Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Luận văn: Những biện pháp để duy trì và phát triển việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9002 ở Công ty da giầy Hà Nội ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.53 KB, 102 trang )





Luận văn

Những biện pháp để duy trì
và phát triển việc áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng
theo ISO 9002 ở Công ty da
giầy Hà Nội


2
LỜI NÓI ĐẦU
Các thay đổi gần đây trên thế giới đã tạo ra những thách thức mới trong kinh
doanh khiến các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng. để
thu hút khách hàng, các Công ty cần phải đưa chất lượng vào nội dung quản lý.
Ngày nay, hầu hết các khách hàng, đặc biệt là các Công ty lớn đều mong muốn
người cung ứng cung cấp những sản phẩm có chất lượng thoả mãn và vượt sự kỳ
vọng của họ. Các chính sách bảo hành hay sẵn sàng đổi lại sản phẩm không đạt yêu
cầu từng được coi là chuẩn mực một thời, nay cũng không đáp ứng nhu cầu vì điều
kiện này chỉ có nghĩa là chất lượng không được ổn định.
Đối với nước ta, nhận thức về tầm quan trọng của quản lý chất lượng trong sản
xuất kinh doanh đã được nâng lên một cách đáng kể trong thời kỳ đổi mới. Trước
đây, vấn đề chất lượng chỉ mới được coi là quan trọng trong nhận thức chung, được
thể hiện trong các văn bản của Đảng và nhà nước và trong các hoạt động của một
vài cơ quan nhà nước và những doanh nghiệp có ý thức trách nhiệm cao, còn trong
thực tế thì đa số các doanh nghiệp vẫn lấy chỉ tiêu số lượng là chủ yếu, mục tiêu
chất lượng và liên quan với nó là việc tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường bị sao
nhãng.


Bước vào cuộc cạnh tranh với những thành công chật vật, những thất bại cay
đắng trong nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu nhận thấy vai trò
cực kỳ quan trọng của chất lượng sản phẩm, bắt đầu thấy được sự sống còn của
mình phụ thuộc rất nhiều vào việc mình có nắm bắt được nhu cầu thị trường, của
người tiêu dùng hay không và việc liệu mình có cách nào để cải tiến và nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Từ sự chuyển hướng trong nhận thức, hàng loạt biến đổi quan trọng đã diễn ra
trong thực tiễn sản xuất kinh doanh ở nước ta trong thập niên vừa qua, thể hiện ở sự
đa dạng phong phú của hàng hóa với chất lượng và hình thức được cải tiến đáng kể,
bắt đầu lấy lại được sự đồng tình, ủng hộ của người tiêu dùng trong nước, mở rộng


3
được diện xuất khẩu ra nước ngoài. Có thể nói sự chuyển biến trong nhận thức từ
việc coi trọng các yếu tố số liệu đơn thuần sang việc coi trọng các yếu tố chất lượng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một chuyển hướng có tính cách mạng và
chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả lớn lao về kinh tế cho đất nước, đảm bảo sự phát
triển lành mạnh bền vững.
Đây là nhân tố cơ bản nhất quyết định việc liệu các doanh nghiệp Việt Nam có
đủ khả năng cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài ngay trên thị trường bản địa
không? Liệu sản phẩm của Việt Nam có vươn tới các thị trường nước ngoài và giữ
được vị trí bình đẳng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của tiến trình thương mại hoá
toàn cầu không? Và liệu ta có mong muốn ước mơ một ngày nào đó bằng con
đường chất lượng Việt Nam sẽ tạo nên “sự thần kỳ trong phát triển kinh tế xã hội”
của đất nước giống như những điều mà người Mỹ đã làm vào nửa đầu thế kỷ 20,
người Nhật đã làm vào nửa cuối thế kỷ 20 và người Trung Quốc cùng những ai nữa
hiện đang làm và sẽ làm trong thời gian tới?
Công cuộc đổi mới của nước ta trong thập niên vừa qua đã tạo ra một bước khởi
đầu thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam chuyển sang quỹ đạo chất lượng, và
một loạt doanh nghiệp nhậy bén của ta đã kịp thời chuyển sang xuất phát điểm này

để chuẩn bị vươn tới tầm xa, tầm cao trong thế kỷ 21. Nhưng liệu bước khởi đầu tốt
đẹp này có được duy trì, củng cố và phát triển rộng rãi trong mọi doanh nghiệp của
đất nước hay chỉ dừng lại ở một số doanh nghiệp tiêu biểu, bừng sáng hay là lụi
tàn? Kết quả trong tương lai phụ thuộc nhiều vào quyết tâm của chúng ta và vào
cách mà chúng ta giải quyết vấn đề chất lượng sản phẩm, vào khả năng mà chúng
ta có thể “điều khiển” được vấn đề này như thế nào trong bối cảnh phức tạp của
cạnh tranh toàn cầu với nhiều cơ hội và thách thức đang chờ ta ở phía trước.
Là một doanh nghiệp được thành lập theo quyết định 398/CNN ngày 29/4/1993
của bộ công nghiệp nhẹ (nay là bộ công nghiệp), công ty Da giầy Hà Nội đã dần
khắc phục được khó khăn để đứng vững và ngày một khẳng định mình.


