VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG VĂN CHINH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG VĂN CHINH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 038.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Phòng ngừa tình hình các
tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam” là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Đặng Văn Chinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH CÁC TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NAM ................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản . 8
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
......................................................................................................................... 14
1.3. Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài
sản.................................................................................................................... 16
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM GIAI
ĐOẠN 2013-2017 ........................................................................................... 28
2.1. Thực trạng nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung
phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2013 – 2017 ..................................................................................... 28
2.2. Thực trạng các giải pháp và áp dụng các giải pháp phòng ngừa tình hình
các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 – 2017
......................................................................................................................... 50
Chương 3. TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ......... 56
3.1. Tăng cường nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung
phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
......................................................................................................................... 56
3.2. Hoàn thiện các biện pháp và tổ chức phòng ngừa tội phạm CĐTS trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................... 63
3.3. Tăng cường nguồn lực phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .......................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
Các tội CĐTS
: Các tội chiếm đoạt tài sản = Các tội phạm
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
CTTP
: Cấu thành tội phạm
PNTP
: Phòng ngừa tội phạm
THTP
: Tình hình tội phạm
TAND
: Tòa án nhân dân
UBND
: Ủy ban nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu
Tên bảng
bảng
Trang
Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình các tội
2.1.
CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam gia đoạn từ
30
năm 2013 – 2017
Tỷ lệ tội phạm CĐTS thực hiện trong tình hình tội
2.2.
phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ
30
năm 2013 – 2017
Mức độ phạm tội đối với các tội danh thuộc nhóm
2.3.
các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai
31
đoạn từ năm 2013 – 2017
2.4.
Động thái (diễn biến) của các tội CĐTS trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 – 2017
32
Động thái (diễn biến) của các tội CĐTS trên địa bàn
2.5.
tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017
33
trong so sánh liên kế
Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng
2.6.
đối với các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
35
giai đoạn từ năm 2013 – 2017
Cơ cấu của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng
2.7.
Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo giới
36
tính của người phạm tội
Cơ cấu của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng
2.8.
Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo độ tuổi
của người phạm tội
37
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
Cơ cấu của các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng
2.9.
Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo trình độ
học vấn của người phạm
38
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Nam là tỉnh duyên hải Trung Trung bộ, cách Thủ đô Hà Nội
830km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 865km về phía Nam, trên
tuyến giao thông huyết mạch của cả nước và là một trong những tỉnh thuộc
vùng kinh tế năng động của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Với diện tích
tự nhiên 10.407,47km2, địa hình đa dạng phân thành 03 vùng rõ rệt: Đồng
bằng, trung du, miền núi; được phân bố thấp dần từ Tây sang Đông và một
phần diện tích đảo. Dân số là 1.480.000 người, với mật độ dân số trung bình
là 140 người/km2 (2016), với 27 dân tộc sinh sống trong đó có 4 tộc người
thiểu số cư trú lâu đời là người Cơ Tu, người Co, người Gié Triêng, người Xê
Đăng. Tỉnh có 142 km đường biên giới giáp với nước bạn Lào và 125 km bờ
biển; có trục Quốc lộ 1A, 07 tuyến Quốc lộ khác và tuyến đường sắt Bắc Nam qua địa phận; có cảng biển Kỳ Hà, sân bay Chu Lai và nhiều tuyến sông
phục vụ hoạt động vận tải. Toàn tỉnh có 18 huyện, thị xã, thành phố; trên
4.200 doanh nghiệp các loại (trong đó, có 2.500 doanh nghiệp trong 35 Cụm
công nghiệp và 08 Khu công nghiệp đang hoạt động).
