Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và ý nghĩa của việc phát huy hai phương pháp đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.58 KB, 21 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của đề tài:
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác. V.I.
Lênin đã chỉ rõ: “Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế
của Mác”, mà học thuyết kinh tế của Mác lại là nội dung chủ yếu của học thuyết
của chủ nghĩa Mác.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Học thuyết đã vạch trần thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa
và cội nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Phát hiện giá
trị thặng dư đã làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế,
vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản.
Với việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư, đặc biệt là hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư vào việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của nước ta hiện nay, điều này có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng nền kinh tế, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, chúng em đã quyết định chọn đề tài: “Hai phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư và ý nghĩa của việc phát huy hai phương pháp đó trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam” cho bài tiểu luận của mình, để nghiên cứu kỹ hơn và thấy được
những điểm mới trong đó, vận dụng vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng
xã hội chủ nghĩa.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư dựa theo học
thuyết Kinh tế Mác – Lenin, từ đó phát hiện ra những điểm mới, vận dụng vào
công cuộc xây dựng đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của nước ta.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Bài tiểu luận nghiên cứu những nội dung về học thuyết kinh tế, học thuyết giá trị
thặng dư, đặc biệt là hai phương thức sản xuất giá trị thặng dư nằm trong giáo trình
được học. Bên cạnh đó kết hợp với việc mở rộng, tìm hiểu thêm từ các nguồn tư


liệu bên ngoài để hoàn thiện sâu sắc hơn nội dung trên.

1


4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài tiểu luận được nghiên cứu dựa trên tài liệu, giáo trình, kết hợp hệ thống
phương pháp luận, biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và
phương pháp nghiên cứu lý luận.
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung tiểu
luận của chúng em được chia làm 3 chương, với 7 tiết:
-

Chương 1: Lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư.
Chương 2: Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong
nền kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt
Nam.

PHẦN NỘI DUNG
2


Chương 1: Lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư.
1.1, Tư bản và giá trị thặng dư.
1.1.1, Tư bản.

- Nguồn gốc:
Theo phép duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại và phát triển của
mọi sự vật hiện tượng, thơng qua q trình vận động sự vật bộc lộc ra bản chất của
nó. Do đó sự ra đời của tư bản là bởi sự vận động của các nhân tố kinh tế trên thị
trường, mà nguồn gốc sâu ra là do sự xuất hiện của giá trị thặng dư.
-Bản chất:
Xét về hình thức, bản chất của tư bản là giá trị nhằm mục đích mang lại giá trị
thặng dư, thơng qua việc bóc lột sức lao động của cơng nhân.
-Công thức chung của tư bản:
Trước hết, C.Mác nghiên cứu sự chuyển hóa của tiền thành tư bản. Thơng qua sự
phân tích phân biệt tiền thơng thường và tiền là tư bản từ hai công thức: H-T-H và
T-H-T’, Mác khẳng định: Tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột
lao động của người khác. T-H-T là cơng thức chung của tư bản vì mọi tư bản dù
kinh doanh trong ngành nào (công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng…) đều vận
động theo công thức chung. Bất cứ tiền nào vận động theo cơng thức T-H-T đều
được chuyển hóa thành tư bản. Do mục đích của lưu thơng hàng hóa giản đơn là
giá trị sử dụng nên vịng lưu thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao
đổi đã có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng của
tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là
giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động
trở nên vơ nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức
vận động, đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền vượt
trội hơn so với số tiền ứng ra, C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Vậy, tư bản là giá trị
mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thơng T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị,
là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là khơng có giới hạn, vì sự lớn lên của
giá trị là khơng có giới hạn.
1.1.2, Giá trị thặng dư.
- Nguồn gốc:
3