4
Để hoà nhập với xu thế chung của thế giới, đảm bảo và cải tiến liên tục chất
lượng sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước cũng như xuất khẩu, Công ty cần
phải quan tâm đến vấn đề chất lượng hơn nữa. Chính vì thế mô hình quản lý chất
lượng đã được Công ty nghiên cứu và bắt tay vào xây dựng đầu năm 1999. Mô
hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 đã được Công ty xây
dựng và áp dụng thành công và bước đầu đã phát huy hiệu quả thiết thực.
Tuy nhiên đây mới chỉ là những thành công bước đầu. Để cho hệ thống đó thực
sự có hiệu lực và tiếp tục phát huy hiệu quả, công tác duy trì, phát triển và mở rộng
hệ thống quản lý chất lượng đã xây dựng là đòi hỏi thiết yếu đặt ra đối với Công ty.
Chính vì lý do trên trong quá trình thực tập và nghiên cứu tình hình hoạt động ở
Công ty da giầy Hà Nội tôi đã lựa chọn đề tài:
“Những biện pháp để duy trì và phát triển việc áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo ISO 9002 ở Công ty da giầy Hà Nội”
để nhằm góp phần nhỏ bé của mình tìm ra những quan điểm, phương hướng và
biện pháp để duy trì và phát triển hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9002 của
Công ty.
Đề tài gồm có 3 phần chính:

Phần I: những vấn đề lý luận chung về ISO 9000:2000.
Phần II: Thực trạng việc xây dựng và áp dụng HTQLCL ISO 9002 ở Công ty da
giầy Hà Nội.
Phần III: Một số giải pháp nhằm duy trì và phát triển việc áp dụng HTQLCL
ISO 9002 ở Công ty da giầy Hà Nội.





5


PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ISO 9000:2000
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT
NAM.
1. Lịch sử phát triển quản lý chất lượng trên thế giới trong thế kỷ 20.
Có thể nói những nguyên tắc về kiểm tra đã xuất hiện ở một số nước từ thời cổ
đại, tuy nhiên các khái niệm hiện đại về hệ thống chất lượng, về quản lý chất lượng
thì mới chỉ xuất hiện trong khoảng 50 năm qua. Như vậy, sự phát triển của quản lý
chất lượng đã trải qua một quá trình lâu dài trong nhiều thế kỷ, từ những hình thức
đơn giản, sơ khai đến phức tạp, từ thấp tới cao, từ hẹp tới rộng, từ thuần tuý kinh
nghiệm tới cách tiếp cận khoa học, từ những hoạt động có tính chất riêng lẻ cục bộ
tới sự phối hợp toàn diện, tổng thể có tính hệ thống.
Về các giai đoạn phát triển của hệ thống quản lý chất lượng, các chuyên gia chất
lượng ở các nước còn có sự phân chia khác nhau, nhưng xu hướng chung thường có
sự trùng khớp. Về đại thể có thể phân chia sự phát triển của quản lý chất lượng từ
những hình thức hoạt động sơ khai tới trình độ hiện đại ngày nay theo các giai đoạn
như:

- Quản lý chất lượng bằng kiểm tra.
- Quản lý chất lượng bằng kiểm soát
- Quản lý chất lượng bằng đảm bảo.
- Quản lý chất lượng cục bộ.
- Quản lý chất lượng toàn diện theo quan điểm hệ thống.


6
Giai đoạn quản lý chất lượng bằng kiểm tra là giai đoạn xuyên suốt nhiều thiên
niên kỷ và còn tồn tại đến ngày nay. Các giai đoạn còn lại là con đẻ của thế kỷ 20,
những thời kỳ của chúng có thể nối tiếp nhau, có thể xuất hiện đồng thời hoặc
không theo một trình tự nhất định, có khi xuất hiện ở nước này nhưng lại được ứng
dụng và phát triển mạnh mẽ ở nước khác.
a. Quản lý chất lượng bằng kiểm tra.
Đây là chặng đường sơ khai đầu tiên, tồn tại lâu dài nhất. Khi quản lý sản xuất
còn chưa tách ra thành một chức năng riêng biệt của quá trình lao động thì kiểm tra
là một chức năng của quản lý và được con người dùng đến từ thời xa xưa. Chặng
đường này được phân ra thành ba thời kỳ như sau:
- Thời kỳ kiểm tra sản xuất trực tiếp từ người sản xuất.
Những hình thái sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa là những nền sản xuất nhỏ, dựa
trên sản xuất cá thể hoặc gia đình. Người sản xuất ở đây có thể là người thợ thủ
công, có thể là người chủ gia đình cùng vợ con tạo thành một nhóm sản xuất, người
chủ gia đình giữ vai trò ông chủ sản xuất. Ông chủ này thường tự làm tất cả mọi
công việc, từ khâu tìm kiếm nguyên liệu đến khâu chế tạo ra sản phẩm, tự quản lý
mọi hoạt động của mình cho đến khi mang hàng của mình ra thị trường để trao đổi
hoặc để bán. Nếu sản phẩm của anh ta không ai muốn trao đổi hoặc muốn mua, anh
ta phải tự suy nghĩ, tự giải thích, tự tìm nguyên nhân để thay đổi, cải tiến sản phẩm
của mình sao cho có thể được chấp nhận trên thị trường. Để làm việc này, anh ta
phải khẳng định qui cách chất lượng sản phẩm của mình, chế tạo đúng như yêu cầu
đã được đề ra và tự kiểm tra xem sản phẩm làm ra có đạt được yêu cầu không. Có

thể nói đây là thời kỳ manh nha, thô sơ nhất của kiểm tra chất lượng, bước đi đầu
tiên trên con đường tiến tới quản lý chất lượng.
- Thời kỳ kiểm tra sản xuất bởi các đốc công.