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, tỉnh
Quảng Nam có bước phát triển vượt bậc trở thành tỉnh khá trong khu vực
duyên hải miền Trung. Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao; văn hóa - xã
hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, là địa phương có địa bàn rộng, dân số đông, đang trong giai đoạn
phát triển, tập trung nhiều khu công nghiệp, nhiều địa điểm khai thác khoáng
sản nên tình hình an ninh trật tự cũng diễn biến phức tạp, trong đó phải kể đến
tội phạm xâm phạm sở hữu, đặc biệt là các tội CĐTS có xu hướng gia tăng
trong những năm gần đây. Trong đó, tội phạm trộm cắp tài sản, cướp, cướp
1
giật tài sản còn chiếm tỉ lệ lớn trong cơ cấu của tình hình tội phạm. Phương
thức thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Mặt khác, hậu quả do
loại tội phạm này gây ra không chỉ là thiệt hại về vật chất, tài sản mà còn gây
mất trật tự an toàn xã hội.
Để phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và các tội CĐTS nói riêng,
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan tư pháp tỉnh Quảng
Nam đã có nhiều giải pháp hữu hiệu và đạt được những kết quả nhất định.
Thực hiện Chỉ thị số 48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới (2010),
Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng chính
phủ phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 20162025 và định hướng đến năm 2030, Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành
động số 09-CTr/TU, ngày 15/3/2011 để chỉ đạo các tổ chức Đảng, các ban
ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị; UBND tỉnh ban
hành Kế hoạch số 1440/KH-UBND, ngày 26/4/2011 phân công trách nhiệm,
hướng dẫn các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của
Bộ Chính trị và Chương trình hành động số 09-CTr/TU của Tỉnh ủy gắn với
việc triển khai kế hoạch thực hiện các Chương trình mục tiêu Quốc gia về
phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy.
Tuy có sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị của tỉnh với quyết
tâm cao trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, song, trên thực tế,
tình hình tội phạm, đặc biệt là tình hình các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong những năm gần đây xảy ra và có diễn biến phức tạp về cả tính chất
và mức độ. Trong trong vòng 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017, TAND tỉnh
Quảng Nam đã xét xử 1.729 vụ án với 2.877 bị cáo về các tội CĐTS chiếm
45,2% tổng số vụ án và 45,9% số bị cáo số bị can của tình hình tội phạm trên
địa bàn tỉnh.
2
Chính vì lý do trên, việc nghiên cứu thực trạng phòng ngừa, đánh giá
những kết quả đã đạt được, những hạn chế của hoạt động phòng ngừa và tìm
ra những nguyên nhân của những hạn chế để từ đó đưa ra các biện pháp
phòng ngừa các tội phạm về sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình các tội phạm
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” làm
Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình
khoa học sau đây đã được nghiên cứu:
- “Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb.
Chính trị quốc gia, 1994;
- “Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện
Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2000;
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an
nhân dân, tái bản năm 2013;
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo
của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
- Giáo trình “Tội phạm học Việt Nam” do GS.TS. Trần Đại Quang chỉ
đạo biên soạn Nxb. Công an nhân dân, năm 2013.
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS.TS. Võ
Khánh Vinh, Chương – Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội 2010;
- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, 2004…2010;
3
- Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb.
Công an nhân dân, 2002, 2013;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của TS.
Phạm Văn Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân, 2007;
- Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở
nước ta hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành, Phạm
Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn, Nxb. CAND, 2010;
- “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và
Phạm Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm
2013.
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân
người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tòa án nhân
dân, Công an nhân dân trong những năm gần đây.
Tình hình nghiên cứu cụ thể
Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài Luận văn, các công
trình sau đây đã được tham khảo:
- Lê Thị Hồng (2013) “Tình hình tội phạm ở Thành phố Đà Nẵng hiện
nay”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Nguyễn Quốc Hùng (2014) “Tội phạm trên địa bàn huyện Phú Ninh,
tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn
Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Hoàng Thị Hoa (2016), “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;
- Lê Hữu Nhân (2016), “Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Tô Lan Phương (2016), “Phòng ngừa tội phạm trộm cắp trên địa bàn
4
quận Tân Bình”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Như vậy, lý luận chung đã có và có nhiều công trình nghiên cứu tội
phạm học có liên quan đến đề tài luận văn đã được thực hiện trong những
năm gần đây. Đó là nền tảng chất liệu nghiên cứu quý giá mà đề tài luận văn
này có thể tham khảo và kế thừa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng đến là xây dựng hệ thống giải
pháp phòng ngừa hữu hiệu đối với các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu: Bao gồm tài liệu văn bản của Đảng ở Trung ương
và địa phương, tài liệu về pháp luật và tài liệu chuyên ngành tội phạm học.