Giá trị thặng dư (m) chính là một phần của giá trị mới (v+m) do sức lao động của
công nhân tạo ra, dôi ra so với giá trị sức lao động và bị tư bản chiếm đoạt. Hay
nói cách khác, giá trị thặng dư là thời gian lao động không cơng của cơng nhân.
Điều này phản ánh bản chất bóc lột của tư bản đối với công nhân làm thuê.
Khi nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác chỉ rõ giá trị thặng dư là lao
động không công của công nhân cho nhà tư bản chỉ được tạo ra trong q trình sản
xuất nhờ tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao động. Đồng thời C.Mác khẳng
định rằng: Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản. Quy luật giá trị thặng dư đòi hỏi sản xuất giá trị thặng dư ngày càng nhiều cho
các nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê trên cơ sở mở rộng
sản xuất và phát triển kỹ thuật.
- Bản chất:
Giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mang bản chất kinh
tế - xã hội là quan hệ giai cấp. Trong đó, giai cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên
cơ sở thuê mướn lao động của giai cấp công nhân. Ở đó, mục đích của nhà tư bản
là giá trị thặng dư, cịn người cơng nhân bán sức lao động của mình cho nhà tư bản
ấy.
- Cơng thức chung:
Giá trị thặng dư (m) = Giá trị của hàng hóa – Chi phí sản xuất.
Như vậy, thoạt nhìn, việc mua bán sức lao động cũng giống như mua bán các hàng
hóa thông thường khác, nhưng ẩn sau quan hệ “thuận mua vừa bán” đó là sự bóc
lột tinh vi của nhà tư bản đối với người cơng nhân. Do đó, “sản xuất giá trị thặng
dư” chỉ là sự bóc lột lao động không công của công nhân một cách tinh vi của nhà
tư bản.
Bên cạnh đó, C. Mác chỉ ra có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và tương đối, đồng thời chỉ ra sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến
tướng của sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, vì: Quy luật này khơng những vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư bản chủ

nghĩa là sản xuất giá trị và giá trị thặng dư mà còn vạch rõ phương thức mà các nhà
tư bản sử dụng để kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động và tăng năng suất
lao động để tăng cường bóc lột cơng nhân làm thuê.

4


Quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận động của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa.
1.2, Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Cách thức:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
-Tác dụng:
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động, thời gian lao động thặng dư tăng lên tuyệt đối, do đó tạo ra giá trị thặng
dư tuyệt đối. Và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà
tư bản.
-Đặc điểm:
Mặc dù sức lao động của cơng nhân là hàng hóa, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể
sống của con người. Vì vậy, ngồi thời gian cơng nhân làm việc cho nhà tư bản
trong xí nghiệp, người cơng nhân địi hỏi phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi
nhằm tái sản xuất sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hóa đặc biệt, vì
vậy ngồi yếu tố vật chất, người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời gian cho
những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tơn giáo của mình. Từ đó tất yếu
dẫn đến phong trào của giai cấp vơ sản đấu tranh địi giai cấp tư sản phái rút ngắn
thời gian lao động trong ngày.
Giai cấp tư sản thì muốn kéo dài thời gian lao động trong ngày, cịn giai cấp cơng

nhân lại muốn rút ngắn thời gian lao động, do đó độ dài ngày lao động có thể co
giãn và việc xác định độ dài ngắn ấy phụ thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc
đấu tranh giữa hai giai cấp đó. Điểm dừng của độ dài ngày lao động là điểm mà ở
đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực
hiện theo một thỏa hiệp tạm thời. Cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân địi ngày
lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình, nhà tư
bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người cơng nhân. Vì tăng cường độ
lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian

5


nhất định. Nên tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài
ngày lao động.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu
nền sản xuất tư bản, với việc phổ biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao
động thấp.
Sau sự thất bại trong cuộc đấu tranh với giai cấp công nhân, giai cấp tư sản tiếp tục
tìm cách bóc lột người lao động tạo ra giá trị thặng dư, dưới một hình thức mới
tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
1.3, Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Cách thức:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi biện
pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và cơng nghệ vào trong q trình sản xuất để
nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị

trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong những
ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công
nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
-Tác dụng:
Sự ra đời và phát triển rộng rãi của máy móc đã làm tăng cho năng suất lao động
tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các cơng cụ thủ cơng, vì
cơng cụ thủ cơng là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng sức lao
động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi lao động bằng
máy móc sẽ khơng gặp phải những hạn chế đó. Vì thế khi sử dụng máy móc đã làm
cho năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị sinh hoạt, làm hạ thấp giá
trị hàng húa sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian lao
động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn.
-Đặc điểm:
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu.
6


