Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

đoàn thanh niên thành phố thái bình, tỉnh thái bình với công tác phòng chống nghiện hút ma túy trong thanh niên trên địa bàn dân cư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.5 KB, 63 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
Sau khi toàn thắng giải phóng cả hai miền Nam, Bắc vào mùa xuân năm
1975 đất nước ta hoàn toàn được độc lập và thống nhất. Dưới sự lạnh đạo tài
tình của Đảng cộng sản; Những chủ trương, biện pháp quản lý đúng đắn của nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng với nhân dân – sức dân, tài dân
đã đang và sẽ tiếp tục tiến hành thành công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đề ra đường lối
đổi mới về lạnh đạo và quản lý nền kinh tế đó là: xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu và tổ chức kinh
doanh sao cho phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển kinh tế – xã hội. Từ đó đưa nền kinh tế sản xuất hàng hóa
phát triển cao của thế giới Bên cạnh đó tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, trí thức khoa học công nghệ tiên tiến áp dụng vào kinh tế – văn hóa – xã
hội để nhanh chóng ổn định xây dựng và phát triển đất nước.
Khi đất nước đã chính thức hội nhập WTO – Tổ chức thương mại toàn cầu
thì không chỉ có thuận lợi mà còn có cả thách thức không nhỏ cần phải nỗ lực
trong việc hòa nhập chứ không hòa tan, để bản sắc văn hóa dân tộc luôn tồn tại
trong các nền văn hóa đa sắc dân tộc khác
Đất nước ngày càng phát triển vững chắc và ổn định, một lân nữa vị thế của
Việt Nam lại được khẳng định rõ nét. Mọi chủ chương, đường lối chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước khi đi vào cuộc sống đã mang lại thành quả
tích cực góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của xã hội, sự nâng
cao dân trí, sự ổn định mức sống của người dân lao động…Đó là thành quả
chung to lớn qua những cố gắng của Đảng, Nhà nước, chính phủ và toàn thể
nhân dân Việt Nam cho đến ngày hôm nay.



1
Bên cạnh nhiều thành tựu đã đạt được còn có nhiều những tồn tại tiêu cực
gây ức chế, bức xúc, đó là mặt trái của cơ chế thị trường, của nền kinh tế mở cửa
làm cho các tai tệ nạn nói chung, nhất là tệ nạn ma túy ngày một lan rộng và
phát triển mạnh.
Không ai là không biết khi sử dụng ma túy sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe
con người, ảnh hưởng đến nòi giống, làm băng hoại, suy đồi đạo đức, lối sống,
là nguồn gốc phát sinh mâu thuẵn xã hội, làm nảy sinh những hành vi vi phạm
pháp luật ở nhiều mức độ vi phạm, làm đình trệ sự phát triển kinh tế xã hội với
một mức độ khôn lường, không dễ gì kiểm soát được. Vì chất ma túy là những
chất mà quả trình sử dụng nó có khả năng gây nghiện. Quá trình sử dụng chất
ma túy tạo ra cho con người cảm giác phấn chấn, những ảo giác và từ “ sù quen
thuốc “ dẫn đến “sự lệ thuộc vào thuốc “, nghiện thuốc.
Ngày nay không một đÊt nước, một quốc gia nào là không chịu những ảnh
hưởng tiêu cực do ma túy gây nên, những nước đang phát triển khốn đốn, gặp
ngiều khó khăn, cản trở trong công cuộc gây dựng để phát triển đất nước, những
nước phát triển đã và đang xem ma túy, coi tệ nạn ma túy là vấn đề nan giải và
khó có thể chỉ trong ngày một ngày hai là có thể giải quyết dứt điểm…Do vậy
vấn đề ma túy – tệ nạn ma túy là hiểm họa chung của mọi quốc gia, của toàn
cầu, chứ không giới hạn riêng lẻ đơn độc với một quốc gia nào trên thế giới.
Hiện nay ma túy đã và đang len lỏi vào từng gia đình ở thành thị, ở nông
thôn cũng như các khu kinh tế lớn nhỏ, khu công nghiệp khu thương mại buôn bán,
đặc biệt là ma túy đã xâm nhập vào giới trẻ học sinh, sinh viên nơi học đường với
rất nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Đối tượng buôn bán, vận chuyển, tàng
trữ , sử dụng ma túy ngày càng trở nên nguy hiểm, khó kiểm soát với nhiều thủ
đoạn lừa lọc nham hiểm, tinh vi, xảo quyệt hơn trước kia khiến cho các cơ quan,
ban ngành chức năng khó lòng bài trừ và tiêu diệt tận gốc tệ nạn ma túy.
Thành phố Thái Bình là một trung tâm kinh tế – chính trị – văn hóa – xã
hội của tỉnh Thái Bình và các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Nơi đây là khu vực
tập trung rất nhiều cơ quan xí nghiệp, nhà máy, công ty lớn nhỏ; các khu chợ



2
buôn bán, giao lưu thương mại và có rất nhiều trường học với nhiều cấp bậc đào
tạo khác nhau… Hàng năm, thành phố Thái Bình thu hút đông đảo người lao
động, học sinh, sinh viên về học tập, lao động, sản xuất. Đó là những ảnh hưởng,
tác động trực tiếp mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế – xã hội và an ninh trật tự ở
địa phương, đồng thời đó cũng là môi trường thuận lợi nhen nhóm, nảy sinh các
loại hình tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy.
Bằng những thủ đoạn mồi chài, dẫn dắt đưa đẩy thanh, thiếu niên sa vào tệ
nạn xã hội. Ban đầu là các thanh, thiếu niên đua đòi, những phần tử ăn chơi, rồi
tiếp đến là con nhà tử tế , được ăn, học hẳn hoi cũng ngục ngã bởi các thủ đoạn
của chúng. Đó là thách thức không nhỏ đối với Tỉnh Thái Bình, Thành Phố Thái
Bình và cả những địa phương phường, xã đã khó khăn, vất vả trong cuộc chiến
chống lại nghèo đói, nay lại càng thêm gian nan khi đối mặt với loại tệ nạn xã
hội đang gây nhức nhối trong xã hội và cụ thể là tệ nạn ma túy.
Đứng trước tình hình xã hội thay đổi, ma túy hủy hoại con người, hủy hoại
những mái Êm đang yên bình, hạnh phúc. Là một học viên học viên TTN Việt
Nam, đã được trang bị đầy đủ kiến thức, phẩm chất và tinh thần tự nguyện, tôi
rất muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc đẩy lùi ma túy,
nhất là tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh niên, học sinh, sinh viên – những
lớp người làm chủ đất nước trong tương lai, để đất nước ngày càng phát triển, để
gia đình thật sự là mái Êm của mỗi thành viên và là tế bào sống của xã hội, để
họ thực sự là người có Ých với xã hội. Và bản thân tôi thực hiên được mong
muốn của mình là: “chung tay cùng cộng đồng đẩy lùi ma túy”.
Chính vì vậy tôi chọn chuyên đề: “Đoàn Thanh niên thành phố Thái
Bình, tỉnh Thái Bình với công tác phòng chống nghiện hút ma túy trong
thanh niên trên địa bàn dân cư” làm chuyên đề tốt nghiệp cho chương trình:
Trung cấp lý luận và nghiệp vụ Đoàn – Hội - Đội tại Học viện Thanh thiếu niên
Việt Nam. Mặt khác giúp công tác Đoàn và phong trào thanh niên ở địa phương