- Nghiên cứu thực tế: Bao gồm số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết
năm của các cơ quan tư pháp, thu thập hồ sơ, bản án cụ thể.
- Nghiên cứu sáng tạo, bao gồm những việc cụ thể sau:
+ Khái quát những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tội phạm, áp
dụng cho phòng ngừa các tội CĐTS;
+ Nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình các tội CĐTS từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam từ năm 2013-2017, từ thực trạng nhận thức về các vấn đề
của phòng ngừa tội phạm cho đến thực trạng các giải pháp và áp dụng các giải
pháp; tình hình các tội CĐTS và nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu
cực này.
+ Kiến nghị giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội CĐTS trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phòng ngừa tình hình các tội CĐTS
5
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc
chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”;
- Về tội danh, đề tài luận văn đề cập đến các tội CĐTS, được quy định từ
Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm
2009), có cập nhật những Điều luật tương ứng trong BLHS hiện hành;
- Về thời gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế từ năm 2013 đến năm
2017, gồm số liệu thống kê của Tòa án và 100 bản án hình sự sơ thẩm về các
tội CĐTS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về vấn đề tội phạm trong xã hội, cũng như về vấn đề phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như sau: Biện chứng; Lô-gich; Kế thừa; Hệ thống; Thu hút;
phương pháp thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so
sánh, quy nạp, diễn dịch; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu để giải quyết
các nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học
về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội CĐTS trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức
6
tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ
nhận thức cho quần chúng nhân dân và vận dụng trong công tác điều tra, truy
tố, xét xử, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình
hình các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Luận văn còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các trường trong và ngoài Công an
nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chương 2. Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-2017
Chương 3. Tăng cường phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC
TỘI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt
tài sản
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
1.1.1.1. Các tội chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Quan hệ sở hữu là một trong những quan hệ quan trọng được pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng chú trọng bảo vệ. Quyền sở hữu
bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu.
Các tội CĐTS được quy định tại chương XIV từ Điều 133 đến Điều 140
BLHS Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), bao hàm dấu hiệu
của tội phạm nói chung đã được ghi nhận ở khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm
1999 và được hiểu một cách khái quát là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do
người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật hình sự qui định thực
hiện một cách cố ý xâm hại đến quan hệ sở hữu được BLHS qui định.
Như vậy cũng như các tội phạm khác, các tội CĐTS có các đặc điểm là
hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có tính trái pháp luật hình sự,
có tính có lỗi và có tính phải chịu hình phạt.
Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan
không tách rời nhau bao gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội
phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Do vậy cần phải
nhận thức đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng cho bốn yếu tố nói trên. Đối với các
tội CĐTS, điều đó cũng không phải là ngoại lệ.
- Khách thể của các tội CĐTS
Khách thể của các tội CĐTS là quan hệ sở hữu. Tuy nhiên bên cạnh quan
hệ sở hữu vốn là khách thể bắt buộc (phải có) của tất cả các tội CĐTS, một số tội
8
trong nhóm tội này còn xâm hại quan hệ nhân thân như tội cướp tài sản, tội
cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản... Đối tượng tác động của các tội CĐTS
bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ giá trị được bằng tiền và các quyền về tài sản.
Tài sản đó có thể là tài sản hợp pháp nhưng cũng có thể là tài sản bất hợp pháp.