Phương pháp giá trị thăng dư tương đối ngày càng được nâng cao do các cuộc cánh
mạng khoa học đã đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử lồi người, đã
hình thành các ngun lý cơng nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ
sản xuất, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người sang một nền
văn minh mới - nền văn minh trí tuệ.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất theo
chiều sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế cho lao động giản đơn. Để có lợi
ích cho mình các nhà tư bản buộc phải chú trọng đến nhân cách sáng tạo của lao
động làm thuê. Điều đó chứng minh rằng lao động trí óc, lao động có trình độ kĩ
thuật cao ngày càng có vai trị quyết định đến sản xuất giá trị thăng dư.
*Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được do áp dụng cơng nghệ

mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị thị trường của nó.
Xét trong từng trương hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nó sẽ
bị mất đi khi cơng nghệ đó đã được phổ biến rộng dãi, nhưng xét phạm vi toàn xã
hội thì đây là một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch
là kì vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến
kĩ thuật, hợp lý húa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội
tăng lên nhanh chóng. Bởi vậy C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng
của giá trị thăng dư tương đối.
Nhận xét:
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất
giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực
lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua
ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó
cũng là q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm th trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc khơng
phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để
tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao
động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho
cường độ lao động cơ bắp.
7


Chương 2: Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong
nền kinh tế Việt Nam.
2.1, Giai đoạn trước đổi mới 1986.
Sau khi miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng

Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức và tháng
12 năm 1976. Tại đây, Đại hội quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Trong đó quyết định áp dụng chế độ kế
hoạch hóa tập trung. Đây là mơ hình chung ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt
Nam nó được thực hiện theo một công thức chung do Lê Duẩn sáng tạo, đó là:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Công nghiệp nặng
được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhà
nước độc quyền về kinh tế đối ngoại.
*Đặc điểm mơ hình tổ chức kinh tế:
Trước năm 1986, kinh tế Việt Nam là kinh tế bao cấp. Kinh tế bao cấp là nền kinh
tế chỉ bao gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và cá thể, mà giữ vai trò
chủ đạo là kinh tế quốc doanh. Trong thời kì này, khơng tồn tại kinh tế tư nhân,
khơng có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, phủ định kinh tế tư nhân, Nhà nước nắm giữ mọi cơ sở kinh
tế, các cơ sở kinh tế được quản lý bởi kế hoạch chỉ huy của Nhà nước,…
Thời kỳ này, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với
những đặc điểm chủ yếu là:
+, Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tưm
tiền vốn định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy nhân sự, tiền lương,…đều do các cấp
có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư
cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà
nước bù, lãi thì nhà nước thu.
+, Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và
pháp lý đối với các quyết định của mình, những thiệt hại vật chất do các quyết định

8


gây ra thì ngân sách phải chịu. Các doanh nghiệp khơng có quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh, cũng khơng bị rang buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất. kinh
doanh.
+, Thứ 3, quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu.Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Vì vậy
rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh, sáng chế, tư liệu sản
xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
+, Thứ 4, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan lieu nhưng lại
được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
-Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
+, Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực của chúng trên thị trường.Do đóm hạch tốn
kinh tế chỉ là hình thức.
+, Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm
tiêu dung cho cán bộ, cơng nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế
độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá trị thị trường đã biến chế độ tiền
lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
+, Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế tài rang
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tang
gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy
sinh cơ chế “xin-cho”.
*Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Ở giai đoạn này cơ bản không tồn tại tư bản và giá trị thặng dư cùng hai phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư, do kinh tế tư nhân bị bài trừ, phủ nhận.
*Kết quả đạt được:

