Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak (12/5/1968) góp phần khai thông đường Trường Sơn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.2 KB, 7 trang )

CHIẾN THẮNG KHÂM ĐỨC - NGOK TAVAK (12/5/1968)
GÓP PHẦN KHAI THÔNG ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Lê Năng Đơng1
Tóm tắt: Thắng lợi của chiến dịch Khâm Đức - Ngok Tavak ngày 12/5/1968 đã quét
sạch quân địch trên một địa bàn trọng yếu, giải phóng hồn tồn huyện Phước Sơn, góp
phần bảo vệ phong trào cách mạng ở miền Tây Quảng Nam; khai thông tuyến đường 14,
mở đường vận chuyển cơ giới từ hành lang chiến lược đông Trường Sơn xuống đồng bằng
ven biển Khu 5. Vì vậy, bài viết này sẽ tập trung làm rõ vị trí chiến chiến lược của Khâm
Đức đối với cả ta và địch; sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân
khu 5 trong chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak; đồng thời làm rõ ý nghĩa của chiến
thắng Khâm Đức - Ngok Tavak đối với cục diện chung của chiến trường Quảng Nam nói
riêng, của Khu 5 nói chung, đặc biệt là việc khai thơng tuyến đường vận tải chiến lược
đường đông Trường Sơn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Phần từ khóa: Khâm Đức, Ngok Tavak, Chi khu quân sự, đường 14, Đường đông
Trường Sơn.
1. Mở đầu
Thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, từ ngày 09/5 đến
12/5/1968, Sư đoàn 2, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân
dân các dân tộc huyện Phước Sơn tấn công tiêu diệt Cụm cứ điểm quân sự Khâm Đức
- Ngok Tavak, giải phóng hồn tồn huyện Phước Sơn, xóa sổ Trại Lực lượng đặc biệt
Khâm Đức, khai thông tuyến đường 14, mở toang “cánh cửa thép” vào hệ thống đường
đơng Trường Sơn và vùng giải phóng Khu 5, góp phần cùng cả nước làm phá sản chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” và đánh bại các kế hoạch “tìm, diệt”, “qt, giữ” và “bình định
nơng thơn” của chúng. Vai trò ý nghĩa của chiến thắng Khâm Đức - Ngọc Tavak đã được
thể hiện trong nhiều cơng trình, tuy nhiên để làm rõ ý nghĩa của chiến thắng này đối với
việc khai thông tuyến đường Trường Sơn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thì chưa được
đề cập nhiều trong các nghiên cứu. Bằng nguồn tư liệu lưu trữ, đồng thời cập nhật thêm
những tư liệu mới, bài viết này sẽ tập trung làm rõ vị trí chiến lược của Khâm Đức đối với
cả ta và địch; sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 trong
chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak; đồng thời làm rõ ý nghĩa của chiến thắng Khâm


Đức - Ngok Tavak đối với cục diện chung của chiến trường Quảng Nam nói riêng, của
Khu 5 nói chung, đặc biệt là việc khai thông tuyến đường vận tải chiến lược đông Trường
Sơn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
2. Nội dung
2.1. Khái quát về Chi khu quân sự Khâm Đức
1.  CB Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam

24


Lê Năng Đơng
Thung lũng Khâm Đức nằm về phía Tây Bắc huyện Phước Sơn, dài khoảng 3
km, rộng khoảng 1,5 km. Phía Bắc và Tây Bắc có những dãy núi cao từ 600 đến 800m.
Phía Nam giáp sơng Nước Chè, bên kia sông là các điểm cao 676 (Tà Dê), chệch
hướng Tây Nam có điểm cao 738 (Ngok Tavak). Phía đơng giáp sơng Nước Trẻo và
sơng Đăk My. Phía Tây là những dãy núi cao bạt ngàn, có đường 14 bắt đầu từ Hoà
Cầm (huyện Hoà Vang) đi lên Thượng Đức (huyện Đại Lộc), Nam Giang, ngược dòng
Đăk My đến ngã ba Làng Hồi, băng qua thung lũng Khâm Đức lên Tây Ngun xun
thẳng đến phía Đơng Nam bộ.
Nhận thấy vị trí quan trọng về chiến lược đó, ngày 24/6/1958, chính quyền Sài
Gịn ra Nghị định số 335-NĐ/CP, thành lập quận Phước Sơn. Ngày 02/02/1959, Tỉnh
trưởng Quảng Nam có cơng văn nêu rõ kế hoạch “thượng du vận” tại Trà My, Hiên,
Giằng, Phước Sơn, chúng nhận định“vùng này là hành lang hoạt động của Việt Cộng
để di chuyển cán bộ, liên lạc tin tức và tiếp vận bưu cục giữa Liên khu 4 (Thừa Thiên)
và Liên khu 5 (Quảng Nam, Quảng Ngãi). Tại vùng cao Hiên, Giằng Việt Cộng đã tổ
chức nhiều cơ sở do một đảng viên trong buôn chỉ huy và lấy hậu thuẫn của nhân dân
căn bản sinh hoạt”[8]. Và để khống chế vùng biên giới Việt - Lào, ngăn cản bước tiến
của ta từ phía Tây xuống đồng bằng Quảng Nam,“chúng rút bớt số đồn bót ở vùng
cao (Đắk Úc) vùng trung, tăng cường các cứ điểm còn lại cắm đến thêm ở vùng thấp
(Trung Mang và Hiên), làm lại đường chiến lược 14 đầu năm 1962, làm đường 16

Phước Sơn - Đak Úc… và xây dựng cụm cứ điểm Khâm Đức”[3].
Cùng với việc gấp rút khai thông đường 14 và 16, từ năm 1961, chúng cho xây
dựng sân bay Khâm Đức, đến năm 1963, chúng thiết lập Trại Lực lượng đặc biệt Khâm
Đức - Trung tâm Huấn luyện biệt kích, nhằm lùng sục sâu vào các trung tâm căn cứ
cách mạng, để phát hiện và tiêu diệt lực lượng của ta và ngăn cản ta tiến công xuống
đồng bằng; đồng thời, làm bàn đạp để đánh phá phong trào cách mạng miền núi Quảng
Nam và biên giới nước bạn Lào.
Như vậy, Mỹ - Ngụy đã tập trung xây dựng Khâm Đức thành tiền đồn vững chắc
ở phía Tây Nam thành phố Đà Nẵng (đô thị lớn thứ hai ở miền Nam lúc đó, là nơi
đóng các cơ quan đầu não Vùng I chiến thuật, Quân đoàn I của địch). Tại đây có sân
bay lớn, máy bay C130 thường xuyên lên xuống chở quân lính và binh khí, trang thiết
bị kĩ thuật mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá vùng căn cứ cách mạng miền
Nam và chuyên dùng đánh phá Đông Trường Sơn. Đồng thời chúng tăng cường xây
thêm nhiều đồn bốt khống chế mạnh vùng giáp ranh, gây ách tắc thường xuyên nhiều
cung, chặng đường vận chuyển của ta, “địch thường bao vây phong tỏa không cho đưa
muối, rựa lên, làm cho nhiều vùng phải đốt rễ tranh làm muối để ăn. Thiếu muối làm
cho miền núi rất căng, rất khổ. Địch còn uy hiếp bằng các đồn đóng sâu trong núi nhu
Atép, Galâu ở Hiên, Rơ ở Giằng, Aró cũng ở Giằng trên vùng rất cao, Kê Nôn ở khu
7 của Hiên sát Lào, uy hiếp bằng con đường 14, xe có thể chạy từ Đắc Pét giáp Đắc
Tô ra Khâm Đức, ra Giằng xuống Đà Nẵng và con đường 16 từ Hà Lam cũng chạy
25