Có ngoại lệ là có một số đối tượng tuy thỏa mãn khái niệm tài sản nhưng do tính
chất đặc biệt nên có thể không phải là đối tượng tác động của các tội CĐTS như
ma túy, vũ khí, quân trang, quân dụng... chẳng hạn.
- Mặt khách quan của các tội CĐTS
Căn cứ vào tính chất hành vi của tội phạm được qui định từ Điều 133
đến Điều 140 BLHS có thể thấy các tội CĐTS đều phải có hành vi nhằm
CĐTS hoặc hành vi CĐTS của người khác. Một số tội có cấu thành hình thức
với dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm chỉ gồm hành vi
CĐTS, một số tội được xây dựng dưới hình thức cấu thành tội phạm vật chất
với các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm là hành vi
CĐTS, hậu quả của tội phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi chiếm
đoạt tài sản và hậu quả gây ra.
Các hành vi phạm tội thuộc nhóm các tội CĐTS đều được thực hiện
bằng hành động, hàm chứa mục đích CĐTS, bởi vậy được thực hiện quyết
liệt. Hậu quả mà những hành vi CĐTS gây ra, trước hết là những thiệt hại gây
ra cho quan hệ sở hữu ở chỗ làm mất hoặc hạn chế các quyền chiếm hữu, sử
dụng hoặc quyền định đoạt đối với chủ sở hữu do tài sản bị chiếm đoạt. Ngoài
ra một số tội CĐTS còn có thể gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tự do
thân thể của người khác như tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan của các tội CĐTS
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của nó bao gồm các dấu
hiệu gắn chặt với biểu hiện bên ngoài là mặt khách quan của tội phạm đã phân
tích như lỗi, mục đích phạm tội, động cơ phạm tội. Tất cả các tội CĐTS có lỗi
9
cố ý và hơn thế đều là cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi, người thực hiện
hành vi, người phạm tội nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là nguy
hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự ngăn cấm, thấy trước hậu quả tất yếu xảy
ra và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Mục đích CĐTS là dấu hiệu bắt buộc
của các tội CĐTS. Đây là dấu hiệu cho phép phân biệt một số tội thuộc nhóm
tội này với các tội khác cũng có đối tượng tác động là con người như tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác chẳng hạn.
- Chủ thể của các tội CĐTS
Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, chủ thể của các tội CĐTS là
thể nhân, con người cụ thể. Cũng theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể đó
phải đủ độ tuổi luật hình sự quy định để có thể chịu trách nhiệm hình sự (Điều
12 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009) và phải có năng lực trách
nhiệm hình sự (nhận thức qua Điều 13 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009). Theo quy định của BLHS năm 1999 chủ thể của tất cả các tội CĐTS là
chủ thể thường đủ những điều kiện đã khái quát như trên.
1.1.1.2. Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học
Tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội CĐTS nói riêng thể
hiện đặc điểm định lượng và định tính ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ hành
chính nhất định, tình hình các tội CĐTS được thể hiện cụ thể qua mức độ, cơ
cấu, động thái và tính chất của tình hình tội phạm.
Như vậy, khi các tội CĐTS như đã phân tích ở trên mà xảy ra trên thực
tế ở một địa bàn nhất định như tỉnh Quảng Nam, trong một thời gian nhất
định, thì tội phạm học nhìn nhận đó là tình hình các tội CĐTS, tức là một hiện
tượng xã hội tiêu cực phản ánh quy luật của sự phạm tội thông qua những bản
chất nhất định. Chính vì thế mà tội phạm học khách quan khẳng định quan
điểm rằng “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự
được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất
(hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định trong
10
một thời gian nhất định” [45, tr.61]. Và để “công cụ hóa” cho việc nghiên
cứu thực tế, khái niệm tình hình tội phạm hiện được xác định là một hiện
tượng tâm – sinh lý – xã hội tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể,
vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện
thông qua tổng thể các hành vi phạm tội cùng với các chủ thể đã thực hiện
các hành vi đó trong một đơn vị thời gian và không gian nhất định [10].