7
Bước sang giai đoạn công trường thủ công và thời kỳ đầu của cách mạng công
nghiệp, quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá được phát triển, máy móc được sử
dụng ngày càng nhiều, năng suất lao động tăng gấp nhiều lần so với lao động thủ
công, qui mô sản xuất được mở rộng, các ông chủ phải phân quyền cho các đốc
công và các trưởng xưởng. Những người lãnh đạo trung gian này vừa quản lý sản
xuất trong những lĩnh vực thuộc phạm vi anh ta phụ trách, vừa phải trực tiếp kiểm
tra các sản phẩm do công nhân làm ra xem có phù hợp với yêu cầu đề ra hay
không?
- Thời kỳ kiểm tra tự phía phòng kiểm tra.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và rộng lớn của cuộc cách mạng công nghiệp ở
thế kỷ 18, các vấn đề kỹ thuật và các hình thức tổ chức ngày càng phức tạp, làm
cho ý nghĩa của vấn đề chất lượng ngày càng được nâng cao. Chức năng quản lý
sản xuất trở thành chức năng riêng biệt, bộ máy quản lý chia ra thành nhiều bộ
phận chuyên môn và hoàn thiện sản xuất, quản lý sức lao động và tổ chức lao động,
quản lý công việc hàng ngày, kiểm tra sản xuất… Trong các xí nghiệp bắt đầu hình
thành những phòng kiểm tra kỹ thuật với chức năng phát hiện các khuyết tật của
sản phẩm và chỉ đưa ra thị trường những sản phẩm đạt yêu cầu. Hình thức này
được phát triển rộng rãi sang cả thế kỷ 20. Việc chuyên môn hoá chức năng kiểm
tra đã mang lại những kết quả tốt hơn so với các hình thức kiểm tra trước đó. Tuy
nhiên, nó chỉ phát hiện được các sai lỗi mà không ngăn chặn được tận gốc rễ các
vấn đề, đồng thời nó lại tạo nên tâm lý sai lầm là trách nhiệm về chất lượng thuộc
về phòng kiểm tra.
b. Quản lý chất lượng bằng kiểm soát và đảm bảo.
Điều khiển chất lượng (Kiểm soát chất lượng) và đảm bảo chất lượng là những

phương pháp của quản lý chất lượng được xuất hiện trong nửa đầu của thế kỷ 20 và
trở thành những thành phần quan trọng của quản lý chất lượng hiện đại. Khác với


8
kiểm tra với chức năng chính là phát hiện những phương pháp mới này mang tính
chất phòng ngừa theo nguyên tắc phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Từ giữa những năm 20 cho tới giữa thế kỷ 20, các hoạt động tiêu chuẩn hoá,
điều khiển chất lượng (Quality Control - QC), và đảm bảo chất lượng (Quality
assurance - QA) được phát triển mạnh ở Mỹ với những chuyên gia dẫn đầu về quản
lý chất lượng như Walter A. Shewhart, Joseph M. Juran, W. Edwards Deming…
Có thể nói Mỹ là nước đi đầu trong việc hình thành cơ sở lý thuyết và thực hành về
quản lý chất lượng và giữ vai trò chủ chốt trong nửa đầu thế kỷ 20 về quản lý chất
lượng trên toàn thế giới.
Tuy Anh là nước mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 và là nước
đi đầu trong lĩnh vực phân tích thống kê được nhiều nước biết đến, những từ những
năm 20 – 30 của thế kỷ 20 Mỹ đã đẩy mạnh việc ứng dụng các phương pháp thống
kê, coi đó là công cụ khoa học chủ yếu để triển khai các hoạt động điều khiển chất
lượng và đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực đảm bảo nâng cao chất lượng
sản phẩm. Quá trình điểu khiển chất lượng có thể được coi là quá trình hoạt động
tác nghiệp nhằm thực hiện và duy trì tiêu chuẩn, làm chủ được những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng, ngăn ngừa việc gây khuyết tật cho
sản phẩm. Dạng đơn giản nhất của quá trình điều khiển chất lượng được thể hiện
trong sơ đồ sau:







Tiêu
chu

n

Áp dụng
Kiểm
ch

ng

Phù
h

p

Tác động sửa
ch

a

Không
đ

t

Đạt


9



Bảng 1: Sơ đồ kiểm soát chất lượng
Muốn điều khiển chất lượng tốt, phải nắm được các yếu tố: con người, phương
pháp và quá trình, đầu vào, trang thiết bị dùng trong sản xuất và thử nghiệm, thông
tin, môi trường. Quá trình điều khiển cần phải được tiến hành song song với quá
trình kiểm tra chất lượng để làm sao cho sản phẩm làm ra phải đạt được tiêu chuẩn
chất lượng.
Điều khiển chất lượng, nhất là điều khiển thống kê chất lượng (Statistical
quality control) được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp của Mỹ, Anh và các nước
Tâu âu trong những năm 20. việc áp dụng SQC đã giúp tạo nên nhiều nhà quản lý
có tư duy thống kê, nắm được các phương pháp và công cụ thống kê để tiến hành
công tác điều khiển chất lượng và đảm bảo chất lượng.
Đảm bảo chất lượng (QA) không làm thay đổi chất lượng như điều khiển chất
lượng. Nó là kết quả của sự trắc nghiệm, trong khi điều khiển chất lượng thì tạo ra
kết quả. Đảm bảo chất lượng thiết lập nên một phạm vi trong đó chất lượng đã,
đang hoặc sẽ được được điều khiển. Mọi hoạt động đảm bảo chất lượng đều phục
vụ cho việc tạo dựng lòng tin vào các kết quả, các lời tuyên bố, cách khẳng định…
Việc đảm bảo chất lượng không chỉ đơn thuần là lời hứa, lợi nói xuông mà phải
được thể hiện bằng các hành động trong quá trình và phải được chứng minh bằng
các hồ sơ, biên bản, chương trình, kế hoạch, báo cáo… Những hành động và tài
liệu đó vừa phục vụ cho điều khiển chất lượng, vừa phục vụ cho đảm bảo chất
lượng. Việc đảm bảo chất lượng được áp dụng cho khâu thiết kế, khâu mua sắm,
khâu chế tạo và các khâu khác trong chu kỳ sống của sản phẩm.
Vào năm 1925, khi A. Quarlis, Walter A. Shewart, Harold F. Dodge và Geoge
D. Edwards cùng hoạt động trong phòng thí nghiệm thì họ sáng tạo ra các phương
pháp điều khiển chất lượng và đảm bảo chất lượng. Họ là những người luôn coi