nhìn nhận tình hình, diễn biến thực trạng của tệ nạn ma túy, để từ đó đề xuất


3
những ý kiến, khuyết nghị, giải pháp mang lại hiệu quả, góp phần xây dựng địa
phương, quê hương ngày càng giàu đẹp.
II. MỤC ĐÍCH CHUYÊN ĐỀ:
- Xác định vai trò của đoàn thanh niên trong công tác phòng chống nghiện
hút ma túy trong thanh niên trên địa bàn Thành phố Thái Bình.
-Nghiên cứu thực trạng nghiện hút ma túy trong thanh niên kiến nghị đề
xuất những giải pháp mang tính khả thi, các công tác nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ
nạn này.
III. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
- Nghiêm cứu, làm rõ vai trò của Đoàn thanh niên trong lĩnh vực phòng
chống ma túy trên địa bàn thành phố Thái Bình.
- Nghiên cứu thực trạng, giải pháp và xác định mực độ nguy hại của tệ nạn
nghiện hút ma túy trong thanh niên.
- Phân tích những nội dung về hình thức, biện pháp tổ chức, các mô hình
hoạt động của Đoàn thanh niên nhằm: tuyên truyền, giáo dục thanh niên hiểu
biết về tác hại của ma túy, từ đó có cái nhìn tích cực, đúng đắn, phòng ngừa và
ngăn chặn.
- Kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên trong
việc tham gia phòng chống nghiện hút ma túy trên địa bàn thành phố Thái Bình.
V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Chủ thể: Đoàn thanh niên thành phố Thái Bình với việc phòng chống
nghiện hút trong thanh niên.
- Khách thể: Những thanh niên mắc nghiện, có nguy cơ mắc nghiện và đã
cai nghiện trên địa bàn dân cư. Tài liệu báo cáo, đề tài viết về ma túy. Cán bộ
đoàn cơ sở.
- Các cơ quan đoàn thể trên địa bàn.

VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Thời gian: Từ năm 2004 -2007.
- Không gian: Địa bàn thành phố Thái Bình.
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thống kê, thu thập tài liệu về thực trạng nghiện hút ma túy
trên địa bàn.
- Phương pháp đọc và sưu tập tài liệu.
- Phương pháp nghe báo cáo.


4
- Phương pháp tham dự hội thảo.
- Phương pháp hội thảo.
PHẦN THỨ HAI
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
1.1. Khái niệm ma túy
Theo Công ước thống nhÊt về các chất ma túy năm 1961 của Liên hợp quốc
thì: “Ma túy” nghĩa là bất kỳ chất liệu nào được qui định tại Bảng I, bảng II của
Công ước quốc tế 1961, dù là các chất dưới dạng tự nhiên hay dưới dạng tổng
hợp.
Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội
thông qua ngày 21/12/1999 đã qui định các tội phạm về ma túy. Theo đó Ma túy
bao gồm: Nhựa, lá, hoa, quả tươi và khô sấy thuốc phiện, cây cần sa; Hêrôin,
Côcain; Các chất ma túy tổng hợp ở thể lỏng, thể rắn…
Luật phòng, chống ma tóy được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 09/12/2000 quy định: “chất ma túy là các chất gây nghiện,
chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “ Ma túy là tên gọi chung các chất có tác dụng

gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng nhiều thành nghiện “.
Nh vậy, ma túy là những chất đã được xác định và có tên gọi riêng, tổng
hợp lại có thể hiểu:
Ma túy là những chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp khi xâm nhập
vào cơ thể con người dưới bất kỳ hình thức nào sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức,
trí tuệ, tâm trạng của người đó. Nếu lạm dụng sẽ bị lệ thuộc, gây tổn thương,
nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng.
Nếu sử dụng đúng liều lượng, đúng lúc, có thời gian cụ thể với chỉ dẫn và
tuân theo đơn thuốc sẽ có tác dụng tốt cho việc chữa bệnh. Y học đã sử và chế
biến một số hoạt chất như: Morphin, Heroin, Codein, Mathadon, Pethidin,


5
Amphetamine, Amphetamine Sulfat (mỗi nước có tên biệt dược khác nhau: Như
ở Nga là Phentanin, Mỹ là Benzedrine, Pháp là Oren tal), Doping vận động viên
dùng (*Hiện nay cấm vận động viên sử dụng trong thi đấu*)…dùng để giảm
đau, chữa ho và trị tâm thần…Vì vậy các hoạt động liên quan đến sản xuất, sử
dụng ma túy cho việc chữa bệnh được Nhà nước độc quyền quản lý chặt chẽ.
1.2. Khái niệm nghiện ma túy:
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1957, định nghĩa là: “Trạng thái
ngộ độc kinh niên hay từng thời kỳ do sử dụng lặp đi lặp lại một hay nhiều lần
chất tự nhiên hay tổng hợp. Chất gây nghiện làm người nghiện ham muốn không
tự kiềm chế được mà bằng mọi giá phải sử dụng. Chất gây nghiện gây xu hướng
tăng dần liều lượng, gây ra sự lệ thuộc về tâm lý và thường là cả thể chất, có hại
cho chính người nghiện và xã hội”.
Trong Y học người ta định nghĩa: “Nghiện là một sự lệ thuộc thuốc gây
nghiện cùng với quá trình tái nghiện sau khi rời bỏ chất gây nghiện”.
Từ Hán Việt: “Ma” là làm tê liệt: “Túy” là làm cho say sưa.
Nh vậy người nghiện khi sử dụng lặp lại hơn một lần chất với liều lượng
tăng dần dần đến trạng thái nhiễm độc chu kỳ mãn tính do đó sẽ bị lệ thuộc về

thể chất, tinh thần vào chất gây nghiện.
Đặc trưng của người nghiện ma túy:
+ Có sự ham muốn không kiềm chế được phải xài thuốc bằng mọi giá.
+ Có khuynh hướng tăng dần liều dùng (Liều dùng sau phải cao hơn liều
dùng trước mới có tác dụng) hoặc đổi sang dạng khác mạnh hơn. Quá liều xảy ra
khi lượng ma túy vượt quá mức dung nạp của cơ thể hoặc có thể có nhiều tạp
chất trộn vào ma túy. Triệu chứng của quá liều: Xứu, lừ đừ: Da tái xanh, vã mồ
hội; Thở chậm nhịp tim đập không đều; hạ thân nhiệt.
+ Bức xúc về mặt tâm sinh lý lệ thuộc vào chất gây nghiện muốn sử dụng lại.
+ Thiếu thuốc sẽ xuất hiện các triệu chứng như sau: Uể oải, hạ huyết áp, co
giật, đau đớn và thường làm nhiều điều để có ma túy xài. Người nghiện thường
có bề ngoài tiều tụy, gầy ốm, da xám xịt, tóc xơ xác, răng gẫy vụn, ngại học
hành, lao động, tắm rửa.
1.3. Tác hại của tệ nạn nghiện ma túy, tiêm chích ma túy:
1.3.1.Về kinh tế:


6
Tệ nạn nghiện hút ma túy làm suy giảm, gây thiệt hại về kinh tế của mỗi nước
đáng kể. Trên 100 ngàn người nghiện hàng ngày dùng nhiêù loại chất ma túy khác
nhau (Như Heroin: 10.000 - 30.000 - 50.000 - 70.000 - 100.000VND/liều; Thường
thì chỉ 1 hoặc 2 lần/ ngày, nhưng có khi con nghiện xài thuốc 3 lần/ngày mới thỏa
mãn cơn nghiện thuốc).
Ở Việt Nam:
+ Năm 1993 đến 2000: Có 166.203 lượt người được đưa đi cai nghiện. Đối
với xã hội, tốn hàng trăm tỷ cho ma túy, cai nghiện ma túy. Riêng cai nghiện ma
túy năm 1996 đã ngốn hết 20 tỷ VNĐ.
+ Năm 2002: 142002 người nghiện được lập danh sách, có hồ sơ kiểm soát.
(Tăng 28.098 người so với năm 2001). Mỗi năm số người nghiện tiêu phí trên
2.000 tỷ đồng.