Vì tình hình các tội CĐTS chỉ là một trường hợp cụ thể của tình hình tội
phạm như vừa nêu, nên cũng có những dấu hiệu, các thuộc tính của tình hình
tội phạm. Theo đó, tình hình các tội CĐTS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai
đoạn từ 2013-2017 phải được biểu hiện ở tổng thể các tội CĐTS đã được thực
hiện trên địa bàn tỉnh trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017.
1.1.1.3. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
Hiểu theo nghĩa biện chứng, thì phòng ngừa tội phạm, cũng như phòng
ngừa tình hình tội phạm, đều có nội dung giống nhau và đều đã được tội phạm
học làm rõ. Tình hình các tội CĐTS vẫn xảy ra hàng năm trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam với một mức độ và tính chất nhất định. Đó là một thực tế không
ai bác bỏ và cái thực tế này phải được giải quyết ngay và có thể giải quyết
được bằng những biện pháp thích ứng. Trong cái thực tế đó lại chứa đựng
những yếu tố tiêu cực mà trong sự tác động qua lại ở những hoàn cảnh, tình
huống nhất định đã sinh ra chính thực tế như vậy của tình hình các tội CĐTS,
tức là chứa đựng quy luật của sự phạm tội mà tội phạm học gọi là nguyên
nhân và điều kiện (của hiện tượng này), cái cần phải được loại trừ bằng một
hệ thống các biện pháp khác với những biện pháp đã nêu trên. Chính vì thế,
trong nhiều Chỉ thị của Đảng về phòng, chống tội phạm đều đặt ra 2 mục tiêu
khác nhau, nhưng lại có quan hệ biện chứng với nhau. Đó là Ngăn chặn và
Đẩy lùi tội phạm [34].
Phù hợp với quan điểm của Đảng, cũng là phù hợp với thực tế, phòng
ngừa tình hình các tội CĐTS được hiểu là chiến lược hành động của toàn xã
11
hội do Đảng lãnh đạo nhằm giải quyết hai vấn đề có liên quan chặt chẽ với
nhau là vấn đề hiện trạng của tình hình tội phạm và vấn đề nguyên nhân, điều
kiện của hiện tượng tiêu cực này.
Do vậy, phòng ngừa tội phạm có hai phần: Một phần gồm các biện pháp tác
động vào nhân (tức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở giai đoạn
tương tác nhập tâm) và một phần tác động vào quả (tức tình hình tội phạm tiềm
tàng). Hai phần trên của phòng ngừa tội phạm không thể tạch rời nhau, cùng tạo
thành nội dung của chiến lược phòng ngừa tình các tội CĐTS [29].
1.1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
Khái niệm “ý nghĩa” không thấy được giải thích trong từ điển triết học
[37], song trong Từ điển Tiếng Việt 2010 của Viện Ngôn ngữ học có giải
thích: “Ý nghĩa là giá trị, tác dụng” [43].