Trong 5 năm 1976-1980, trên mặt trận kinh tế, nhân dân Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng, tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980
chưa tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền
kinh tế quốc dân còn trầm trọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng
của xã hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ khơng ổn định; đời sống của nhân
9


dân lao động cịn khó khăn. Lịng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng
và sự điều hành của Nhà nước giảm sút.
Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhiều Nghị
quyết và Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng
bước sửa đổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư
nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp. Trước đó, từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ V
(1982), bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận
miền Bắc tồn tại 3 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể và cá thể; miền Nam
tồn tại 5 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư
nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh
doanh, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Với những bước đi đổi mới từng phần theo những chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, những sáng kiến, sự năng động, sáng tạo của nhân dân của
các địa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho nền kinh tế Việt Nam
những năm 1981-1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực bình quân
mỗi năm đạt 17 triệu tấn, sản lượng cơng nghiệp tăng bình qn 9,5%/năm. Thu
nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4%. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
được xây dựng đáng kể với hàng trăm cơng trình tự động hóa và hàng nghìn cơng
trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ
khí, dệt, giao thông. Về năng lực sản xuất, đã tăng thêm 456.000 kW điện, 2,5 triệu
tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33.000 tấn sợi, 58.000 tấn giấy, thêm 309.000 ha
được tưới nước, 186.000 ha được tiêu úng.

Tuy nhiên, tình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân giai đoạn này vẫn cịn nhiều
khó khăn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn trầm trọng mà biểu hiện là: kinh tế tăng
trưởng thấp và thực chất khơng có phát triển. Nếu tính chung từ năm 1976 đến
1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng năm chỉ tăng ở mức 4,6%;
thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm chỉ tăng 3,7%, trong khi tỷ lệ
dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; khơng có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế vì
làm khơng đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân
sử dụng; siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ
hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và giao động ở mức
19-92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7% và đời sống
nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
2.2, Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay.

10


Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khố V (6/1986) đã đánh giá tình
hình sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9/1985) và khẳng định chính thức đổi mới
cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi mới của
Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ.
*Đặc điểm mơ hình tổ chức kinh tế:
Nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường, phát triển kinh tế cá thể, tư nhân, các cơ sở kinh tế tự chủ độc lập, hợp
tác xã cơng nghiệp, xóa bỏ chế độ bao cấp, cổ phần hóa DN Nhà nước, hội nhập
kinh tế quốc tế, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngồi, thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước…
-Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh
tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,

kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi), nhiều hình thức sở hữu
(sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp), tuy nhiên kinh
tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
-Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là nền kinh tế thị
trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn
tay: thị trường và nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy tính tối ưu trong
phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thơng qua cạnh tranh, mặt khác,
sự quản lý của nhà nước giúp tránh được những thất bại của thị trường như lạm
phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế,…
-Định hướng xã hội chủ nghĩa: được hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế.
-Nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa sang mở cửa, hội nhập với thế giới.
* Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Sự đổi mới trong tư tưởng phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho hai phương thức sản xuất giá trị thặng dư
phát triển, đặc biệt trong kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.
*Kết quả đạt được:

11


Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh
chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở
thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng
2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ
nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua
ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm
86%...
Nền kinh tế lớn thứ 6/11 trong khu vực Đông Nam Á, lớn thứ 44 trên thế giới xét
theo quy mô GDP danh nghĩa hoặc lớn thứ 35 nếu xét GDP theo sức mua tương

