ĐỀ TÀI: Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và ý nghĩa của
việc phát huy hai phương pháp đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời đến nay, thế giới đã trải
qua những biến đổi sâu sắc. Rất nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của
những kết luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dư như: những cuộc “khủng hoảng
Tieu luan
giẫy chết” của CNTB thế giới đầu thế kỷ XX; sự ra đời của hệ thống XHCN hiện
thực; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước
TBCN; sự tan rã của hệ thống dân tộc thuộc địa…
Ngày nay, dưới sự tác động như vũ bão của cách mạng khoa học – công nghệ
và sự phát triển của kinh tế thị trường hiện đại, bức tranh thế giới đã và đang diễn ra
nhiều đổi mới trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, tư tưởng...
Tieu luan
Nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, để phù hợp với những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức
lại, bổ sung và phát triển các học thuyết đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư.
Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư và sự vận dụng vào Việt Nam trong thời kỳ đổi mới để từ đó tìm ra những kết
luận mới phục vụ cho nhiệm vụ phát triển nền kinh tế đất nước.
Tieu luan
Tieu luan
PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ 2 PHƯƠNG PHÁP GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
1. Giá trị thặng dư:
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ
nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Tieu luan
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo cũng
khơng giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư
bản vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng
trong quá trình sản xuất hàng hố lao động cụ thể của cơng nhân chuyển giá trị của
tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừu tượng của
Tieu luan
người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của mình.
Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngồi khoản bù lại giá trị sức lao động, C.Mác gọi
là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ được tiếp tục làm thuê
chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà
tư bản đã trả cho người đó dưới hình thức tiền cơng, nếu khơng sẽ bị sa thải.
Tieu luan
Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rơi ra ngồi sức lao động do cơng nhân
sáng tạo ra và nhà tư bản chiếm không.
Nhà tư bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ của mình và
gia đình mình, phần cịn lại được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khoản tích luỹ
này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái trị thặng dư hơn nữa.
Tieu luan
Chính lịng ham mê giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy nhà tư bản dám mạo hiểm
bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh.
2. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư:
Hai phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối do Mác phát
hiện không phải chỉ là đặc điểm của thời kỳ đầu của CNTB, thời kỳ công nghiệp cơ
Tieu luan
khí, mà ngày nay chúng vẫn cịn được CNTB sử dụng. Tuỳ điều kiện cụ thể mà
phương pháp bóc lột nào được coi là chủ yếu.
Thuở bình minh của CNTB khi năng suất lao động còn thấp, giá trị thặng dư
thu được chủ yếu dựa vào tăng độ dài ngày lao động và cường độ lao động, Mác gọi
là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối. Nhưng phương pháp này bị
giới hạn bởi độ dài của ngày trời và sinh lực của người lao động. Nhờ ứng dụng tiến
Tieu luan
bộ khoa học – kỹ thuật và trước sức đấu tranh của GCCN đòi giảm giờ làm việc, các
nhà tư bản đã tăng thu giá trị thặng dư chủ yếu bằng cách tăng năng suất lao động
để rút ngắn thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian người cơng nhân bù lại giá
trị sức lao động, nhờ đó mà tăng thời gian lao động thặng dư, Mác gọi là phương
pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối.
3. Tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dư:
Tieu luan
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại đã thúc đẩy
LLSX ở những nước TBCN phát triển tăng lên trình độ cao hơn trước. Nhờ đó khơng
những các tập đồn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu cao mà đời sống của
những người lao động tại xí nghiệp cũng được cải thiện, khác xa đời sống của những
công nhân dưới CNTB đầu thế kỷ XVIII.
Tieu luan
Trước thực tế đó, cộng với sự sụp đổ của mơ hình CNXH tập trung quan liêu ở
Đơng Âu và Liên Xô, nhiều người cho rằng khoa học kinh tế chính trị Mác – Lê nin,
mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư – “Hòn đá tảng” trong các học thuyết kinh
tế của C. Mác, khơng cịn đúng nữa. Bởi vậy, việc luận giải tính khoa học của học
thuyết giá trị thặng dư trong nền kinh tế hiện đại trở thành một nhiệm vụ cấp bách.
Học thuyết này không chỉ là cơ sở để hiểu rõ bản chất và xu hướng vận động của
Tieu luan
CNTB mà còn chỉ cho chúng ta con đường tạo ra LLSX của CNXH. Bởi vì CNXH,
xét về mặt LLSX, chính là bước tiến tiếp liền ngay sau chế độ độc quyền Nhà nước
TBCN. CNXH muốn tồn tại và phát triển cũng phải sản xuất ra nhiều sản phẩm
thặng dư, và trong điều kiện cịn kinh tế hàng hố, thì giá trị của những sản phẩm
thặng dư đó cũng biểu hiện ra là giá trị thặng dư. Chỉ khác là giá trị thặng dư này
khơng rơi vào túi một nhóm nhỏ những người chủ sở hữu tư bản mà được sử dụng vì
Tieu luan
phúc lợi chung của chính những người lao động trí óc và chân tay đã tạo ra giá trị
thặng dư ấy.