Như vậy, trong Luận văn này, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội
CĐTS cũng được đề cập theo chỉ dẫn trên, tức là xem xét giá trị và tác dụng
của phòng ngừa trên hai phương diện lý luận và thực tế trong phạm vi của
chuyên ngành nghiên cứu, tức là tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
- Ý nghĩa lý luận của phòng ngừa tội phạm: Tội phạm học khách quan
khẳng định, phòng ngừa tội phạm vừa là cái quyết định cho sự hình thành tội
phạm học với tính cách là một khoa học pháp lý hình sự độc lập trong quá trình
lịch sử đấu tranh với tình hình tội phạm của xã hội loài người, vừa là mục đích
của khoa học này, cái chỉ có thể đạt được trên cơ sở đã hiểu rõ khách thể
nghiên cứu của nó là tình hình tội phạm, cũng như đã xác định được quy luật
vận động của khách thể đó. Quy luật này chính là đối tượng nghiên cứu của tội
phạm học và nó được xác định thông qua việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm trên cơ sở của cơ chế hành vi phạm tội. Nói cách
khác, phòng ngừa tội phạm do thực tế quy định, tức là do tình hình tội phạm và
do nguyên nhân và điều kiện thực tế của tình hình tội phạm quy định. Điều đó
có nghĩa rằng, tội phạm học khách quan, tội phạm học Việt Nam, thừa nhận
12
tình hình tội phạm là hiện tượng tiêu cực tồn tại khách quan, và do những con
người bình thường, không phải bẩm sinh phạm tội, gây ra. Những con người
phạm tội này được tội phạm học nghiên cứu trong phạm trù “Nhân thân người
phạm tội”, một bộ phận cấu thành quyết định của tình hình tội phạm. Những
con người đã phạm tội đó, đã tạo ra tình hình tội phạm thực tế đó, cũng như
bao người khác là cũng có quá trình phát triển bản thân, cái quá trình diễn ra
theo hai giai đoạn là nhập tâm và xuất tâm, nhưng ở họ, ở giai đoạn nhập tâm
và xuất tâm của họ có vấn đề tiêu cực và phạm tội. Vì thế, phòng ngừa tội
phạm phải khống chế được các yếu tố tiêu cực và tội phạm này của họ và của
những người khác ở trạng thái tiềm tàng, cũng như từng bước đẩy lùi tội phạm
khỏi đời sống xã hội. Đó chính là cái nghĩa lý luận, giải thích tại sao, phòng
ngừa tội phạm hay tình hình tội phạm luôn luôn là một chiến lược.
- Ý nghĩa thực tế của phòng ngừa: Phòng ngừa tội phạm là phương
hướng chính, là tư tưởng chủ đạo trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Nó vừa thể hiện tính khách quan cần thiết, vừa biểu hiện bản chất nhân
đạo của chế độ xã hội hiện đại. Khách quan cần thiết là vì, tình hình tội phạm
luôn luôn là vật cản sự phát triển tiến bộ của cả xã hội và cá nhân. Về mặt
nhân đạo, phòng ngừa tội phạm giúp hạn chế áp dụng việc trừng phạt, thay
vào đó là làm tội phạm không có cơ hội để xảy ra. Bởi không có tội phạm xảy
ra thì không có người phạm tội, không phải chịu trách nhiệm hình sự, chịu
hình phạt, tù tội... Đó là đối với bản thân người phạm tội. Còn đối với nạn
nhân của tội phạm thì phòng ngừa tội phạm giúp họ không phải chịu hậu quả
của hành vi phạm tội gây ra, cụ thể đối với nhóm tội CĐTS là không phải
chịu những thiệt hại về tài sản, sức khỏe. Ngoài ra, phòng ngừa tội phạm còn
mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm
giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã
hội, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân. Đối với
các cơ quan, các chức danh tư pháp hình sự và thi hành án, phòng ngừa tội
13
phạm giúp làm giảm áp lực công việc lên cán bộ thực thi công vụ, tiết kiệm
sức lao động của nhân viên Nhà nước cũng như của công dân trong các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Hơn nữa,
làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm còn mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, làm
giảm các chi phí liên quan đến việc xử lý tội phạm, giảm gánh nặng cho ngân
sách nhà nước, nghĩa là tiền thuế của người dân sẽ được dùng cho các công
việc phúc lợi khác thay vì dùng cho việc xử lý tội phạm.