10

hoạt động kiểm tra vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, họ đã tạo ra thuật ngữ “đảm
bảo chất lượng” khi đó, đảm bảo chất lượng được coi như một hoạt động bổ sung
trong công việc của người thiết kế ở mức độ quan trọng nhất.
Từ năm 1925 đến năm 1941, các phương pháp điều khiển chất lượng và đảm
bảo chất lượng cùng với việc áp dụng các phương pháp thống kê đã được phát triển
ở mức độ đáng kể ở Mỹ và ở các nước Phương Tây. Đại chiến thế giới lần thứ 2 đã
tạo ra những nhu cầu cấp bách về sản xuất hàng loạt các nhu yếu phẩm và vũ khí ở
Mỹ. Nhiều ngành công nghiệp phát triển rất nhanh, thu hút nhiều nhân công lao
động. Nhiều chương trình đào tạo được phát triển phục vụ cho việc đảm bảo chất
lượng công việc và sản phẩm. Điều khiển thống kê chất lượng (SQC) được phát
triển rộng rãi trong công nghiệp. Trong thời kỳ này, tiến sĩ W. Edwards Deming
(sau này trở thành chuyên gia hàng đầu về chất lượng trên thế giới) đã có nhiều
đóng góp tích cực trong việc giảng dạy về SQC tại các trường, các cơ sở của Bộ
nông nghiệp và Bộ Quốc phòng Mỹ. Cũng trong thời kỳ này, các câu lạc bộ chất
lượng, tạp chí về chất lượng, hội điều khiển chất lượng cũng lần lượt ra đời ở Mỹ
tạo tiền đề cho tiến trình phát triển quản lý chất lượng ở trình độ cao hơn, nhanh
hơn, rộng khắp hơn trong nửa cuối thế kỷ 20.
c. Quản lý chất lượng cục bộ và tổng hợp.
Những quan niệm mới về triển khai chức năng đảm bảo chất lượng được phát
triển và hoàn thiện dần cho tới ngày nay. Nhiều quan niệm đã nảy sinh như một
phản ứng trước những quan niệm tương tự về chất lượng ở Nhật. Các quan niệm
này đều gặp nhau ở chỗ nhấn mạnh nhu cầu đảm bảo chất lượng cho mọi nhân viên
trong một tổ chức. A. V. Feigenbaun là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “điều
khiển chất lượng tổng hợp” (Total quality control) khi ông còn làm việc ở công ty
General Electric. Quan điểm của ông cho rằng trách nhiệm quản lý chất lượng
thuộc về mọi phòng ban chứ không chỉ là trách nhiệm riêng của phòng chất lượng.
Tuy nhiên, trong nhiều năm, tư tưởng này đã bị sao nhãng ở Mỹ và chỉ đến khi chất


11

lượng hàng hoá của Nhật vươn lên dẫn đầu thế giới vào cuối những năm 70, các kỹ
sư Mỹ mới “tái phát hiện” lại những ý tưởng của Feigenbaun để phổ cập trong các
công ty Mỹ.
Nếu như trong nửa đầu thế kỷ 20, quản lý chất lượng được phát triển mạnh ở
Mỹ và các nước phương Tây thông qua các hoạt động kiểm tra chất lượng, điều
khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng thì trong nửa cuối thế kỷ 20, hoạt động quản
lý chất lượng đã dần mang tính hệ thống, tính đồng bộ, đi từ cục bộ tới tổng hợp,
dẫn đến việc hình thành các hệ thống chất lượng, tạo nên một bước phát triển mới
về chất lượng trong hoạt động quản lý chất lượng ở nhiều nước trên thế giới.
Các chuyên gia hàng đầu thế giới về chất lượng như Deming, Juran,
Feigenbaun, Ishikawa, Taguchi… đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc hoàn
thiện các phương pháp quản lý chất lượng theo hướng hệ thống hoá, đồng bộ hoá,
tạo điều kiện để thiết lập nên các hệ thống chất lượng thoạt đầu áp dụng trong phạm
vi từng xí nghiệp, sau khái quát thành những mô hình chung trong phạm vi quốc
gia, dần mở rộng ra phạm vi quốc tế trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, từ
đó đã xuất hiện thuật ngữ quản lý chất lượng tổng hợp (TQM) bao trim các khái
niệm điều khiển, đảm bảo và cải tiến chất lượng như chúng ta hiểu ngày nay.
Như vậy, “quản lý chất lượng” với tên gọi ban đầu của nó là “điều khiển chất
lượng - QC” là “phát minh” của người Mỹ, thuật ngữ “điều khiển chất lượng tổng
hợp - TQC” cũng do người Mỹ đặt ra, nhưng từ sau đại chiến thế giới lần 2, người
Nhật đã nhanh chóng học tập và rút ra được những điều bổ ích nhất đối với mình,
họ đã thực hiện một cách sáng tạo vào điều kiện thực tiễn của đất nước mình, qua
đó đã tạo nên “phương thức quản lý chất lượng kiểu Nhật”, đưa ngành công nghiệp
Nhật Bản đi lên bằng con đường chất lượng, từ một vị trí thấp kém về chất lượng
đã vươn lên dẫn đầu thế giới về chất lượng sản phẩm. Đây là bài học bổ ích cho
chúng ta trong việc tiếp thu những thành tựu tiên tiến của nước ngoài để đuổi kịp
và vượt những người đi trước, nỗ lực học tập và ứng dụng nhưng không dập khuôn