Trong năm 2002 toàn thế giới có khoảng 200 triệu người nghiện ma túy,
tăng 10 triệu người so với năm 2001. mỗi năm số người nghiện ma túy của thế
giới tiêu tốn hàng chục tỷ USD.
Nhà nước hàng năm đã phải dành một khoản ngân sách không nhỏ cho
công tác phòng chống ma túy:
+ Chi phí cho công tác tuyên truyền giáo dục phòng, chống ma túy.
+ Chi phí cho công tác vận động xóa bỏ cây thuốc phiện.
+ Chi phí cho công tác tổ chức cai nghiện tại cộng đồng, xây dựng và quản
lý các trung tâm cai nghiện.
+ Chi phí về giam giữ, cải tạo, số người phạm tội về ma túy.
+ Chi phí cho hoạt động kiểm soát ma túy ở biên giới, điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm về ma túy.
+ Chi phí cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống
ma túy.
1.3.2. Về xã hội:
- Tệ nạn ma túy làm tăng nguy cơ gây tai nạn giao thông do đối tượng
không làm chủ được tốc độ.
- Tệ nạn về ma túy làm tăng số người bị nhiễm HIV/AIDS.


7
- Tệ nạn ma túy làm gia tăng tệ nạn mại dâm.
- Đối tượng nghiện hút ma túy trong thanh, thiếu niên đã tác động xấu đến
đạo đức, lối sống của hàng vạn thanh thiếu niên, ảnh hưởng trực tiếp đến lực
lượng lao động của xã hội, vì họ là lực lượng tương lai đóng góp trực tiếp cho
toàn xã hội.
- Dùng ma túy sẽ kích thích hệ thần kinh gây ảo giác làm cho người nghiện
có những nhận thức và hành động không phù hợp với tập quán sinh hoạt, chuẩn
mực đạo đức và do đó dễ dàng có những hành vi vi phạm pháp luât.
Tùy theo liều lượng thuốc, số lần xài thuốc, cách thức dùng thuốc sẽ để lại

những hậu quả theo các mức độ vi phạm pháp luật nặng, nhẹ khác nhau.
1.3.3. Với gia đình.
Tệ nạn nhiện hút ma túy làm cho gia đình không hòa thuận, gây xích mích,
thiếu sự tôn trọng giữa các thành viên trong gia đình, gia đình không yên Êm,
không con hạnh phúc.
Nhiều người cai nghiện đã bất chấp (rất khó để cha mẹ, anh em trong gia đình
khuyên can) đã bán đi của cải vật chất dù là Ýt ỏi nhất, có khi sổ đỏ cũng thế chấp.
Người nghiện bế tắc rồi nảy sinh bực tức đánh đập vợ con, chém giết bố
mẹ, ông bà để đòi tiền hút, chích. Nhiều trẻ em đã phải bỏ học đi lang thang,
nhiều bà vợ bỏ chồng vì chồng nghiện ma túy. Có gia đình giết em, bố giết con,
vợ giết chồng, con nghiện ma túy.
Nh vậy gia đình không còn là tổ Êm nguyên vẹn khi ma túy xâm nhập.
1.3.4.Với bản thân người nghiện:
Các chất ma túy khi vào cơ thể gây nên các tác động xấu đến sức khỏe và
biểu hiện ở đường hô hấp, hệ tim mạch, hệ thần kinh, hệ sinh dục.
- Đối với đường hô hấp: Các chất gây nghiện làm tăng tần số thở trong thời
gian ngắn, sau đó gây ức chế hô hấp ( Nhất là khi dùng quá liều ), gây phù phổi
cấp, tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, xuất huyết phế nang. Nhiều trường
hợp ngừng thở nếu không kịp sơ cứu sẽ dẫn đến tử vong, một số trường hợp dẫn
đến ung thư phổi.


8
- Đối với hệ tim mạch: Các chất ma túy làm tăng nhịp tim, gây co thắt
mạch vành, tạo cơn đau thắt ngực, có thể gây nhồi máu cơ tim. Chất ma túy
cũng làm tăng huyết áp…
- Đối với hệ thần kinh: Sử dụng ma túy giai đoạn đầu có thể gây hưng phấn
lệ thuộc thuốc, sau đó gây tai biến nh co giật, xuất huyết, đột quỵ…
- Đối với hệ sinh dục: Đa số ở người nghiện ma túy khả năng tình dục suy
giảm rõ rệt và điều này còn tồn tại sau ngưng thuốc trong thời gian lâu dài. Nam

giới dùng ma túy sẽ bị chứng vú to và bất lực, phụ nữ sẽ làm rối loạn chu kỳ
kinh nguyệt, tăng tiết sữa bất thường và vô sinh.
Ngoài ra, khi dùng chất gây nghiện dạng hít một thời gian dài sẽ gây hư
hỏng niên mạc mũi; dạng chích dễ gây nhiễm trùng nơi tiêm, nhiễm trùng máu;
người nghiện hay bị táo bón, mắc các bệnh lây qua đường tiêm chích như sốt
rết, viêm gan siêu vi B. Người nghiện dễ chết do cơ thể bị suy kiệt hoặc nhiễm
trùng.
1.4. Mồi quan hệ giữa ma túy và tội phạm:
Nghiện ma túy làm cho một người sáng suất trở thành u mê, trở thành tăm
tối; từ con người khỏe mạnh trở nên bệnh tật, một người con ngoan trong gia
đình trở nên hư hỏng, ngoan cố, biến một công dân tốt trong xã hội trở thành đối
tưọng cần xem xét của pháp luật.
Để có tiền xài ma túy, người nghiện đã bất chấp mọi hành vi vi phạm pháp
luật sẵn sàng buôn ma túy, chất gây nghiện, trộm cắp, cướp của, giết người…
Họ bị mất việc làm ảnh hưởng đến kinh tế gia dình, mất uy tín đối với bạn bè,
gia đình và xã hội, cuối cùng là mất niềm tin vào bản thân mình.
Theo thống kê được biết số vụ phạm tội về ma túy hàng năm ngày càng
tăng lên, phức tạp và khó lường. Nhất là đối tượng thanh, thiếu niên, chúng kết
nhóm lại với nhau thành từng nhóm một, thành lập băng đảng tiến hành gây rối
trật tự công cộng, đua xe trái phép… gây những hậu quả nghiêm trọng .Đồng
thời, số người nghiện tham gia mua bán, vận chuỷên, tàn trữ, tổ chức, sử dụng
ma túy để kiếm tiền hút chích ma túy ngày càng tăng nhanh. Vì vậy ma túy là