Trong bộ “Tư bản”, Mác đã luận chứng toàn diện quy luật vận động của
CNTB là quy luật giá trị thặng dư; sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất TBCN. Công lao vĩ đại nhất của Mác là từ phát hiện giá trị mà
đi sâu nghiên cứu bản chất, tác dụng của nó trong sự phát triển CNTB và cũng từ đó
Tieu luan
Mác đã có một cống hiến mới-theo Lênin – cực kỳ quan trọng là sự phân tích tích
luỹ tư bản tức là quá trình biến giá trị thặng dư thành tư bản, quá trình làm cho giá trị
tăng thêm giá trị thặng dư với khối lượng ngày càng tăng. Từ cái vịng tuần hồn và
chu chuyển của giá trị thặng dư mà vang dội kết luận cách mạng của Mác trong bộ
“Tư bản” rằng: các quy luật kinh tế của CNTB tất yếu dẫn đến, một mặt, sự giảm bớt
thường xuyên số trùm tư bản chiếm đoạt và lũng đoạn tất cả mọi nguồn lợi của nền
Tieu luan
sản xuất xã hội, mặt khác, làm tăng thêm số quần chúng bị bần cùng, bị áp bức, bị nô
dịch, bị đồi truỵ, bị bóc lột, đồng thời làm tăng sự phẫn nộ của giai cấp này được cơ
cấu của chính q trình sản xuất TBCN rèn luyện, liên kết và tổ chức lại; sự độc
quyền của tư bản trở thành xiềng xích của thứ phương thức sản xuất lớn lên cùng với
nó. Sự tập trung TLSX và sự xã hội hố lao động đã đạt tới mức khơng cịn phù hợp
với cái vỏ TBCN của nó nữa. Cái vỏ TBCN ấy phải nổ tung bằng một cuộc cách
Tieu luan
mạng xã hội do chính giai cấp mà CNTB đã rèn luyện, đã liên kết và tổ chức lại thực
hiện – GCCN.
Mác khi phát hiện phạm trù giá trị thặng dư đã gắn liền với việc tư bản đặc
quyền chi phối giá trị thặng dư – chạy theo lợi nhuận và công nhân đấu tranh giành
lại, tạo thành mâu thuẫn như động lực phát triển kinh tế.
Tieu luan
Từ sau đại chiến thứ hai, CNTB đã đi vào xu hướng vận dụng tư tưởng của
Mác về giá trị thặng dư, nhưng là để tìm con đường phân phối sao cho vừa tạo động
lực mạnh, nhưng tránh mâu thuẫn đối kháng trong nội bộ mỗi quốc gia, tránh chiến
tranh đế quốc, chĩa mũi nhọn vào đối thủ là hệ thống XHCN. Cịn hệ thống XHCN
với mơ hình cũ coi mâu thuẫn và động lực phát triển gắn liền với sự tạo ra và phân
phối giá trị thặng dư là riêng có của kinh tế thị trường tư bản, đã từ bỏ kinh tế thị
Tieu luan
trường. Với thiết chế đó, kinh tế CNXH trở thành nền kinh tế khơng cần tìm động
lực, do đó cũng khơng thể có tai hoạ liên quan đến sự phân phối giá trị thặng dư.
Từ hai hiện tượng đối chứng lịch sử đó, có thể nói học thuyết giá trị thặng dư
của Mác với sự phát hiện mâu thuẫn và động lực phát triển kinh tế, có ý nghĩa phổ
quát và lâu dài gắn liền với quá trình phát triển còn lâu dài của kinh tế thị truờng. Và
Tieu luan
chỉ có trong nền kinh tế thị trường, mâu thuẫn và động lực ấy mới bộc lộ hết sức
mạnh thúc đẩy của nó.
Tieu luan
PHẦN II: GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA LÝ LUẬN VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP
GTTD TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY.
1. Sự cần thiết phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển học thuyết
GTTD:
Mặc dù những tư tưởng, nội dung và phương pháp nghiên cứu lý luận giá trị
thặng dư của Mác, về cơ bản, còn giá trị trong thời đại ngày nay, tuy nhiên vẫn cần
Tieu luan
được nhận thức lại, bổ sung và phát triển. Ngày nay điều kiện lịch sử đã có nhiều
thay đổi khác xa so với điều kiện lịch sử của những năm sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai, chứ chưa nói đến thế kỷ 19 mà Mác đã nghiên cứu. Do vậy, để tránh mắc sai
lầm mang tính giáo điều, rập khn, duy ý trí, một số kết luận của Mác trong điều
kiện lịch sử cũ lại dựa trên phương pháp giả định gắn với mục đích nghiên cứu
CNTB cổ điển không nên hiểu và vận dụng nguyên si. Hơn nữa, đọc và hiểu đúng
Tieu luan
nội dung lý luận giá trị thặng dư trong bộ “Tư bản” là việc khơng phải ai cũng làm
được. Vì vậy mà phải có sự nghiên cứu cụ thể để rút ra những kết luận mới cho
những trường hợp cụ thể.
Ngày nay mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị
thặng dư nói riêng đã có sự thay đổi. Nếu trước đây mục đích nghiên cứu của kinh tế
chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị
Tieu luan
thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp
hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta cịn có mục đích nghiên
cứu, khai thác bộ “Tư bản” với tư cách một sách phong phú và sâu sắc về kinh tế thị
trường để xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội ở nước ta. Do đó cần phải thay
đổi một số yếu tố và phạm trù kinh tế phù hợp với hồn cảnh hiện tại.
2. Tính thực tiễn của hai phương pháp sản xuất GTTD:
Tieu luan