12

một cách máy móc mà phải luôn phân tích, sáng tạo theo điều kiện, hoàn cảnh của
mình để tìm ra được con đường đi thích hợp sao cho có thể đuổi kịp và hội nhập
vào cộng đồng thế giới trong một thời gian tương đối ngắn.
2. Lịch sử phát triển quản lý chất lượng ở Việt Nam.
Lịch sử phát triển quản lý chất lượng ở Việt Nam gắn liền với tiêu chuẩn hoá,
đo lường và chất lượng, được hình thành bởi các giai đoạn
a. Giai đoạn trước năm 1973.
Đây là giai đoạn mà các hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm thường được
tiến hành phân tán trong các Bộ, các ngành, các xí nghiệp. Nhà nươc chưa theo dõi
hoạt động quản lý chất lượng như một lĩnh vực hoạt động đặc thù.
b. Giai đoạn từ năm 1973 cho đến những năm 80.
Ở giai đoạn này các hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm ở nước ta được tiến
hành theo tinh thần của quyết định 159 TTg về công tác quản lý chất lượng sản
phẩm và hàng hoá do thủ tướng chính phủ ban hành ngày 7/7/1973. Quyết định này
là văn bản pháp qui đầu tiên ở nước ta đề cập đến vấn đề quản lý chất lượng một
cách đồng bộ, có hệ thống do đó đã tạo điều kiện cho việc chỉ đạo và thực hiện
công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở nước ta phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá
tập trung.
Thực hiện quyết định 159 TTg đã mang lại những kết quả sau:
- Các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lường, kiểm tra chất lượng được tăng
cường, phối hợp với nhau tạo nên một mạng lưới từ TW đến địa phương và các cơ
sở. Việc sát nhập Cục tiêu chuẩn, Cục đo lường, Cục kiểm tra chất lượng sản phẩm
hàng hoá và Viện định chuẩn thành một cơ quan thống nhất cùng với việc hình
thành 3 trung tâm kỹ thuật khu vực và các chi cục TC - ĐL – CL tại các tỉnh, thành
phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đồng bộ các hoạt động tiêu chuẩn,
đo lường, chất lượng trong cả nước. Đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất kỹ thuật được


13
củng cố, phát huy được vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các hoạt động quản lý

chất lượng trong cả nước.
- Công tác thanh tra nhà nước, công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm được
hình thành và phát triển từ trung ương đến cơ sở. Hầu hết các xí nghiệp quốc doanh
đều thành lập phòng kiểm tra chất lượng (KCS).
- Công tác đăng ký chất lượng được hình thành là hoạt động có tính đặc thù
của nước ta.
- Công tác chứng nhận chất lượng được triển khai từ năm 1980 đã có tác động
tích cực tới việc khuyến khích các nhà sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tính đến giữa năm 1991 đã có 810 giấy chứng nhận chất lượng nhà nước cấp cho
gần một ngàn loạt sản phẩm, cụ thể là của gần 300 cơ sở sản xuất bao gồm các xí
nghiệp, nhà máy, hợp tác xã, tổ sản xuất, công ty thuộc 13 bộ, tổng cục và 22 tỉnh
thành.
- Công tác nghiên cứu khoa học, nghiệp vụ, tổng kết kinh nghiệm trong nước,
học tập kinh nghiệm nước ngoài, công tác thông tin, tư liệu, đào tạo, xây dựng và
thực hiện các chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng được chú trọng.
Tuy nhiên, ngoài những kết quả đạt được đó, nước ta còn rất nhiều hạn chế,
chưa tạo được sự chuyển biến đáng kể về chất lượng, do đó tình hình chất lượng
sản phẩm nói chung vẫn ở trạng thái yếu kém, bấp bênh không ổn định kéo dài
nhiều năm.
c. Giai đoạn từ năm 1987 đến nay.
Khi đất nước ta chuyển sang giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì nội dung và phương thức quản lý
chất lượng đã có nhiều thay đổi về cơ bản theo tinh thần của chỉ thị 222 CTngày
6/8/1988 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng và theo tinh thần của pháp lệnh đo lường
ngày 6/7/1990 và pháp lệnh chất lượng hàng hoá ngày 2/1/1991.


14
Hơn 10 năm đổi mới và hội nhập đã mang lại nhiều chuyển biến đáng phấn
khởi. Thị trường hàng nội địa ngày càng đa dạng, phong phú, kiểu dáng bao bì

được cải tiến, chất lượng được nâng cao hơn trước.
Tình hình chất lượng sản phẩm ngày càng ổn định và từng bước được nâng cao
trong thập niên 90 chủ yếu là nhở ở chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và “mở cửa” nền kinh tế nước ta cùng với sự hăng hái,
chủ động thực hiện quá trình đổi mới kinh tế xã hội trong mọi ngành, mọi cấp từ
sau Đại hội Đảng lần thứ 6 tới nay.
Trong thời kỳ này có những nhân tố mới xuất hiện như:
- Nhân tố tích cực của người lao động được phát huy mạnh mẽ so với thời kỳ
thực hiện kế hoạch hoá tập trung.
- Người sản xuất, người lưu thông và người cung cấp dịch vụ được tháo gỡ
khỏi những trói buộc của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, phát huy
được quyền tự chủ, sáng tạo trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
- Vai trò của người tiêu dùng ngày càng được đề cao và có tiếng nói quyết
định trên thị trường.
- Cùng với quá trình cải tổ khu vực kinh tế nhà nước, sự tham gia của các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vào các hoạt động kinh doanh đã làm
cho thị trường hàng hoá nước ta trở nên sôi động, nhộn nhịp và ngày càng
phát triển theo xu thế lành mạnh.
Các nhân tố này đã tạo nên những tiền đề quan trọng để cải thiện tình hình chất
lượng sản phẩm ở nước ta. Tuy nhiên, những nhân tố này sẽ không phát huy được
tốt nếu thiết một nhân tố hết sức cơ bản là sự đổi mới chung và đổi mới về quản lý
chất lượng ở cấp nhà nước cũng như cấp doanh nghiệp nói riêng.