9
tác nhân khiến xã hội mất cân bằng, là hiểm hoạ của xã hôi, ảnh hưởng an ninh
quốc gia, an ninh quốc tế.
1.5. Mối quan hệ giữa ma túy và HIV/AIDS:
Tệ nạn ma túy làm gia tăng số người bị nhiễm HIV. Khi dùng ma túy khiến
đối tượng mất tự chủ bản thân và do đó có thể quan hệ tình dục một cách không

an toàn với một hoặc nhiều người nên dễ bị lây nhiễm HIV.
Những người nghiện thường dùng chung bơm kim tiêm không khử trùng,
dùng chung ma túy trong một lọ và đó là con đường lây HIV từ người này sang
người khác nhanh chóng nhất.
Người nghiện vốn đã suy yếu do độc chất gây nghiện, nếu nhiễm HIV dễ
sinh ra các bệnh nguy hiểm, đưa nhanh đến giai đoạn AIDS.
Sổ liệu thống kê gần đây nhất cho thấy khoảng 200 triệu người ( Hay là 5%
dân số thế giới trong lứa tuổi từ 15 đến 64 có sử dụng ma túy bất hợp pháp Ýt
nhất một lần trong năm ).
Đến tháng 12 năm 2002 trên thế giới có khoảng 42 triệu người chung sống
với HIV ( Người nhiễm HIV/AIDS ). Nước ta có khoảng 93 nghìn người bị
nhiễm HIV thì có đến 75% bị lây do tiêm, chích ma túy.
Do vậy, chích ma túy và HIV/AIDS là hai nguyên nhân phá hủy sức khỏe,
phá tan hạnh phúc làm kiện quệ kinh tế gia đình của người nghiện, chích ma túy
đã nhiễm HIV/AIDS.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ
NƯỚC VỀ CÔNG TÁC PHÒNG VÀ CHỐNG MA TÚY.
2.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước:
Nghiện thuốc nói chung, hay nghiện ma túy nói riêng là một hiểm họa cho
cá nhân người nghiện cho gia đình họ cũng như cho xã hội, hơn nưa đó là một
vấn đề toàn cầu không riêng cho dân tộc, một nền văn hóa hay một sắc dân nào,
một nền kinh tế nào. Đó là một tệ nạn nghiêm trọng, một thảm họa to lớn có hậu
quả khủng khiếp và nan tỏa giữa cá nhân – cá nhân, gia đình – gia đình, xã hội,
quốc gia này với quốc gia khác và mang tính toàn cầu.


10
Vì thế mà “ Hội quốc tế chống ma túy “ tại Vương quốc Thái Lan ( Tháng
2 năm 1988 ) đã kêu gọi tất cả các nước, các tổ chức quốc tế cần có biện pháp
phối hợp toàn cầu để nhìn lại thảm họa này. Và đây là một nhiệm vụ khẩn thiết

của toàn nhân loại.
Ở Việt Nam tệ nạn ma túy đang ở mức báo động, số người nghiện và số tội
phạm ma túy không ngừng tăng nên hàng năm, sẽ nảy sinh ra vấn đề mất trật tự
trị an xã hội, làm ảnh hưởng tới đời sống nhân dân và mục tiêu xây dựng xã hội
chủ nghĩa của đất nước. Chính vì vậy trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước
có sự quan tâm hết sức đặc biệt đối với việc phòng chống tệ nạn nói chung và tệ
nạn ma túy nói riêng. Sự quan tâm đó được cụ thể hóa bằng các công văn, chỉ
thị, nghị quýêt, quyết định, kế hoạch và cả trong luật pháp nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Ma túy gây tác hại nghiêm trọng về nhiều mặt, cho nên nhà nước độc
quyền quả lý. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 61 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: “ … Nghiêm cấm sản
xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất
ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa bệnh xã hội
nguy hiểm…”.
Nghị quyết 06/CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm
soát chất ma túy ( Ngày 29/01/1993 ).
Thủ tướng chính phủ ban hành nghị quyết 08/TT về việc : Thành lập ban
chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội ( Ngày 05/01/1994).
Chính phủ ra quyết định số 10/Cp về việc: Thành lập cục phòng chống tệ
nạn xã hội trực thuộc bộ lao dộng thương binh và xã hội.( Ngày 10/01/1994 )
Nghị định 53/CP ngày 28/06/1994 của chính phủ quy định các biện pháp
sử lý đối với cán bộ, viên chức nhà nước và những người có hành vi liên quan
đến mại dâm, ma túy, cờ bạc và say.
Nghị định 88/CP ngày 14/12/1995 quy định về sử phạt hành chính trong
các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa và phòng chống tệ nạn xã hội.


11

Trước đây người sử dụng ma túy được coi là người bệnh, là tệ nạn xã hội.
Tuy nhiên nhiều người mắc đã được giáo dục nhiều lần, được cai nghiện, đã bị sử
phạt hành chính nhưng sau một thơì gian lại tái nghiện, tiếp tục sử dụng chất gây
nghiện; cho nên gây ra cho gia đình đã phải đau khổ nay càng đau khổ hơn, để lại
hậu quả nặng nề cho xã hội làm người dân bức xúc, bất bình, khó chấp nhận.
Vì vậy cần phải xử lý bằng hình sự hành vi sử dụng trái phép chất ma túy
để răn đe, nghiêm trị bằng pháp luật. Người sử dụng trái phép chất ma túy vừa là
bệnh nhân, nạn nhân, vừa là người vi phạm pháp luật ( Vi phạm hành chính và
vi phạm hình sự )
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đã dành chương XVIII quy định các
tội phạm ma túy. Các tội phạm ma túy gồm 10 tội từ điều 1992 đến điều 2001.
Đặc biệt trong đó quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có hình
phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Tội sử dụng trái phép chất ma túy có
mức hình phạt cao nhất là 5 năm. pháp luật Việt Nam tôn trọng quyền tự do của
mọi người nhưng quyền tự do đó phải không ảnh hưởng tới người khác và theo
quy định của pháp luật. Ma túy là chất độc haị gây nghiện cho nên Nhà nước
thông nhất quản lý, sử dụng.
Pháp lệnh sử lý vi phạm hành chính ( Do ủy ban Quốc hội thông qua
06/07/1995 ) Còng quy định hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của người từ
đủ 18 tuổi trở lên đã được giáo dục mà còn vi phạm thì bị sử phạt hành chính
bằng biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh.
Căn cứ điều 103 và điều 106 của hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ
nghiã Việt Nam năm 1992; Căn cứ vào điều 78 của luật tổ chức Quốc hội; căn
cứ điều 50 của luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật công bố “ Luật
phòng, chống ma túy” ( Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa X , kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000)
Trong chương I:Điều 1 : quy định :’’luật này quy định về phòng ngừa ,
ngăn chặn , đấu tranh chống tệ nạn ma túy ;kiểm soát các hoạt động hợp pháp
liên quan đến ma túy ; trách nhiệm của cá nhân , gia đình , cơ quan , các cơ quan
trong phòng , chống ma túy.”



