sự nói chung và quy định về tội mua dâm người chưa thành niên
trong Bộ luật hình sự nói riêng ln khơng ngừng được hồn thiện, trở thành
một trong những cơng cụ hữu hiệu để bảo vệ trật tự công cộng cũng như bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, là một cơng cụ có
hiệu quả trong cơng cuộc đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm. Các quy
định này là cơ sở để bảo đảm trật tự xã hội, giữ gìn thuần phong mỹ tục của
dân tộc, cũng như góp phần to lớn vào việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TỘI MUA DÂM
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

1.2.1. Khái niệm "mua dâm"
Mua dâm là một hiện tượng xã hội tồn tại ở nhiều quốc gia, trong
những thời kỳ khác nhau. Đây là một vấn đề mang tính chất quốc tế. Tùy

17


thuộc vào chính sách, chế độ của từng quốc gia, mà Nhà nước của mỗi quốc
gia quy định việc kiểm soát hành vi mua dâm. Ở nước ta, mua dâm nói chung
là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Hiện tượng này trái với truyền thống,
thuần phong mỹ tục của dân tộc, đồng thời ảnh hưởng xấu đến đời sống văn
hóa và trật tự an tồn cơng cộng.

Xét về mặt thuật ngữ: "Mua" được hiểu là "một hành vi trong thương
mại" [55].
Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch
vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại
một giá trị nào đó (bằng tiền thơng qua giá cả) hay bằng hàng hóa,
dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng (barter).
Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng
hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho
người bán một giá trị tương đương nào đó [55].
Như vậy rõ ràng, hành vi "mua dâm" cũng có bản chất là sự thỏa
thuận giữa bên mua - người mua dâm và bên bán - người bán dâm. Tuy nhiên,
đối tượng để "mua" trong trường hợp này, không phải hàng hóa, dịch vụ
thơng thường, mà là hoạt động tình dục. Người mua dâm sẽ trả tiền hoặc lợi
ích vật chất khác cho người bán dâm để được giao cấu. Chính vì vậy, trong
nhiều cơng trình nghiên cứu khác nhau liên quan đến "mua dâm", các nhà
khoa học đã đưa ra định nghĩa về hành vi mua dâm như sau: "Mãi dâm, hay
mua dâm, là hành động dùng tiền bạc, vật chất hay quyền lợi để đổi lấy các
hoạt động tình dục ngồi hơn nhân" [55].
Theo Cơng ước về loại trừ các hình thức bóc lột tình dục (Bankok Thái Lan năm 1992): "Mãi dâm là việc coi thân thể người khác như một món
đồ vật có thể mua bán, đổi chác với mục đích khơng phải ln ln là vì tiền".
Đây là hai quan điểm khá tương đồng với nhau, đều thống nhất "mua
dâm" và "mãi dâm" là hai khái niệm tương đương. Trước hết xét về mặt thuật

18


ngữ, trong thực tiễn cũng như về mặt lý luận, cịn có những ý kiến khác nhau
xung quanh việc sử dụng thuật ngữ "mãi dâm" hay "mại dâm". "Mại" và "mãi"
là hai từ có nguồn gốc từ tiếng Hán. Theo nghĩa chữ Hán "mãi" có nghĩa là
mua và "mại" có nghĩa là bán, do đó người bán dâm là "gái mại dâm" mà

người mua dâm là "khách mãi dâm" [55].
Ở nước ta, về mặt lý luận thừa nhận thuật ngữ "mại dâm". Điều này
được thể hiện thông qua việc ban hành Pháp lệnh phịng, chống mại dâm năm
2003. Trong đó, tại Khoản 3 Điều 3 pháp lệnh quy định: "Mại dâm là hành vi
mua dâm, bán dâm".
Như vậy, "mãi dâm" hay "mua dâm" là sự thỏa thuận "mua bán, đổi
chác" giữa các bên. Người mua dâm có thể trả tiền, vật chất hoặc các quyền
lợi khác không phải là tiền để đổi lấy hoạt động tình dục với người bán dâm.
Tuy nhiên, theo quan điểm trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật học
và Pháp lệnh về phòng, chống mại dâm năm 2003, lại đưa ra định nghĩa về
mua dâm như sau: "Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật
chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu". Tức là, hành vi mua dâm
cũng có sự thỏa thuận để đổi lấy hành vi giao cấu như trường hợp trên. Nhưng
sự thỏa thuận trong trường hợp này chỉ có thể là "tiền hoặc lợi ích vật chất"
mà không bao gồm quyền và lợi ích khác khơng phải là tiền hay lợi ích vật
chất khác.
Như vậy, về cơ bản, các định nghĩa về "mua dâm" là tương đối đồng nhất.
Xét về mặt bản chất, "mua dâm" thực chất là hiện tượng xã hội tiêu
cực, là tệ nạn xã hội. Hành vi này ln ln có quan hệ mật thiết với hành vi
"bán dâm". Với hiện tượng "mua dâm" thông thường pháp luật của một số
nước trên thế giới coi như một loại hình kinh doanh, cho phép hoạt động dưới
sự kiểm soát của Nhà nước, điển hình là ở Pattaya của Thailand:
Pattaya trước kia là một làng chài nhỏ ven biển. Nhưng
ngày nay, nó trở thành phố biển nổi tiếng khắp thế giới bởi một

19


dịch vụ đặc biệt gọi là "sex-show". Chính phủ Thái Lan cũng như
chính quyền địa phương đã cho phép khai thác và tạo điều kiện

phát triển các dịch vụ về "sex" như một đặc trưng của thành phố,
và của cả Thái Lan [55].
Hay tại Hà Lan các nhà chức trách cho phép ta ̣o dựng các

"khu làm

viê ̣c", tức là các quâ ̣n đèn đỏ chính thức dành cho gái maĩ dâm. Và như vậy ,
viê ̣c ta ̣o ra các khu đèn đỏ đươ ̣c quản lý nghiã là chấ p nhâ ̣n sự tồ n ta ̣i của maĩ
dâm. Có 3 tiể u bang ở Ú c cấ p giấ y p hép cho các nhà thổ . Mục đích là cung
cấ p nơi làm viê ̣c an toàn , nhưng cũng bảo vê ̣ cho kh ách hàng. New Zealand
cũng cấp giấy phép cho các nhà thổ… [51].
Ở nước ta, hiện tượng "mua dâm" là tệ nạn xã hội, được coi là một
trong những hành vi bị nghiêm cấm theo Điều 4 - Pháp lệnh phòng, chống
mại dâm năm 2003, song pháp luật hình sự khơng quy định là tội phạm.
Trong trường hợp bị phát hiện, người mua dâm sẽ bị xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh này: "Người mua dâm tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo
hoặc phạt tiền". Tuy nhiên với hiện tượng mua dâm người chưa thành niên,
pháp lệnh cũng quy định cụ thể: "2. Người mua dâm người chưa thành niên
hoặc biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự". Trên cơ sở đó, pháp luật hình sự Việt Nam quy
định mua dâm người chưa thành niên là một tội phạm độc lập, đồng thời xuất
phát từ việc bảo vệ trật tự công cộng, cũng như bảo vệ sự phát triển lành
mạnh của người chưa thành niên - đối tượng còn chưa được phát triển đầy đủ
về mọi mặt (thể chất, tinh thần, nhận thức…).
1.2.2. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên
Trong pháp luật hiện hành, khái niệm người chưa thành niên được sử
dụng trong pháp luật lao động, dân sự, hình sự, tố tụng dân sự, pháp luật hành
chính… Điều 19 Bộ luật Lao động quy định: "Người lao động chưa thành


20


×