15
Trong thập niên 70 và 80 của thế kỷ này, nhiều phương pháp quản lý chất
lượng, hệ chất lượng đã được giới thiệu ở Việt Nam. Trước khi thống nhất đất
nước, ở Miền Nam đã có những công ty áp dụng các phương pháp quản lý chất
lượng tổng hợp, trong số gần 300 cơ sở sản xuất của trung ương và địa phương

được mang dấu chất lượng cấp I, và cấp cao từ năm 1980 đến năm 1991 đã có
không ít cơ sở được nghe giới thiệu về hệ thống chế tạo không sai lỗi, hệ thống
quản lý quản lý chất lượng tổng hợp… Những cơ sở này ít nhiều có vận dụng
những yếu tố thích hợp của hệ này hoặc hệ khác vào điều kiện của cơ sở mình.
Từ năm 1994 tới nay, hệ chất lượng theo ISO 9000 và nhiều hệ chất lượng khác
cũng đã được giới thiệu tương đối rộng rãi ở Việt Nam. Các doanh nghiệp lớn
thường có khá đầy đủ các thông tin về hệ thống chất lượng nhưng nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ thường còn thiếu thông tin về vấn đề này.
Năm 1996 là năm đầu tiên ở Việt Nam có doanh nghiệp được cấp giấy chứng
nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Cho đến năm 1999 nước ta có trên 40 doanh
nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt ISO 9000, trong đó đa số là các doanh nghiệp
có vốn 100% của nước ngoài, các liên doanh và phần lớn các doanh nghiệp đạt ISO
9002. Sang năm 2000 những tháng đầu năm 2001, các doanh nghiệp áp dụng và
được cấp chứng chỉ đạt ISO 9000 của nước ta tăng lên rất nhiều và phần lớn các
doanh nghiệp cũng vẫn áp dụng ISO 9002 vì đây là mô hình đảm bảo chất lượng
phù hợp và không khó áp dụng đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên áp dụng ở
nước ta.
Mặc dù nước ta đã có những doanh nghiệp duy trì được ý thức phấn đấu thường
xuyên về chất lượng sản phẩm luôn chú ý đến việc học tập kinh nghiệm trong nước
và nước ngoài, biết cách lựa chọn mô hình thích hợp để vận dụng vào điều kiện của
mình. Đồng thời Tổng cục TCDLCL cùng các Bộ đã triển khai các hoạt động thông
tin, tư liệu, đào tạo, hỗ trợ các xí nghiệp xây dựng và thực hiện các chương trình
đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng trong bối cảnh chung còn có


16
nhiều khó khăn thì tình hình chất lượng của ta vẫn còn ở trình độ thấp, sự tiến bộ
chưa vững chắc, chưa đồng đều, chưa phổ cập.
3. Bản chất của ISO 9000:2000.
a. ISO là gì?

ISO là tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (International organization for
Standardization), được thành lập năm 1946 trên phạm vi toàn thế giới. ISO hoạt
động trên nhiều lĩnh vực như văn hoá, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, môi trường, với
mục đích tạo thuận lợi cho giao thương và phát triển hợp tác quốc tế. Trụ sở chính
của ISO tại Thụy Sĩ, ngôn ngữ sử dụng là tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban
Nha. ISO có trên 100 thành viên thuộc các nước khác nhau trên thế giới, Việt Nam
là thành viên chính thức của ISO từ năm 1977. Hoạt động chủ yếu của ISO là
chuẩn bị, xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế ở nhiều lĩnh vực và ban hành để áp dụng.
b. ISO 9000 - Khái niệm và sự hình thành.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là tập hợp, tổng kết và chuẩn hoá định hướng những
thành tựu và kinh nghiệm quản trị chất lượng của nhiều nước, giúp cho việc quản
trị các doanh nghiệp, quản trị các định chế công ích một cách hiệu quả hơn.
Bộ ISO 9000 được hình thành trong một quá trình như sau:
Năm 1955: Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đã đưa ra các tiêu chuẩn về
đảm bảo chất lượng tàu Apollo của NASA, máy bay Concorde của Anh – Mỹ, tàu
vượt Đại Tây Dương của nữ hoàng Anh Elizabeth.
Năm 1969: Tiêu chuẩn quốc phòng của Anh, Mỹ thừa nhận lẫn nhau về các hệ
thống đảm bảo chất lượng của những người thầu phụ thuộc các thành viên của
NATO (AQAP – Allied Quality Assurance Procedures).
Năm 1979: Viện tiêu chuẩn Anh ban hành tiêu chuẩn BS 5750, đó là tiêu chuẩn
tiền thân của ISO 9000.


17
Năm 1987: ISO công bố lần đầu tiên bộ tiêu chuẩn ISO 9000, khuyến khích áp
dụng trong các nước thành viên và trên toàn thế giới.
Năm 1994: ISO rà soát và chỉnh lý bộ ISO 9000, bổ sung thêm một số điều
khoản mới. Ngoài ra còn có tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường ISO 14000.
Năm 2000: Với 23 tiêu chuẩn thì bộ tiêu chuẩn ISO 9000:1994 quá cồng kềnh,
nhiều nội dung thiếu nhất quán gây lúng tong cho người sử dụng, hơn nữa nhóm

mô hình đảm bảo chất lượng lệch phía những doanh nghiệp sản xuất ra những sản
phẩm cứng nên phải ban hành quá nhiều hướng dẫn để áp dụng cho những lĩnh vực
khác, đồng thời trong 20 yêu cầu của ISO 9001 thì vấn đề cải tiến chất lượng không
được nhấn mạnh đúng mức trong khi đó là yếu tố quan trọng trong quản lý chất
lượng hiện đại. Với những lý do trên mà bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã được soát xét
và ban hành lại vào ngày 15 tháng 12 năm 2000 với cơ cấu chỉ còn lại 4 tiêu chuẩn.
a. Cơ cấu của bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 được xây dựng nhằm trợ giúp các tổ chức thuộc
mọi loại hình và qui mô áp dụng và vận hành các hệ thống quản lý chất lượng có
hiệu quả.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bao gồm có 4 tiêu chuẩn cơ bản sau:
- ISO 9000:2000: Mô tả cơ sở các hệ thống quản lý chất lượng và qui định các
thuật ngữ cho các hệ thống quản lý chất lượng. Nó thay thế cho ISO 8402:1994 và
ISO 9001:1994.
Nội dung cơ bản của tiêu chuẩn này gồm:
1. Phạm vi áp dụng.
2. Cơ sở của hệ thống quản lý chất lượng.
Mục đích của hệ thống quản lý chất lượng.