12
Theo Chương I: Điều 4 : quy định :
“1. Phòng , chống ma túy là trách nhiệm của cá nhân , gia đình , cơ quan ,
tổ chức và của toàn xã hội.
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích bảo vệ cá nhân , gia đình , cơ
quan , tổ chức tham gia phòng , chống tệ nạn ma túy ; tổ chức đấu tranh chống
các tội phạm về ma túy và sự đồng bộ các biện pháp kinh tế , pháp luật , văn
hóa, xã hội , nghiệp vụ để tuyên truyền , vận động nhân đân , cán bộ , công chức
và cán bộ chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân để tham gia phòng , chống
tệ nạn ma túy ; kết hợp phòng , chống tệ nạn ma túy với phòng, chống các loại
tội phạm , HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.”
Điều 5:Quy định :
“1. nhà nước Việt Nam thực hiện các điều quy ước quốc tế về phòng ,
chống ma túy và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, các tổ chức
quốc tế, tổ chức cá nhân, nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma túy …”
Trong Quyết định 61/2000/QĐ - TTG ( Ngày 05/06/2000 ) của Thủ tướng
Chính phủ về việc “ Thành lập ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,
chống ma túy, mại dâm”. Giúp cho quá trình hoàn thiện tổ chức mang chức năng
chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hội nói chung và tạo tiền đề trong hoạt
động đẩy lùi tệ nạn xã hội, tiến tới xóa bỏ tệ nạn ma túy và mại dâm.
Ở Quyết định 150/QĐ - TTG ( Ngày 28/12/2000 ) của Thủ tướng Chính
phủ về “ Chương trình hành động phòng, chống ma túy giai đoạn 2001 – 2005”.
Thủ tướng đã yêu cầu các Bộ, các ban ngành, các đoàn thể, UBND các tỉnh,
thành phố tiến hành đồng loạt các chủ trương và biện pháp phòng, chống ma túy
giai đoạn 2001 – 2005”. Thủ tướng đã yêu cầu các Bộ, các ban ngành, các đoàn
thể, UBND các tỉnh, thành phố tiến hành đồng loạt các chủ trương và biện pháp

phòng, chống ma túy nhằm hạn chế tốc độ gia tăng người nghiện mới, giảm
nguồn cung cấp ma túy, đồng thời nâng cao công tác tổ chức cai nghiện và đưa
người nghiện tái hòa nhập cộng đồng.


13
Bộ quốc phòng chỉ đạo Bộ đội biện phòng và Cảnh sát biển khẩn trương
triên khai Nghị quyết 1075/QĐ - TTG ( Ngày 11/10/2004 ) của Thủ tướng
Chính phủ về việc tổ chức lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm ma
túy. Nâng cao năng lực của lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm ma
túy. Nâng cao năng lực của lực lượng chuyên ngành đồng thời phối hợp với Bộ
công an ra quân truy quét mạnh tội phạm ma túy trên địa bàn biên giới, đường
bộ và cả đường biển.
Sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị khi tham gia công tác phòng,
chống ma túy được phát huy tối đa. Các cấp ủy Đảng, các bộ, ban ngành, đoàn
thể, UBND các cấp đã có nhiều cố gắng quyết tâm thực hiện.
So với năm 2003 thì năm 2004 có tốc độ gia tăng người nghiện giảm
50%. ( Con số này đã bao quát được tình hình chung ).
Tuy vậy, tệ nạn ma túy còn diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Trong
Quyết định của Thủ tướng chính phủ đề ra mỗi năm giảm 10% - 20% số người
nghiện ma túy hiện có, nhưng việc thực hiện mục tiêu đó còn gặp nhiều khó
khăn và phải phấn đấu trong thời gian dài.
Để ngăn chặn làm giảm tệ nạn ma túy ở Việt Nam, Thủ tướng chính phủ
đã ra Quyết định 49/ QĐ - TTG phê duyệt kế hoạch tổng thể phòng, chống ma
túy đến năm 2010. Mục tiêu của kế hoạch đề ra là : “Đến năm 2015 cơ bản
thanh toán xong tệ nạn ma túy trong cả nước, kiềm chế tốc độ gia tăng người
nghiện mới, giảm tỷ lệ người nghiện, phấn đấu đến năm 2010 giảm từ 20% - 30%
số người nghiện ma túy so với năm 2001”. Nghĩa là mỗi năm giảm 20.000 người
nghiện hút ma túy để đến năm 2010 cả nước chỉ còn 70.000 người nghiện ma túy.
Chính phủ nêu ra 9 giải pháp để thực hiện mục tiêu:

+ Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền về
công tác phòng, chống ma túy.
+ Hai là: Triển khai đồng bộ các loại hình thông tin tuyên truyền, giáo
dục, phòng, chống ma túy.
+Ba là: Củng cố về số lượng và chất lượng các lực lượng chuyên trách
phòng, chống tội phạm về ma túy.


14
+ Bốn là: Tăng cường pháp luật phòng, chống tội phạm về ma túy và sản
xuất trái phép ở trong nước. Nâng cao năng lực thi hành pháp luật cho cả lực
lượng phòng, chống về ma túy.
+ Năm là: Giảm tốc độ gia tăng người nghiện mới và nâng cao hiệu quả
cai nghiện ma túy.
+ Sáu là: Xóa bỏ và thay thế các loại cây có chất ma túy.
+ Bảy là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy.
+ Tám là: Kiện toàn tổ chức bộ máy phòng, chống ma túy.
+ Chín là: Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
Thủ tướng phân nhiệm vụ cho các Bộ, ban ngành, đoàn thể, UBND các
tỉnh thành phố có những bịên pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao hiệu quả về
công tác phòng, chống ma túy. Hằng quý định kỳ sơ kết, đánh giá, báo cáo Thủ
tướng kết quả thực hiện. Do có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao theo hướng nâng
cao năng lực, tạo điều kiện liên kết mạnh các Bộ, các ban ngành, đoàn thể,
UBND các tỉnh, thành phố đã đạt được kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực
nhưng do tác động khách quan từ bên ngoài vào, tình hình tệ nạn và tội phạm
vẫn có những biễn biến nhiều chiều có tình cam go và cả sự phức tạp cần lưu
tâm, chú ý để làm sao ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ tệ nạn xã hội nói chung
và tệ nạn ma túy nói riêng.
Với những yêu cầu mang tính khách quan đó, để đảm bảo trật tự an ninh
xã hội, vì cuộc sống bình yên của nhân dân và kỷ niệm những sự kiện trọng đại

của đất nước, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật phòng chống ma túy
giai đoạn 2001 – 2005 vận động toàn dân tích cực tham gia vào đấu tranh, tố
giác tội phạm ma túy, ngăn chặn các loại tệ nạn xã hội.
Ngày 24/05/2005 Thủ tướng chính phủ đã có Công văn 642/TTG – CV
hướng dẫn các Bộ, ban ngành, đoàn thể, UBND các tỉnh, thnàh phố tăng cường
công tác phòng chống ma túy, đặc biệt là công tác tuyên truyền giáo dục phòng,
chống ma túy.
Thủ tướng yêu cầu: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Lao
động – Thương binh xã hội, Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, Bộ GIáo