Chiến thắng Khâm Đức - Ngok tavak (12/5/1968)...
lên Khâm Đức của huyện Phước Sơn”[6]. Hiểm độc hơn, địch còn tăng cường xúc tát
dân, rào các trung tâm dân cư tạo thành ấp chiến lược xung quanh, làm hàng rào từ xa
che chắn cho chi khu Khâm Đức, tạo ra các vùng trắng, không cho cách mạng bám
trụ, hoạt động.
Đến năm1968, lực lượng địch ở Khâm Đức có 7 đại đội, bố trí thành 10 cứ điểm,
trong đó khu trung tâm gồm 5 cứ điểm có tên (A, B, C, V, Z) và sân bay quân sự; khu

ngoại vi gồm 5 cứ điểm (Đ, E, H, I, K) với hệ thống cơng sự được xây dựng rất kiên cố.
Về phía ta, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và
dân miền Nam đã giáng cho địch một địn chí mạng. Bị thua đau, Mỹ và chính quyền
Sài Gịn chuyển từ biện pháp “tìm diệt, bình định” sang “quét và giữ”. Chiến trường
Quân khu 5 lâm vào khó khăn rất lớn: thiếu lương thực, thương bệnh binh tăng, thiếu
súng đạn, địch càn quét liên tục. Trong bối cảnh đó, đường Trường Sơn với vai trị là
mạch máu nối liền sự chi viện của hậu phương miền Bắc có ý nghĩa cấp thiết đối với
phong trào cách mạng trên địa bàn Qn khu 5.
Trước tình hình đó, ngày 24/4/1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp nhận
định về cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ và yêu cầu tiếp tục Tổng tiến công và nổi dậy mùa hè 1968.
Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương, sau khi phân tích tình hình, Khu ủy 5 đã
đề ra chủ trương: “Tiếp tục tổng cơng kích, tổng khởi nghĩa, xác định nhiệm vụ cho các
lực lượng vũ trang là: sử dụng đặc công, biệt động, mũi nhọn là pháo cối đánh phá
sân bay, bến cảng, kho tàng, phá hủy phương tiện chiến tranh và dự trữ vật chất của
địch, các đơn vị bộ binh bám đánh các cuộc hành quân của địch bay ra nông thôn, thu
hút, kiềm chế, tiêu diệt lực lượng cơ động Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang và
nhân dân địa phương chống phá bình định” [5; 303].
Chấp hành chủ trương của Trung ương và Khu ủy 5, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân
khu 5 quyết định mở chiến dịch Hè 1968, mật danh X1, tiến hành đợt 2 trong Tổng
cơng kích, tổng khởi nghĩa. Chủ trương chiến dịch là: “Làm tan rã một bộ phận lớn
ngụy quân, ngụy quyền, phá hủy, làm tê liệt các căn cứ, kho tàng, tiêu diệt một bộ phận
quan trọng quân chiến đấu Mỹ, cắt đứt giao thông, giải phóng một bộ phận nơng thơn
địch cịn kiểm sốt, làm chủ từng phần cơ sở nội thành” [5; 303].
Với vị trí, vai trị của Khâm Đức khơng chỉ là cửa ngõ xuống đồng bằng, nơi
đứng chân của nhiều đơn vị quân đội, các cơ quan Khu ủy 5 và Bộ Tư lệnh Quân khu
5; mà Khâm Đức còn là nơi có hành lang chiến lược Bắc - Nam và Đông - Tây, đường
ống dẫn xăng dầu, đường thông tin Tải 3... qua địa bàn huyện. Do đó Khâm Đức ln
có vị trí chiến lược quan trọng của cả hai phía (ta và địch). Vì vậy “mệnh lệnh tiêu diệt
Cụm cứ điểm quân sự Khâm Đức - Ngok Tavak, giải phóng huyện Phước Sơn là mục

tiêu hàng đầu trong chiến dịch Hè năm 1968 (Kế hoạch X1) của Khu ủy 5 và Bộ Tư
lệnh Quân khu 5”[2; 138].
26