đương (theo các số liệu thống kê của năm 2019), đứng thứ 130 xét theo thu nhập
bình quân đầu người theo danh nghĩa hoặc đứng thứ 122 nếu tính GDP bình qn
đầu người theo sức mua tương đương. Tổng sản phẩm nội địa GDP năm 2019 đạt
261,6 tỷ USD theo danh nghĩa thực tế hoặc 647,3 tỷ USD tính theo sức mua tương
đương. Thu nhập bình quân đầu người đạt mức 2,740 USD/người, xếp hạng 7/11 ở
Đông Nam Á theo danh nghĩa (ước tính 2019) hoặc 8,677 USD/người, xếp hạng
8/11 ở Đơng Nam Á theo sức mua (thống kê 2020).
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh: GDP bình quân đầu người năm 1991 chỉ là 188
USD/năm. Đến năm 2003, GDP bình quân đầu người đạt 471 USD/năm và đến
năm 2017 GDP đầu người đạt gần 2.985 USD/năm. Lực lượng sản xuất có nhiều
tiến bộ cả về số lượng và chất lượng.
Cơ cấu kinh tế của Việt Nam bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại, giảm khu
vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn; hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước
được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số
lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được Đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới
được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về
số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong 30 năm, từ 1986-2016, Việt Nam thu hút được 310 tỷ USD của các nhà đầu
tư nước ngoài, nguồn vốn này đã góp phần lớn làm tăng trưởng nền kinh tế Việt
Nam.
Tuy nhiên, các chỉ số quan trọng về kinh tế của Việt Nam hiện vẫn ở mức thấp so
với khu vực và thế giới. GDP bình quân đầu người thấp hơn 4 lần so với GDP bình
quân đầu người chung của thế giới. Năng suất lao động, chỉ số sáng tạo của nền
kinh tế, chỉ số tự do kinh tế, chỉ số hấp thụ FDI thấp hơn nhiều các nước khu vực.
12


Tỷ lệ lao động nam và nữ chưa qua đào tạo của Việt Nam ở mức khoảng 80%.
Trình độ cơng nghệ của Việt Nam lạc hậu 2-3 thế hệ so với thế giới và vài chục

năm so với khu vực, đa số doanh nghiệp đang sở hữu công nghệ rất lạc hậu và máy
móc hết khấu hao. Tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp tư nhân trong GDP cịn ở
mức thấp, trong khi tỷ lệ tham nhũng ở mức cao. Trong 30 năm, Việt Nam thành
cơng trong việc xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân nhưng thất
bại trong mục tiêu cơng nghiệp hóa vào năm 2020 như Đảng Cộng sản Việt Nam
đề ra khi bắt đầu Đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đặt mục tiêu hồn
thành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam vào năm 2030.
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt
Nam.
3.1, Mục tiêu.
- Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
+, Trước hết cần phát huy khả năng tạo việc làm; Hạn chế sự lạm dụng sức lao
động của công nhân;
+, Trả lương xứng đáng với sức lao động do công nhân bỏ ra; Đảm bảo việc làm và
thời gian lao động phù hợp; Có những chính sách và các tổ chức bảo vệ quyền lợi,
sức khỏe,…của công nhân;
+, Hỗ trợ công nhân, người lao động các mặt trong đời sống như ăn ở, giáo dục, y
tế, bảo hiểm, sinh hoạt văn hóa và tinh thần,… để cơng nhân an tâm làm việc;
+, Có chế độ thưởng, tăng lương, nghỉ phép, chế độ phúc lợi xã hội đầy đủ, hợp
lí…;
+,
Tuy sản xuất giá trị thặng dư nhưng khơng bóc lột sức lao động của công nhân và
người lao động;…
- Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:

13


+, Các doanh nghiệp cần chủ động, năng động, sáng tạo, hội nhập quốc tế, học hỏi,