15
dục - Đào tạo, Bộ Văn hóa thông tin, ủy ban dân số – Gia đình trẻ em, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương … Xây dựng kế hoạch và triển khai thực
hiện kế hoạch tập hoạch tập trung tấn công trấn áp các loại tội phạm ma túy.
Tiến hành kiểm tra, rà soát nhằm phát hiện ngăn chặn và triệt phá các tụ
điểm tổ chức buôn bán sử dụng ma túy. Đồng thời tuyên truyền phòng, chống
ma túy với những nội dung mới, có hiệu quả. Đưa người nghiện vào các Trung
tâm cai nghiện thực hiện chữa trị có hiệu quả, làm tốt công tác sau cai nghiện
tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng một cách vững chắc.
Thủ tướng giao cho Bộ Công an theo dõi, đông đốc, kiểm tra việc triển
khai thực hiện “ Đợt cao điểm phòng, chống ma túy” của các Bộ, ban ngành, và
các địa phương.
Chính phủ ra Nghị định 56/NĐ - CP ( Ngày 15/05/2002 ) quy định người
nghiện ma túy cai nghiện gia đình và cộng đồng.
Nghị quyết liên tịch 546/NQTL – Bé Lao động thương bình xã hội – Bộ
Văn hóa Thông tin – ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam ( Ngày
27/02/2003 ) của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa thông tin,

ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam về “ Quy định và hướng dẫn chỉ
tiêu phân laọi và đánh giá xã, phường thị trấn lành mạnh không có tệ nạn mại
dâm, ma túy”.
Nghị định 135/NĐ - Cp ( Ngày 10/06/2004 ) quy định: Chế độ áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức cơ sở chữa bệnh. ( Theo Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên,
người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh ).
Thực hiện sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh Thái
Bình về công tác đấu tranh phòng, chống ma túy.UBND Thành phố Thái Bình
đã xây dựng và triển khai thực hiện Đề án 03/ĐA – UB ( Ngày 22/04/2001 ) về
công tác phòng, chống ma túy ở Thành phố Thái Bình giai đoạn 2001 – 2005
với phương châm:


16
“ Phòng ngừa là chính, giáo dục nâng cao nhận thức là cơ bản. Lờy giáo
dục làm tế bào: xã phường, cơ quan xí nghiệp, trường học, đơn vị làm điểm tựa;
lực lượng Công an làm nòng cốt”.
Hoạt động phòng, chống ma túy và nghiện hút sẽ được triển khai trên tất
cả các lĩnh vực nh: tuyen truyền giáo dục, tạo dư luận, lên án mạnh mẽ tội phạm
ma túy và tệ nạn nghiện hút ma túy.
Đầu năm 2001 trở lại đây, Thành ủy đã có 03 Nghị quyết và kết luận, Hội
nghị Ban chấp hành Đảng bộ để lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống ma
túy. Hội đồng nhân dân Thành phố đã ban hành 07 Nghị quyết chuyên đề về
phòng, chống ma túy trong đó có những Nghị quyết rất quan trọng để lãnh đạo
và tạo những cơ chế chính sách cho các cấp, các ngành tập trung phòng, chống
ma túy sao cho thật hiệu quả. UBND thành phố, Ban chỉ đạo phòng chống tội
phạm – phòng, chống ma túy đã xây dựng, ban hành 115 chỉ thị, quyết định, kế
hoạch, thông báo … để chỉ đạo, hướng dẫn, phân công nhiệm vụ cho các đơn vị,
địa phương tổ chức triển khai thực hiện.

Hiện nay UBND Thành phố đã xây dựng xong: Đề án phòng, chống ma
túy thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2006 – 2010 ( Nghị quyết này được
HĐND Tỉnh Thái Bình khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 14 tháng 07 năm
2006 ) với mục tiêu tổng quát là: “ Nâng cao nhận thức của mọi người trong
toàn xã hội về ma túy, tệ nạn ma túy và công tác phòng, chống ma túy; triệt phá
các tụ điểm buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy; ngăn chặn phát
sinh nghiện mới và tiến tới giảm mạnh đối tượng nghiện hút ma túy trên địa bàn
Thành phố, góp phần phát triển xã hội lành mạnh, đảm bảo an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội”.
Đề án cũng nêu rõ mục tiêu cụ thể là: “ Phải coi công tác đấu tranh phòng,
chống ma túy là nhiệm vụ thưòng xuyên của các cấp ủy đảng, chính quyền các
cấp và các ngành đoàn thể từ đó nâng cao nhận thức của mọi người về tác hại
của ma túy, phát huy tính chủ động của mỗi người, tự nguyện cùng cộng đồng
tham gia phòng, chống nghiện hút ma túy”.
Các văn bản trên tinh thần chung đều khẳng định tệ nạn xã hội trong đó có tệ
nạn ma túy là xấu, là trái với đạo đức và thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc.


17
Tệ nạn xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa, xã hội, an ninh trật tự, gây
ra hậu quả nghiêm trọng đến giống nòi dân tộc, tạo ra tam lý lo lắng, bất bình
trong nhân dân.
Nh vậy để đảm bảo một cuộc sống lành mạnh cho cả cộng đồng con
người bắt buộc chúng ta phải nhanh chóng chặn đứng, đẩy lùi và tiến tới xóa bỏ
tệ nạn ma túy ra khỏi xã hội.
Rõ ràng Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghiĩa Việt Nam đã và
đang lãnh đạo toàn dân đấu tranh, đấu tranh có hiệu quả chống lại tệ nạn xã hội,
coi tệ nạn ma túy là một vấn đề vô cùng cấp bách và khẩn thiết.
Việc lãnh đạo thông qua ban hành các văn bản có ý nghĩa quan trọng thể
hiện sự nâng cao về mặt nhận thức trong tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân trong

phòng, chống ma túy và tệ nạn xã hội.
Hy vọng với nỗ lực của cộng đồng ở tương lai không xa, chóng ta sẽ đẩy
lùi và tiến tới xóa sạch ma túy ra khỏi cuộc sống làm cho dân giàu, nước mạng,
xã hội văn minh hơn.
2.2. Vai trò của đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với công tác
phòng, chống tệ nạn ma túy:
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội của
Thanh niên Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ Tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện. Đoàn gồm những thnah niên tiên tiến, phấn đấu vì
mục tiêu lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong các thời kỳ đấu tranh cách mạng, Đoàn đã tập hợp đông đảo thanh
niên phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Trong thời
kỳ mới, Đoàn tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản
chất tốt đẹp của Đoàn, kế tục trung thành, kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ
vang và vinh quang của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh; tổ chức động
viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - Hiện
đại hóa đất nước, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


18
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc tham gia đấu
tranh phòng, chống ma túy và nghiện hút trong thanh, thiếu niên là nhiệm vụ
quan trọng và cần thiết. Để hướng ứng phong trào toàn dân phòng, chống các tệ
nạn xã hội thì Bộ chỉ huy Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí minh
đã lập nên Kế hoạch 116 KH/TWĐTN ( Ngày 27/12/1995 ) đề ra nội dung hoạt
động của Đoàn thanh niên cơ sở xã, phường, thị trấn tuyên truyên, vân động
đoàn viên, thanh thiếu niên xây dựng nếp sống văn hóa, bài trừ tệ nạn buôn bán,
sử dụng chất ma túy và tệ nạn xã hội ra khỏi cộng đồng.