Lê Năng Đông
2.2. Tiêu diệt chi khu quân sự Khâm Đức- Ngok Tavat, khai thông đường 14
Tháng 3/1968, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 mở đường cơ giới
Đông Trường Sơn. Trên cơ sở chỉ thị của Bộ Quốc Phịng, Bộ Tư lệnh Đồn 559 đã
nhận định “Đường B46 từ Chà Vằn (Lào) - Đắc Rao sắp nối với đường 14 - nếu quét
được địch trên đường 14 và khơi phục lại đường thì sẽ nối ra Khâm Đức, Bến Giằng.
Từ Khâm Đức có thể thọc sâu xuống đồng bằng Khu 5. Phía Nam có thể kéo xuống
Đắc Tơ” [7; 277]. Để xóa sổ mắt xích quan trọng của địch, từ cuối năm 1967, Đoàn
559, Bộ đội Trường Sơn được giao nhiệm vụ phối hợp với Quân khu 5 “Thống nhất
hướng tuyến từ B46 đến Khâm Đức” nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ: “Mở đường chiến
dịch giải phóng Khâm Đức và sau đó thành đường vận chuyển chiến lược giải tỏa sự
đánh phá căng thẳng của địch trên đường B46”[4; 360].
Thực hiện chủ trương trên, Trung đoàn 10, thuộc Đồn 559 triển khai khảo sát,
thi cơng và đã nhanh chóng hồn thành đoạn đầu. Trước khi mở màn chiến dịch Khâm
Đức, hai đoạn cuối được Trung đoàn 10 thi công cấp tốc theo tiêu chuẩn đường quân
sự.“Ngày 6/4/1968, tại Chỉ huy sở tiền phương Đoàn 559, Trung đồn 10 nhận nhiệm
vụ thi cơng các con đường kéo pháo để đánh Khâm Đức. Tổ khảo sát Nguyễn Quốc
Khánh có bốn chiến sỹ trinh sát của Trung đồn pháo phối thuộc khảo sát các đoạn
đường kéo pháo theo tọa độ, các vị trí đặt pháo được đánh dấu sẵn trên bản đồ. Đường
được mở cấp tốc kéo dài từ đường B46 vào đường 14 theo tiêu chuẩn đường quân sự
làm gấp. Đường phải kín đáo, ít khối lượng, khảo sát đến đâu Trung đồn 10 thi cơng
đến đó. Lúc này, các phân đội pháo binh đang chờ sẵn trên đường B46, chuẩn bị kéo
pháo vào trận địa”.[4; 360].
Nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của chiến trường, đầu tháng 3/1968,
“Bộ Tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 2 bộ binh, với sự phối hợp của lực

lượng huyện Phước Sơn, tiêu diệt cụm cứ điểm Khâm Đức, khai thông đường 14, mở
đường vận chuyển cơ giới từ hành lang chiến lược của Trung ương xuống đồng bằng
và đưa dân về vùng giải phóng”[1; 252].
Huyện ủy Phước Sơn được cấp trên giao nhiệm vụ điều động lực lượng vũ trang
địa phương và du kích chiến đấu làm nhiệm vụ dẫn đường, giúp bộ đội cơ động vào các
mũi tiến công; tổ chức chốt chặt trên các trục đường và phối hợp với lực lượng vũ trang
Quân khu chặn đánh quân tiếp viện và quân tháo chạy, áp giải tù binh. Huy động lực
lượng quần chúng, thanh niên xung phong làm nhiệm vụ tuyến sau, phục vụ chiến đấu,
tải thương, chuyển đạn, tiếp tế hậu cần… đảm bảo cho Sư đoàn 2 hoàn thành nhiệm
vụ tiêu diệt Cụm cứ điểm quân sự Khâm Đức, giải phóng huyện Phước Sơn trong thời
gian ngắn nhất.
Trên cơ sở phân tích quy luật hoạt động của địch và được Bộ Tư lệnh Quân khu
thống nhất, Sư đoàn 2 quyết định mở khu chiến mới ở Núi Ngang (huyện Tiên Phước)
và dự kiến nổ súng trước khoảng 7 - 10 ngày nhằm tiêu hao sinh lực địch và phương
tiện chiến tranh, thu hút, giam chân lực lượng cơ động của Sư đoàn American, không
27