tiếp thu những tri thức mới, liên tục cập nhật những tiến bộ khoa học công nghệ
trên thế giới;
+, Doanh nghiệp và nhà nước cần chú động đầu tư vào nghiên cứu và cải tiến khoa
học cơng nghệ, máy móc thiết bị sản xuất; Có phương pháp quả trị hiện đại, nâng
cao năng suất lao động, sức cạnh tranh và hạn chế sự phân phối bất bình đẳng; Đổi
mới tư duy, hướng tới sự sáng tạo, linh hoạt, thích nghi với sự thay đổi liên tục của
môi trường, hướng tới tư thế sẵn sàng cạnh tranh, hội nhập để tránh bị lạc hậu, trì
trệ;
+, Doanh nghiệp cần đảm bảo chế độ phúc lợi và bảo hiểm cho công nhân, người
lao động, bảo vệ quyền lợi của công nhân;
+, Đào tạo đội ngũ cán bộ, cơng nhân viên có trình đội kỹ thuật cao, có năng lực
sáng tạo, tự học hỏi và khả năng nắm bắt, hội nhập;
+, Tạo ra môi trường làm việc thân thiện, hiện đại, văn minh, xây dựng văn hóa
doanh nghiệp;
+, Cần có những hướng đi đúng đắn, sản xuất tư bản nhưng vẫn gắn với việc bảo
vệ quyền lợi của người lao động, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa…
3.2, Một số khuyến nghị.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do vậy “cách tổ
chức của kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng mang tính quá độ.
Nghĩa là, trong cùng một nền kinh tế vừa có kinh tế hàng hố vì lợi ích của nhân
dân, vừa có kinh tế hàng hố vì lợi ích của tư nhân.
* Đối với Nhà nước:
+, Hiểu rõ mục đích, bản chất động lực của kinh tế tư nhân, để có chính sách thích
hợp, vừa khuyến khích nó phát triển, vừa có chính sách quản lý và điều tiết hợp lý
để sử dụng kinh tế tư nhân phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
14


Khuyến khích kinh tế tư nhân để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủn ghĩa. Có chính sách đúng đắn và bảo đảm mức lợi nhuận thỏa đáng cho tư
nhân. Đây không chỉ là một khoản “cống nộp” mà cịn phải coi là một khoản “học
phí” để có cơ hội tiếp xúc với trang thiết bị và công nghệ hiện đại, với phương
pháp tổ chức quản lý tiên tiến, có hiệu quả.
+, Cần đầu tư hơn nữa cho nghiên cứu và phát triển khoa công nghệ, chú trọng
cơng tác giáo dục, thực hiện chính sách thu hút người lao động có trình độ cao,
tránh nguy cơ chảy máu chất xám,… Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở
hữu trí tuệ phù hợp với Việt Nam hiện nay, bảo vệ lợi ích của nước mua cơng nghệ,
đồng thời khuyến khích sự sáng tạo từ trong nước.
+, Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong công
nghiệp nhằm phát triển mạnh kinh tế hàng hố. Cơng nhận tồn tại lâu dài của các
thành phần kinh tế trong q trình cơng nghiệp hố và sử dụng rộng rãi các thành
phần kinh tế theo nguyên tắc thành phần nào sản xuất cái gì có lợi hơn thì phát huy
thành phần đó. Chỉ duy trì và phát triển một số ít xí nghiệp quốc doanh ở các “đài
chỉ huy” của nền kinh tế, cổ phần hoá phần lớn xí nghiệp quốc doanh và thực sự
cởi trói để nó có thể hoạt động năng động và có hiệu quả. Phát triển rộng rãi các
thành phần kinh tế ngồi quốc doanh, vì Nhà nước khơng phải đầu tư mà vẫn thu
được tích luỹ, lao động có thêm việc làm, xã hội có thêm hàng hố. Đối xử bình
đẳng với các thành phần kinh tế cả về mặt chính trị, kinh tế, xã hội.
+, Mở cửa rộng rãi nhằm hội nhập quốc tế, gắn nền công nghiệp nước ta với nền
công nghiệp thế giới, nhất là nền công nghiệp của các nước láng giềng. Vận dụng
mọi hình thức có thể như hình thức đầu tư 100%, lập các “đặc khu kinh tế” nhằm
thu hút mạnh vốn đầu tư và kỹ thuật của nước ngoài. Gắn xuất khẩu với nhập khẩu,
tiến tới xây dựng và phát triển một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị cao,
khối lượng lớn, chất lượng tốt. tạo điều kiện cho việc mở cửa như đổi mới tư duy
an ninh và tư duy đối ngoại, khắc phục tình trạng lạc lõng của mình đối với thế
15