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt
tài sản
1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt tài sản
Vì phòng ngừa tình hình các tội CĐTS chỉ là một trường hợp cụ thể của
phòng ngừa THTP nói chung, nên mục đích của nó cũng được quy định bởi mục
đích của “Cái chung”, tức là ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời
sống xã hội [6], gọi tắt là ngăn chặn và đẩy lùi các tội CĐTS. Mục đích của
phòng ngừa tội phạm cần phải hướng đến không để hình thành và tồn tại các
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tức là phải hạn chế, cô lập, tiến tới loại trừ
những mầm mống tội phạm. Đối với THTP nói chung cần phải hạn chế, làm
giảm, chặn đứng không để có sự gia tăng phát triển tội phạm trong xã hội và tiến
tới xóa bỏ, thủ tiêu hiện tượng này khỏi đời sống xã hội. Nên mục đích của
phòng ngừa tình hình các tội CĐTS cũng được quy định bởi mục đích chung của
hoạt động phòng ngừa tội phạm là ngăn chặn, tức là từng bước hạn chế, làm
giảm dần và tiến tới loại bỏ các tội CĐTS khỏi đời sống xã hội.
1.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa các tội chiếm đoạt tài sản
Phòng ngừa tình hình tội phạm, như đã nói, là chiến lược hành động của
toàn xã hội do Đảng lãnh đạo nhằm giải quyết hai vấn đề có liên quan chặt chẽ
với nhau là vấn đề hiện trạng của tình hình tội phạm và vấn đề nguyên nhân,
điều kiện của hiện tượng tiêu cực này. Vì thế, phòng ngừa tội phạm phải tuân
thủ nhiều nguyên tắc, phụ thuộc vào mục đích, quy mô và phạm vi tác động
14
của biện pháp áp dụng. Ở đây chỉ đề cập đến những nguyên tắc chung.
1.2.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm cũng như mọi chủ thể tiến hành các hoạt động
phòng ngừa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng – cụ thể là Đảng Cộng sản
Việt Nam với lý luận khoa học chủ đạo là chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với
tư tưởng Hồ Chí Minh làm sợi chỉ đỏ dẫn đường.
1.2.2.2. Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung và việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nói riêng phải có
cơ sở pháp luật, hợp pháp và hợp hiến. Các chủ thể tiến hành hoạt động
phòng ngừa cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định của
pháp luật trong quá trình tiến hành các hoạt động phòng ngừa đó.
1.2.2.3. Nguyên tắc khoa học
Nội dung của nguyên tắc khoa học và tiến bộ của hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm thể hiện ở chỗ các biện pháp phòng ngừa, tổ chức hệ thống
phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa phải được xây dựng có khoa học, tức là
có cơ sở lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh với tội
phạm, mang tính chất đồng bộ, có hệ thống đạt hiệu quả cao.
1.2.2.4. Nguyên tắc đại chúng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì quần chúng là sức mạnh
vĩ đại, là người chủ của xã hội. Chỉ khi có quần chúng được lôi cuốn tham gia
vào hoạt động phòng ngừa tội phạm thì mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang đó.
Nguyên tắc đại chúng chính là việc lôi cuốn được đông đảo quần chúng
nhân dân lao động, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần và toàn xã hội
tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Nguyên tắc đó đòi hỏi
phải phát huy tinh thần chủ động, tích cực sáng tạo của mọi chủ thể tham gia
hoạt động phòng ngừa, để tạo ra một hoạt động rộng lớn của xã hội.
15
1.2.2.5. Nguyên tắc quốc tế (Hợp tác quốc tế và phù hợp với quan điểm
quốc tế về phòng ngừa tội phạm)
Nguyên tắc quốc tế thể hiện ở chỗ các hoạt động phòng ngừa tội phạm
phải phù hợp với quan điểm của quốc tế về phòng ngừa tội phạm và xu hướng
hoạt động phòng ngừa của các nước trên thế giới, các chủ thể tiến hành phòng
ngừa tội phạm không ngừng nâng cao hợp tác quốc tế thể hiện qua việc ký kết
các hiệp định hợp tác song phương và đa phương, tổ chức học tập kinh
nghiệm phòng chống tội phạm của các nước bạn.