18
Các yêu cầu đối với hệ thống quản lý chất lượng và các yêu cầu đối với sản
phẩm.
Cách tiếp cận theo hệ thống quản lý chất lượng.
Cách tiếp cận theo quá trình.
Chính sách chất lượng và mục tiêu chất lượng.
Vai trò của lãnh đạo cao nhất trong hệ thống quản lý chất lượng.
Hệ thống tài liệu.
Xem xét đánh giá hệ thống quản lý chất lượng.
Cải tiến liên tục.

Vai trò của kỹ thuật thống kê.
Trọng tâm của hệ thống quản lý chất lượng và các hệ thống quản lý khác.
Mối quan hệ giữa hệ thống quản lý chất lượng và các mô hình tuyệt hảo.
3. Thuật ngữ và định nghĩa.
3.1. Thuật ngữ liên quan đến chất lượng.
3.2. Các thuật ngữ liên quan đến quản lý.
3.3. Thuật ngữ liên quan đến tổ chức.
3.4. Thuật ngữ liên quan đến quá trình và sản phẩm.
3.5. Thuật ngữ liên quan đến các đặc tính.
3.6. Thuật ngữ liên quan đến sự phù hợp.
3.7. Thuật ngữ liên quan đến hệ thống tài liệu.
3.8. Thuật ngữ liên quan đến xem xét.
3.9. Thuật ngữ liên quan đến đánh giá.
3.10. Thuật ngữ liên quan đến đảm bảo chất lượng các quá trình đo lường.


19
- ISO 9001:2000: Qui định các yêu cầu đối với một hệ thống quản lý chất
lượng khi một tổ chức cần chứng tỏ năng lực của mình trong việc cung cấp sản
phẩm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các yêu cầu chế định tương ứng và
nhằm nâng cao sự thoả mãn của khách hàng. Nó thay thế cho ISO 9001, ISO 9002,
ISO 9003:1994.
Nội dung của tiêu chuẩn này gồm:
1. Phạm vi.
1.1. Khái quát.
1.2. Áp dụng
2. Tiêu chuẩn trích dẫn.
3. Thuật ngữ và các định nghĩa.
4. Hệ thống quản lý chất lượng.
4.1. Các yêu cầu chung.

4.2. Yêu cầu về hệ thống tài liệu.
5. Trách nhiệm của lãnh đạo.
5.1. Cam kết của lãnh đạo.
5.2. Hướng vào khách hàng.
5.3. Chính sách chất lượng.
5.4. Hoạch định.
5.5. Trách nhiệm quyền hạn và trao đổi thông tin.
5.6. Xem xét của lãnh đạo.
6. Quản lý nguồn lực.
6.1. Cung cấp nguồn lực.


20
6.2. Nguồn nhân lực.
6.3. Cơ sở làm việc.
6.4. Môi trường làm việc.
7. Chế tạo sản phẩm.
7.1. Hoạch định việc tạo sản phẩm.
7.2. Các quá trình liên quan đến khách hàng.
7.3. Thiết kế và phát triển.
7.4. Mua hàng.
7.5. Sản xuất và cung cấp dịch vụ.
7.6. Kiểm soát phương tiện theo dõi và đo lường.
8. Đo lường, phân tích và cải tiến.
8.1. Khái quát.
8.2. Theo dõi và đo lường.
8.3. Kiểm soát sản phẩm không phù hợp.
8.4. Phân tích dữ liệu.
8.5. Cải tiến.
- ISO 9004:2000: Cung cấp các hướng dẫn xem xét cả tính hiệu lực và hiệu

quả của hệ thống quản lý chất lượng. Mục đích của tiêu chuẩn này là cải tiến kết
quả thực hiện của một tổ chức và thoả mãn khách hàng và các bên liên quan. Nó
thay thế cho ISO 90004-1:1994.
Nội dung của tiêu chuẩn này gồm:
1. Phạm vi.
2. Tiêu chuẩn trích dẫn.


21
3. Thuật ngữ và định nghĩa.
4. Hệ thống quản lý chất lượng.
Các hệ thống quản lý và các quá trình.
Hệ thống tài liệu.
5. Trách nhiệm của lãnh đạo.
Hướng dẫn chung.
Các nhu cầu và mong đợi của các bên có liên quan.
Chính sách chất lượng.
Hoạch định chất lượng.
Trách nhiệm quyền hạn và thông tin liên lạc.
Xem xét của lãnh đạo.
6. Nguồn lực.
Hướng dẫn chung.
Con người.
Cơ sở hạ tầng.
Môi trường làm việc.
Thông tin.
Người cung ứng và các đối tác.
Nguồn lực tự nhiên.
Nguồn lực tài chính.
7. Thực hiện sản phẩm.

Hướng dẫn chung.


22
Các quá trình liên quan đến các bên hữu quan.
Thiết kế và triển khai.
Mua hàng.
Các hoạt động tác nghiệp trong sản xuất và dịch vụ.
Kiểm soát các thiết bị đo lường và giám sát.
8. Đo lường, phân tích và cải tiến.
Hướng dẫn khái quát.
Đo lường và giám sát.
Kiểm soát sự không phù hợp.
Phân tích dữ liệu.
Cải tiến.
- ISO 19011: Cung cấp hướng dẫn về đánh giá các hệ thống quản lý chất lượng và
môi trường. Nó thay thế cho tiêu chuẩn ISO 10011:1994.
Như vậy, 4 tiêu chuẩn trên tạo thành một bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất
lượng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông hiểu lẫn nhau trong thương mại quốc
gia và quốc tế.
4. Những thay đổi chủ yếu của bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 với bộ tiêu chuẩn
ISO 9000:1994.
So với năm 1994, bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 có những thay đổi chủ yếu sau:
- Cấu trúc của bộ mới được định hướng và nắm chắc theo nguyên tắc quá
trình, nội dung được sắp xếp lôgic hơn.
- Quá trình cải tiến liên tục được coi là một bước quan trọng để nâng cao hiệu
quả của hệ thống quản lý chất lượng.