giới, hồn chỉnh hệ thống luật pháp và chính sách về kinh tế đối ngoại, xây dựng

kết cấu hạ tầng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm kinh tế đối ngoại và kinh
doanh đối ngoại…
+, Khẩn trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế cùng với đổi mới về kinh
doanh. Có kế hoạch đào tạo lại và đào tạo cán bộ cho ngành công nghiệp: cán bộ
quản lý nhà nước, cán bộ quản lý kinh doanh và cán bộ khoa học kỹ thuật; xây
dựng cho được một đội ngũ cơng nhân lành nghề.
+, Có những chế độ, chính sách, quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cơng
nhân và người lao động; u cầu các doanh nghiệp đảm bảo phúc lợi xã hội và
tham gia đầy đủ bảo hiểm cho công nhân, người lao động.
+, Khuyến khích giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao nhận
thức của người lao động, mở them nhiều lớp dạy nghề.
* Đối với doanh nghiệp:
+, Ứng dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hướng tới tạo ra nhiều giá trị
thặng dư, đem lại nguồn lợi nhuận cao, tuy nhiên không đồng nghĩa với việc bóc
lột sức lao động của cơng nhân; Hạn chế làm tang ca, them giờ (nếu có cần trả cho
công nhân mức lương xứng đáng và đầy đủ).
+, Chi trả mức lương xứng đáng với sức lao động do công nhân bỏ ra.
+, Thực hiện đầy đủ phúc lợi xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân, người lao động,
đảm bảo quyền lợi của công nhân.
+, Năng động, sáng tạo, hội nhập quốc tế, liên tục ứng dụng và cập nhật khoa học
kỹ thuật tiên tiến trên thế giới vào sản xuất, tang năng suất lao động; Sẵn sàng
thích nghi với sự biến động của thị trường, sẵn sàng cạnh tranh.
+, Tạo ra môi trường lao động thân thiện, văn hóa doanh nghiệp hiện đại.
+, Đào tạo đội ngũ cán bộ, quản lý, cơng nhân có trình độ chuyên môn cao, sáng
tạo, hội nhập.

16


*Đối với người lao động: Với đặc trưng nguồn lao động trẻ, có tính sáng tạo, có

tay nghề, chịu được áp lực. Tuy nhiên cịn tác phong chậm chập, trì trệ. Do đó,
người lao động cần:
+, Chỉn chu về ý thức, tác phong làm việc, lao động tự giác, sáng tạo, có ý thức kỷ
luật tốt, tơn trọng pháp luật.
+, Tham gia đầy đủ nghĩa vụ thuế,… theo quy định của pháp luật.
+, Có nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân; Có tinh thần đấu
tranh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+, Khơng ngừng cố gắng, học tập, sáng tạo, nâng cao trình độ và năng suất lao
động, làm chủ công việc, làm chủ bản thân, tiến tới hội nhập với thế giới.

17


PHẦN KẾT LUẬN
Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù
nền kinh tế hàng hóa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản
xuất hàng hóa thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến
gái trị và giá trị thặng dư, cùng sự vận động và việc vận dụng hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư vào thực tiễn nền kinh tế. Do vậy, việc nghiên cứu tính phổ
biến và tính đặc thù của nền sản xuất hàng hóa tư bản, nghiên cứu những phạm trù,
quy luật, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và việc sử dụng chúng trong nền
kinh tế hàng hóa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn ở
Việt Nam, nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
trong nền kinh tế tri thức. Đó chính là cơ sở lý luận cho q trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

18



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính
trị Quốc gia sự thật.
/> /> /> /> /> /> /> />
MỤC LỤC

19


Nội
Trang

dung

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận của học thuyết kinh tế Mác-Lênin về hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
1.1, Tư bản và giá trị thặng dư.
1.2, Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
1.3, Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Chương 2: Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư trong nền kinh tế Việt Nam
2.1, Giai đoạn trước đổi mới 1986.
2.2, Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay.
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm phát huy tác dụng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tại Việt Nam
3.1, Mục tiêu.
3.2, Một số khuyến nghị.
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

20



×