Các hoạt động của Đoàn nhằm tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội và được triển khai thông qua thực hiện Nghị quyết liên tịch số 02
giữa Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Bộ công an ( Ngày
01/08/1998 ) về việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, tệ nạn xã hội trong thanh,
thiếu niên. Nghị quyết số 09 của Chính phủ về “ Chương trình quốc gia về
phòng, chống tội phạm”, các đề án phòng, chống tội phạm – phòng, chống ma
túy của Tỉnh và Thành phố.
Bên cạnh đó còn có nhiều kế hoạch để mở mộng đợt cao điểm vận động
phòng, chống ma túy trong thanh, thiéu niên. Điều này làm cho tổ chức Đoàn
khẳng định vị trí quan trọng của mình trong việc hỗ trợ Đảng, Chính phủ đẩy lùi
các tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng, góp phần làm trong sạch
xã hội. Đoàn tham gia phòng, chống ma túy thông qua kế hoạch chương trình cụ
thể và chủ yếu bằng các hình thức như là : Tuyên truyền, vận động, thu hút, tập
hợp thanh niên tham gia các hoạt động của tổ chức Đoàn, mở các câu lạc bộ sinh
hoạt theo chủ đề, thanh niên tình nguyện thường xuyên hoạt động tránh xa
không bị các tệ nạn xã hội lôi kéo.
Luôn định hướng tư tưởng cách mạng thông qua hành động giúp thế hệ
thanh niên làm sao sống cho tốt, sống cho đẹp, sống cho thật sự có Ých theo
mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản, cống hiến hết mình cho Tổ quốc, xây
dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, ngày càng văn minh hơn để sánh vai cúng
năm châu bốn bể.


19
CHƯƠNG II
CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÌNH HÌNH CHUNG CỦA TP THÁI BÌNH - TỈNH
THÁI BÌNH
Nghị định số 117 ngày 29/4/2004 của Chính phủ về việc thành lập thành
phố Thái Bình trực thuộc tỉnh Thái Bình.

Thành phố Thái Bình là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh Thái
Bình; có diện tích 43,3 km
2
, dân số trên 160.522 người, 80.800người trong độ
tuổi lao động, có 12 đơn vị hành chính gồm 7 phường, 5 xã.
Về tôn giáo, thành phố Thái Bình có 02 tôn giáo được UBND tỉnh thừa
nhận tư cách pháp nhân là Phật giáo và Công giáo.
Thành phố Thái Bình có trên 26 ngàn thanh niên thuộc nhiều đối tượng
khác nhau, đây là lực lượng có tầm quan trọng và cần sắp xếp, tạo cơ chế, chính
sách cụ thể, sao cho cân đối lực lượng lao động trẻ tạo tiền đề thuận lợi cho công
cuộc phát triển Chiến lược kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội của thành phố
Thái Bình để hạn chế những hậu quả tiêu cực, nặng nề để lại (Ví như thanh niên
thất nghiệp, thanh niên chậm tiến, thanh niên chây lười hoạt động, thụ động trong
công việc, trong lao động sản xuất,… Rồi nảy sinh tiêu cực và tệ nạn xã hội).
Thành phố Thái Bình có lợi thế lớn về vị trí giao thông nhờ Quốc lộ số 39
đi qua. Do đó rất thuận lợi cho giao lưu, phát triển kinh tế, xã hội, kỹ thuật văn


20
hoá không chỉ các phường trong thành phố mà còn với địa phương khác. Tuyến
đường vành đai đi qua đang dần hoàn tất và theo đó sự giao thương về kinh tế -
thương mại - văn hoá ngày một phát triển.
Hệ thống giao thông đi lại thuận tiện nối liền các huyện thị trong tỉnh và
các tỉnh thành phố thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng, có 280 cơ quan, xí
nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang trong đó có khu công nghiệp Nguyễn Đức
Cảnh, khu công nghiệp Phúc Khánh, cùng nhiều nhà máy, xí nghiệp lớn của
Trung ương. Lực lượng thanh niên công nhân ở đây đa số có tay nghề, trình độ
song cũng cần phải tạo điều kiện cho họ trong thời kỳ hội nhập.
Hàng năm, thành phố Thái Bình thu hút hàng trăm ngàn đối tượng có công
ăn việc làm từ các huyện, các tỉnh lân cận về lao động sản xuất. Điều này đã gây

nhiều điều khó khăn cho việc quản lý con người của các cấp chính quyền sở tại.
Toàn tỉnh Thái Bình có 02 trường Đại học, hơn 10 trường Cao đẳng, Trung
học và dạy nghề. Lưu lượng hàng năm có trên 20 ngàn học sinh, sinh viên ở hầu
hết các tỉnh miền Bắc từ Nghệ An trở ra đến học tập và nghiên cứu được phân
bố về tất cả các trường nói trên.
Trong những năm qua điều kiện học tập cho học sinh, sinh viên còn tồn tại
khó khăn, tỷ lệ ngoại trú khá cao ở các trường Đại học. (Trên 70% là sinh viên
ngoại trú). Các cơ quan, ban ngành sở tại luôn theo dõi, quản lý sát sao tránh
những hiện tượng dễ dãi, không lành mạnh trong cuộc sống sinh viên… Họ là
lực lượng lao động trẻ có tri thức, trình độ trong cơ cấu lao động đóng góp tối đa
cho công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Mặc dù là một địa bàn có nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế,
thương mại nhưng thực tế những năm gần đây do sức Ðp của cơ chế thị trường
gây ra nhiều ảnh hưởng và xáo trộn không nhỏ.
Tình hình chung trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của các nhà
máy, xí nghiệp, công ty, các doanh nghiệp địa phương quản lý đều gặp phải
những khó khăn, bấp bênh gây ức chế như nhiều mặt hàng ứ đọng, khó tiêu thụ


21
được nên từ đó việc muốn quay vòng vốn là hạn chế; rồi cơ chế quản lý kinh tế
thay đổi kéo theo thay đổi trong bộ máy, khung quản lý và nhân sự.
Hiện nay những thay đổi đó là: Một bộ phận không nhỏ không thể tiếp tục
công việc như ban đầu nên ngưng hoạt động sản xuất hoặc giải thể, kéo theo một
hệ quả tất nhiên là người lao động không thể sản xuất, vì không đủ năng lực
hoặc do sự nhạy bén kém không bắt kịp xu thế rồi bị sa thải, mất việc…
Những nhược điểm nói trên phần nào có tác động và ảnh hưởng trực tiếp
đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trật tự ở địa phương.
II. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG TỆ NẠN NGHIỆN
MA TUÝ TRONG THANH NIÊN CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ

CHÍ MINH THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - TỈNH THÁI BÌNH TRONG NHỮNG
NĂM QUA:
2.1. Thực trạng tệ nạn nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố Thái
Bình, tỉnh Thái Bình
Theo "Đề án phòng, chống ma tuý thành phố Thái Bình" giai đoạn 2001 - 2005
thì số người nghiện ma tuý (từ thời điểm tháng 04/2001):
Số thống kê Sè sau thống kê Tổng số người
1047 người 54 người 1101 người
Con số trên cho thấy số lượng người nghiện ma tuý trên địa bàn thành
phố Thái Bình trong khi thống kê vẫn chưa đảm bảo bao quát hết được tình hình
mà cần có công tác sau thống kê để cho kết quả tổng quát hơn.
Trong đó:
Đối tượng Số lượng người Tỷ lệ (%)
Học sinh, sinh viên 45 người 1,3%
Cán bộ công nhân viên 10 người 0,31%
Sè ca mắc nghiện là học sinh, sinh viên cao hơn so với cán bộ công nhân
viên. Đó là do môi trường khác nhau: Đối với học sinh, sinh viên môi trường
giao thiệp theo lứa tuổi và sở thích nên không loại trừ những khả năng tìm hiểu
những thứ mà người lớn cấm đoán, lứa tuổi ham tò mò…


22
Tính đến tháng 11 năm 2005 (So sánh tháng 04 năm 2001):
Địa bàn Sè ca mắc nghiện Tỷ lệ % so sánh
Tỉnh Thái Bình 3658 100% (Đơn vị so sánh)
TP Thái Bình 1047 35%
Nh vậy TP Thái Bình có số ca mắc nghiện giảm:
1158 - 1047 = 111 (người) hay là: 111 * 100% : 1158 = 9,6%
Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy các cơ quan, ban ngành hữu trách của
thành phố Thái Bình đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong công tác tuyên truyền,

đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý. Làm sao khảo sát
thật kỹ lưỡng, đưa ra các con số phù hợp nhất với thực tế, để từ đó đưa ra giải
pháp thật hữu hiệu trong phòng, chống tệ nạn ma tuý.
Trong tổng số 1047 người nghiện thì:
Hình thức Số lượng đối tượng (Người)
Trung tâm cai nghiện 50
Cơ sở giáo dưỡng 60
Đi làm ăn ở nơi khác 200
Phạt tù 231
Tập trung tại địa phương 506
Theo bảng thống kê ở trên có thể nói rằng sự quản lý của các cơ quan chức
năng chưa đủ khả năng để quản lý tất cả các đối tượng.
Bên cạnh đó vẫn còn nhiều đối tượng tập trung tại địa phương, chưa chịu
sự răn đe và quản lý chặt chẽ của pháp luật cũng đã gây ra xáo trộn nhỏ trong
đời sống nhân dân, ví như trộm cắp của cải vật chất có giá trị thấp…
Trong tổng số 1047 người nghiện ma tuý thì:
+ Về giới tính:
Thuộc giới Số lượng người Tỷ lệ ca mắc nghiện (%)
Nam
1030 99,21%
Nữ 17 0,8%


23
Ca mắc nghiện thuộc phần lớn là nam giới biểu hiện qua bảng thống kê ở
trên cho chóng ta một nhận xét: Tại sao nam giới lại dễ mắc nghiện hơn ? Đó là
vì người nam trong quan hệ giao lưu thường rộng rãi, không khắt khe và muốn
kết thành nhóm. Nam giới thể hiện bản thân mạnh hơn (Do Hor - mon của nam
giới) là nữ giới đôi khi lại quá đà, thiếu sự cân bằng…
+ Về độ tuổi:

Độ tuổi giới hạn Số lượng người Tỷ lệ %
Dưới 30 tuổi 580 57,1%
Trên 30 tuổi 450 42,9%
Có sự khác biệt này là do khác nhau về tuổi đời cho nên kinh nghiệm sống
còn thiếu, chưa hoàn toàn chấp nhận sự thất bại khi vấp ngã, những sai lầm mắc
phải khi còn trẻ gây ra sự ức chế tinh thần và muốn tìm đến những cảm giác
thoải mái, lấy lại sự tự tin nhưng thường quyết định đó lại hấp tấp mang những
sai lầm khó lường trước…
+ Về nghề nghiệp:
Đối tượng Số lượng người Tỷ lệ (%)
Vô nghề nghiệp 825 80,2%
Cán bộ công nhân viên 202 19,1%
Kinh doanh, nghề khác 20 1,7%
Bảng thống kê đã phản ánh đúng thực tế khi lao động nhàn rỗi sẽ nảy sinh
tiêu cực, đúng nh người đời có câu: "Nhàn cư vi bất thiện"…
+ Về hình thức sử dụng:
Ma tuý có thể được đưa vào cơ thể người nghiện dưới nhiều hình thức như
hút, chích, hít, ngửi, uống, tiêm, nuốt… (Cá biệt có những trường hợp nghiện
nặng, các mạch máu đã bị hư hại, người nghiện có thể rạch tay chân rồi chà ma
tuý vào những chỗ đó để ma tuý thấm vào trong máu).
Theo thống kê trên 80% con nghiện hít và tiêm chích (Số lượng này dễ bị
nhiễm HIV nhất) - Có 135 người bị nhiễm HIV/AIDS.
+ Mức độ vi phạm:


24
Trên 70% số người nghiện ma tuý có mang tiền án, tiền sự (Có 556 số
người nghiện nặng từ 5 năm trở lên). Họ được tổ chức cai nghiện dưới mọi hình
thức trên 2 lần song vẫn không từ bỏ được ma tuý. Mức độ vi phạm theo cấp
tăng dần ngày càng nghiêm trọng.

Ma tuý đang là vấn đề hết sức bức bối trong các khu dân cư sinh sống có
hay tồn tại tệ nạn xã hội, mà vấn nạn ma tuý là chủ yếu.
Vấn đề này cần sự tập trung, chỉ đạo của các bộ, ban ngành, đoàn thể để
thanh toán tận gốc nạn ma tuý. Ma tuý không chỉ hiểm hoạ của riêng một địa
phương nào mà là một hiểm hoạ của toàn thể dân tộc và toàn thế giới.
Chính vì thế mỗi người, mỗi cá nhân phải nhận thức thật chính xác và rõ
ràng trách nhiệm của cá nhân trong việc bài trừ tệ nạn ma tuý, giúp đỡ người
nghiện đi cai nghiện tái hoà nhập cộng đồng.
2.2. Nguyên nhân của thưc trạng tệ nạn nghiện hút ma tuý:
2.2.1. Nguyên nhân khách quan:
Từ khi đất nước tiến hành mở cửa nền kinh tế, một mặt làm cho nền kinh tế
đất nước thay đổi và phát triển rõ rệt; nhưng kéo theo đó các tệ nạn xã hội không
ngừng gia tăng, đặc biệt là tệ nạn nghiện hút ma tuý.
Do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, các cơ quan xí nghiệm gặp
nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, người lao động thiếu việc làm. Rất
nhiều người đi kiếm sống ở các vùng khác nên dễ bị dũ dỗ, lôi kéo và sử dụng
ma tuý.
Trêm địa bàn tỉnh Thái Bình có các khu công nghiệp như: khu công nghiệp
Nguyễn Đức Cảnh, khu công nghiệp Phúc Khánh, khu công nghiệp Tiền Hải,
cảng Diêm Điền, khu du lịch biển Đồng Châu.
Do đó hàng năm hàng ngàn đối tượng không có công ăn việc làm đến lao
động và khách du lịch đến để thăm quan, nghỉ mát. Đây cũng chính là nơi tệ nạn
ma tuý có điều kiện dễ dàng nhen nhóm phát sinh, phát triển. Mỗi khi trở về địa
phương là số nghiện lại tăng lên.


25

×