23

- Nhấn mạnh hơn đến vai trò của lãnh đạo cấp cao bao gồm cả sự cam kết đối
với việc xây dựng và cải tiến hệ thống quản lý chất lượng, xem xét các yêu
cầu chế định và pháp luật, đồng thời lập các mục tiêu đo được tại các bộ
phận chức năng và cấp thích hợp.
- Thực hiện phương pháp “các miễn trừ được phép” có nghĩa là tiêu chuẩn
ISO 9001:2000 đưa ra các miễn trừ được phép để các doanh nghiệp áp dụng
linh hoạt hơn, chứ không qui định thành các cấp như ISO 9001, ISO 9002,
ISO 9003 năm 1994.
- Yêu cầu tổ chức phải theo dõi thông tin về sự thoả mãn hay không thoả mãn
của khách hàng và được coi đó là một phép đo về chất lượng hoạt động của
hệ thống.
- Giảm đáng kể số lượng thủ tục đòi hỏi phải làm.
- Các thuật ngữ được thay đổi cho dễ hiểu hơn.
- Có độ tương thích cao với hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000.
- Các nguyên tắc của quản lý chất lượng được áp dụng chặt chẽ hơn so với
ISO 9000:1994.
- Các nhu cầu và quyền lợi của các bên liên quan được xem xét và chú trọng.
- Chú trọng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn
5. Các nguyên tắc của bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000.
Phải khẳng định rằng 8 nguyên tắc quản lý chất lượng nêu trong ISO 9000:2000
là bộ khung quan điểm để tiến hành cải tiến một cách liên tục các hoạt động quản
lý chất lượng trong một tổ chức. Nhờ 8 nguyên tắc này mà việc cải tiến được rõ
ràng, có hệ thống và có hiệu quả. Các nguyên tắc này bao gồm:
- Nguyên tắc 1: Định hướng vào khách hàng.


24
Mọi tổ chức đều phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu được
các nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, cần đáp ứng các yêu cầu của
khách hàng và cố gắng vượt cao hơn sự mong đợi của họ.

- Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo.
Lãnh đạo phải thiết lập được sự thống nhất giữa mục đích và phương hướng của
tổ chức. Một tổ chức có sức mạnh hay không phụ thuộc vào việc họ có tập trung
vào mục đích và có định hướng đúng đắn hay không. Đồng thời, lãnh đạo cần tạo
ra và duy trì môi trường nội bộ để có thể hoàn toàn lôi cuốn mọi người tham gia để
đạt được các mục tiêu của tổ chức.
- Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người.
Mọi người ở tất cả các cấp là yếu tố của một tổ chức và việc huy động họ tham
gia đầy đủ sẽ giúp cho việc sử dụng được năng lực và khả năng sáng tạo của họ để
đạt được mục tiêu chung vì lợi ích của tổ chức.
- Nguyên tắc 4: Cách tiếp cận theo quá trình.
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn lực và các
hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình và các quá trình được ghép
lại theo một dòng chảy xuyên suốt trong tổ chức.
- Nguyên tắc 5: Cách tiếp cận theo hệ thống đối với quản lý.
Việc xác định, hiểu và và quản lý các quá trình có liên quan lẫn nhau như một
hệ thống sẽ đem lại hiệu lực và hiệu quả của tổ chức nhằm đạt được các mục tiêu
đề ra.
- Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục các kết quả thực hiện phải là mục tiêu thường trực của tổ chức.
- Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện.


25
Mọi quyết định có hiệu lực được dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông tin,
tránh dựa vào cảm tính, suy diễn.
- Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.
Tổ chức và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau cho nên mối quan hệ cùng có lợi
sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
Tám nguyên tắc quản lý chất lượng này đã tạo thành cơ sở cho các tiêu chuẩn về

hệ thống quản lý chất lượng trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000.
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHỆ ÁP DỤNG
THÀNH CÔNG HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THEO TIÊU CHUẨN ISO 9000.
Có thể nói nước ta hiện nay có đủ mọi loại hình doanh nghiệp đang thực hiện
mọi hình thức quản lý chất lượng mà thế giới đã trải qua, kể từ cuộc cách mạng
công nghiệp thế kỷ 18 tới nay, có nghĩa là trong khi có doanh nghiệp đã được cấp
chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000 thì có doanh nghiệp vẫn đang làm kiểm tra
chất lượng nhưng vẫn coi như mình đã quản lý được chất lượng sản phẩm của
mình. Đồng thời có cả những người sản xuất thủ công theo kiểu tự cung tự cấp. Vì
sự không thống nhất này mà trong những năm gần đây, Tổng cục TCĐLCL đã
khuyến khích các doanh nghiệp trong cả nước áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo ISO 9000, và khi áp dụng ISO 9000 doanh nghiệp thường gặt hái được nhiều
lợi ích. Tuy nhiên, các doanh nghiệp muốn áp dụng có hiệu quả ISO 9000 thì cần
phải có những điều kiện gì, việc xác định rõ các điều kiện này sẽ giúp cho cá doanh
nghiệp không bị lúng tong khi áp dụng, đồng thời cũgn giúp cho các doanh nghiệp
đi sau học hỏi được kinh nghiệm và tiến nhanh tới áp dụng thành công hệ thống
quản lý chất lượng theo ISO 9000.
Căn cứ vào những cuộc hội thảo về ISO 9000 trong một vài năm qua và căn cứ
vào một số điểm then chốt cuả ISO 9001, có thể đưa ra các điều kiện cơ bản giúp
các doanh nghiệp áp dụng thành công ISO 9000 như sau:

×