1.3. Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội chiếm đoạt
tài sản
Trên thế giới và cả ở Việt Nam cho đến nay, trong nhiều tài liệu cho thấy,
phòng ngừa tội phạm được phân loại theo một số hệ thống khác nhau, như:
Chung-Riêng; Cơ bản- Phái sinh; Ngăn chặn- Loại trừ hay Ngăn chặn- Đẩy lùi.
Như vậy, sự phân loại là có sự thống nhất và biện chứng, tức là phân đôi cái
thống nhất để nhận thức và thực hiện. Ở đây, trong Luận văn này, tư tưởng đó
được áp dụng và kế thừa quan điểm của Nhà nước ta được thể hiện tại Nghị
quyết số 21/NQ-CP ngày 12/05/2009, tức là lấy mục đích để phân loại.
Phòng ngừa tội phạm có hai bộ phận: Một bộ phận gồm các biện pháp tác
động vào nhân, được gọi là những biện pháp loại trừ (đẩy lùi) tội phạm; một bộ
phận khác gồm các biện pháp tác động vào quả, tức là phản ứng trực diện với
hiện trạng (trạng thái của tội phạm: Chưa xẩy ra; đang xẩy ra; đã xử lý về mặt
hình sự) của THTP, được gọi là những biện pháp ngăn chặn tội phạm.
Vì thế phòng ngừa tình hình các tội CĐTS được phân làm hai loại là
ngăn chặn và đẩy lùi các tội CĐTS.
1.3.1. Nội dung và các biện pháp ngăn chặn tình hình các tội chiếm
đoạt tài sản
Với tư cách là một tạo phần của phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn tội
phạm dưới góc độ tội phạm học được hiểu là một chỉnh thể hoạt động kiểm
16
soát và quản lý xã hội vì mục đích ngăn ngừa các tội phạm hiện đang tiềm
tàng trong xã hội, không để cho chúng xảy ra, không cho chúng thực hiện
được đến cùng và không để xảy ra tái phạm.
* Ngăn chặn tội phạm tiềm năng
Những biện pháp ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra hay không để
cho hành vi phạm tội được thực hiện được hiểu là những biện pháp kiểm soát
xã hội và quản lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội tiềm
tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm
tê liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm. Hành vi ở đây là hành vi
phạm tội đã được quy định trong BLHS năm 1999, đã xảy ra nhiều lần trong
thực tế những năm qua và nó đang sắp xảy ra trong thời gian tới. Đối với
trạng thái tội phạm chưa xảy ra, việc ngăn chặn tội phạm phải bao hàm ba
nhóm biện pháp: Một là nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình chuẩn bị và thực
hiện hành vi phạm tội; hai là nhóm biện pháp quản lý người phạm tội tiềm
tàng; ba là nhóm biện pháp tác động vào các nạn nhân tiềm tàng của tội phạm.
Thứ nhất, nhóm biện pháp làm tê liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện
hành vi phạm tội. Những biện pháp này thực tế rất khác nhau, rất phong phú.
Chủ thể thực hiện các biện pháp này gồm có các cơ quan chuyên trách và toàn
bộ người dân trong xã hội, thực hiện các biện pháp tác động vào phương thức
thực hiện tội phạm như quản lý chặt chẽ những công cụ, phương tiện phục vụ
cho việc gây án, và người dân có ý thức chủ động can thiệp ngăn chặn trong
những tình huống tội phạm có khả năng xảy ra, thể hiện bằng việc báo Công
an ngay khi thấy những dấu hiệu của việc sắp có tội phạm xảy ra.
Thứ hai, nhóm biện pháp quản lý người phạm tội tiềm tàng. Những biện
pháp này đòi hỏi sự chung tay của cả cơ quan chức năng và người dân. Người
phạm tội tiềm tàng là những người chưa phạm tội trên thực tế nhưng có nhiều
khả năng phạm tội nếu không được quản lý. Những đối tượng có thể bị coi
như người phạm tội tiềm tàng là những người nghiện ma túy, không có nghề
17