Chiến thắng Khâm Đức - Ngok tavak (12/5/1968)...
cho chúng lên chi viện cho Khâm Đức khi bị ta tấn công. Để tạo điều kiện tấn công
Khâm Đức, ngày 5/5/1968, tại Khu chiến Núi Ngang (quận lỵ Tiên Phước), Trung
đoàn 31 nổ súng tiến công địch để kéo một bộ phận quan trọng của Lữ đồn 198 phải
tập trung đối phó, tạo điều kiện để chiến dịch Khâm Đức - Ngok Tavak mở màn đúng
kế hoạch đã định.
Đêm ngày 9/5/1968, Sư đồn 2 đã tiến cơng tiêu diệt chi khu quận lỵ Khâm Đức,
mở đầu bằng trận đánh tiêu diệt cứ điểm tiền tiêu Ngok Tavak, cách Khâm Đức 7 km
về phía Tây Nam. Đến 15 giờ ngày 10/5/1968, ta đã làm chủ tồn bộ cứ điểm Ngok
Tavak. Trước tình hình diễn biến nguy ngập cho Khâm Đức, địch vội vã đổ Tiểu đoàn
2 - Lữ đoàn 196 thuộc Sư đoàn American của Mỹ xuống Khâm Đức, nhưng vẫn không
dám tung lực lượng ra cứu Ngok Tavak. Quân địch sống sót ở Ngok Tavak tháo chạy,

quân ta truy kích bắt một số, phần lớn địch còn lại trên đường tháo chạy bị bom B52
của Mỹ diệt hết, các đơn vị của Sư đoàn 2 lần lượt tiêu diệt cứ điểm ngoại vi, khống
chế toàn bộ thung lũng Khâm Đức, hoả lực của ta bắn phá dữ dội sân bay và khu phịng
thủ trung tâm của địch.
Ngày 12/5/1968, trước tình thế khơng giữ nổi Khâm Đức, sân bay bị bắn phá,
không phận bị khống chế bọn địch ở Khâm Đức phải xuyên rừng tháo chạy. Đến chiều
ngày 12/5/1968, ta đã làm chủ hồn tồn cụm cứ điểm Khâm Đức, giải phóng hồn toàn
huyện Phước Sơn.
2.3. Ý nghĩa của chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavat trong việc khai thông
đường Trường Sơn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak giải phóng hồn tồn huyện Phước Sơn có ý
nghĩa lịch sử hết sức to lớn.
Thứ nhất, đây là thắng lợi lớn nhất trên chiến trường miền núi Quảng Nam lúc bấy
giờ. Là trận địn chí mạng vào qn Mỹ, ngụy, xóa sổ Trại Lực lượng Đặc biệt của Mỹ
nằm sâu trong vùng giải phóng, đánh tan kế hoạch “tìm và diệt” trên chiến trường Khu 5,
góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Việt Nam. Với thất bại
thảm hại này, các hãng thông tấn phương Tây chua chát thừa nhận rằng: “... Trận chiến
Khâm Đức - Ngok Tavak là một Lang Vây thứ hai kinh hoàng của Lực lượng đặc biệt Hoa
Kỳ và Lực lượng đặc biệt Việt Nam cộng hòa, làm tiêu tan sự huyền thoại và kiêu hãnh về
một lực lượng tinh nhuệ được trang bị vũ khí hiện đại nhất...”. Đài VOA cịn bình luận:
“... Mất Khâm Đức là mất mục tiêu thu thập tin tức tình báo hoạt động của Qn giải
phóng trên đường mịn Hồ Chí Minh và cả kế hoạch xâm nhập vùng kiểm soát của đối
phương (vùng hậu cứ cách mạng)”[2; 18-19].
Thứ hai, Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak đã mở rộng vùng hậu cứ cách mạng,
khai thông hành lang chiến lược Bắc - Nam và Đơng-Tây, mở thơng “cánh cửa thép” của
đường mịn Trường Sơn qua địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Thứ ba, Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak, không những chỉ làm nức lòng đồng
bào, cán bộ, chiến sĩ các dân tộc huyện Phước Sơn mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
28



Lê Năng Đơng
tranh của tồn tỉnh Quảng Nam và khu 5; tạo thế và lực mới, động viên cán bộ, chiến sĩ
các lực lượng vũ trang và nhân dân khu 5 quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ
vững chắc vùng tự do, góp phần cùng khu 5 và cả nước đánh bại Chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” sau đó và làm nên Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, giải phóng hồn tồn
miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Kết luận
Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak là thắng lợi của lòng dũng cảm của cán bộ,
chiến sỹ Sư đoàn 2 và tinh thần hợp đồng chiến đấu linh hoạt, nhạy bén, hỗ trợ chia lửa
của bộ đội địa phương huyện Phước Sơn.
Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak đã góp phần khai thơng hành lang chiến lược
Đơng và Tây Trường Sơn, mở toang “cánh cửa thép” vào hệ thống đường mòn Trường
Sơn, nối hậu phương lớn miền Bắc với Khu 5, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Hạ Lào,
mở ra con đường vận tải cơ giới xuống vùng giáp ranh đồng bằng. Qua đó, cổ vũ mạnh
mẽ phong trào đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, bảo vệ vững chắc vùng
hậu cứ cách mạng, góp phần cùng Khu 5 và cả nước đánh bại Chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh” sau đó và làm nên Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước.
Với những ý nghĩa đó, chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak xứng đáng là mốc son
chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân huyện Phước Sơn nói riêng,
quân và dân Khu 5 nói chung.

[1]
[2]

[3]
[4]

[5]


[6]

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phước Sơn (2001), “Lịch sử Đảng bộ huyện Phước
Sơn tập I”, (1945-1975), Sở VHTT Quảng Nam xuất bản.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam - Huyện ủy Phước Sơn (2013), “45 năm
chiến thắng Khâm Đức - Ngok TaVak (12/5/1968-12/5/2013)”, do Sở Thông tin Truyền thông Quảng Nam xuất bản.
Tỉnh ủy Quảng Nam (1965), “Báo cáo tình hình Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm
1954-1965”. Tài liệu ký hiệu Y-III-11, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.
Binh đồn 12, Bảo tàng Hồ Chí Minh (2013), “Lý lịch Di tích lịch sử Đường
Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh: Di tích lịch sử Chỉ huy sở tiền phương Bộ Tư
lệnh Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn tại sân bay Khâm Đức”.
Đảng bộ Quân khu 5 (2010), “Lịch sử Đảng bộ Quân khu 5 (1946-2010), tập 2:
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975”, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
Hồi ký của đồng chí Phạm Đức Nam, ngun Phó Bí thư, Chủ tịch UBND cách
mạng Đặc Khu ủy Quảng Đà. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.
29


Chiến thắng Khâm Đức - Ngok tavak (12/5/1968)...
[7] Lịch sử Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh (1999), Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
[8] Phông Đệ Nhất – VNCH, Tài liệu ký hiệu 5742, Lưu tại TTLTQG II- thành phố
Hồ Chí Minh.

Title: KHAM DUC - NGOK TAVAK VICTORY: OPENING THE
TRUONG SON ROUTE THROUGH QUANG NAM PROVINCE
Le Nang Đong

Abstract: The victory of Kham Duc - Ngok Tavak campaign on 12/5/1968
defeated the enemy in a key area, completely liberating Phuoc Son district, contributing
to defending the revolutionary movement in western Quang Nam, opening Road 14- a
motorized transport route from the eastern Annamite strategic corridor to the coastal
plain of Zone 5, but the research content still has many gaps. This article will clarify
the strategic position of Kham Duc for both us and the enemy, the right and creative
leadership of the Party Committee and Commanders of the 5th Military Region in the
victory of Kham Duc - Ngok Tavak. At the same time, it will analyze the significance of the
Kham Duc - Ngok Tavak victory for the general situation of the Quang Nam battlefield in
particular and Zone 5 in general, especially the opening of the eastern Annamite strategic
route through Quang Nam province.
Keywords: Kham Duc, Ngok Tavak, Military District, Road 14, Eastern Annamite
route.

30



×