ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU BA
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU BA
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thu Ba
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI
SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................. 9
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội trộm cắp tài sản
trong luật hình sự Việt Nam ............................................................ 9
1.1.1.
Quan hệ sở hữu với tư cách là khách thể được bảo vệ bằng luật
hình sự Việt Nam ................................................................................ 9
1.1.2.
Khái niệm tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam ............ 10
1.1.3.
Sự cần thiết của việc quy định tội trộm cắp tài sản trong luật
hình sự Việt Nam .............................................................................. 16
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự
Việt Nam từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến nay về tội
trộm cắp tài sản ................................................................................ 18
1.2.1.
Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến trước pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 .................................... 18
1.2.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật hình sự năm 1999 .............. 22
1.2.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay ......... 27
1.3.
Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự một số nước trên
thế giới .............................................................................................. 30
1.3.1.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga ......................................................... 30
1.3.2.
Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .............................. 32
1.3.3.
Bộ luật hình sự Nhật Bản .................................................................. 34
Chương 2: TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ....................................... 36
2.1.
Quy định về tội trộm cắp tài sản trong BLHS Việt Nam hiện hành .... 36
2.1.1.
Các dấu hiệu pháp lý hình sự ............................................................ 36
2.1.2.
Hình phạt ........................................................................................... 43
2.2.
Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.... 48
2.2.1.
Khái quát chung về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .................................................. 48
2.2.2.
Tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ...... 50
2.2.3.
Một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài
sản và những nguyên nhân cơ bản .................................................... 55
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ....... 62
3.1.
Sự cần thiết và ý nghĩa của viêc tiếp tục hoàn thiện các quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản ........ 62
3.1.1.
Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vê tội trộm cắp
tài sản ................................................................................................ 62
3.1.2.
Ý nghĩa của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản .............. 64
3.2.
Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.................... 65
3.2.1.
Nhận xét chung ................................................................................. 65
3.2.2.
Nội dung hoàn thiện .......................................................................... 67
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của BLHS Việt Nam về tội trộm cắp tài sản ................................ 70
3.3.1.
Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành áp dụng thống nhất pháp luật ... 70
3.3.2.
Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ ................................................ 72
3.3.3.
Các giải pháp khác ............................................................................ 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
ADPL
:
Áp dụng pháp luật
BLHS
:
Bộ luật hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLDS
:
Bộ luật dân sự
CTTP
:
Cấu thành tội phạm
QPPL
:
Quy phạm pháp luật
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
TAND
:
Tòa án nhân dân
TANDTC
:
Tòa án nhân dân tối cao
THTT
:
Tiến hành tố tụng
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC :
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
:
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Cơ cấu tội phạm đã bị khởi tố từ năm 2011 đến 2015
51
Bảng 2.2: Tỷ lệ (%) các nhóm tội phạm đã bị khởi tố từ năm
2011 – 2015
51
Bảng 2.3: Cơ cấu tội trộm cắp tài sản trong tội phạm xâm
phạm sở hữu
52
Bảng 2.4: Tỷ lệ (%) số vụ án và số bị can của các tội nằm trong
nhóm tội xâm phạm sở hữu từ năm 2011 đến 2015
52
Bảng 2.5: Số liệu xét xử sơ thẩm tội trộm cắp tài sản tại tỉnh
Quảng Nam từ năm 2011 đến 2015
53
Bảng 2.6: Cơ cấu về loại và mức hình phạt được áp dụng
54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới trong những năm qua, tình hình kinh tế,
văn hóa và xã hội của tỉnh Quảng Nam đã có những bước phát triển mạnh
mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể. Đời sống kinh tế, văn hóa, của
người dân được cải thiện một bước quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế
đạt tỷ lệ cao, vấn đề giáo dục đạt được những thành tựu đáng kể, tình hình
an ninh trật tự được giữ vững, công tác phòng, chống tội phạm đạt được
những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm những năm gần đây có xu hướng tăng lên
và diễn biến ngày càng phức tạp. Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Nam trong 5 năm qua (từ năm 2011 đến 2015) trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam đã xảy ra 6.481 vụ phạm pháp hình sự, trung bình mỗi năm xảy ra 1.296
vụ. Trong đó, các tội xâm phạm sở hữu 3.162 vụ, chiếm tỷ lệ 48,78%. Đặc biệt
đáng chú ý là đã xảy ra 2.304 vụ trộm cắp tài sản. Tội trộm cắp tài sản xảy ra khá
thường xuyên trên một phạm vi rộng, một loại hình tội phạm đang có chiều
hướng gia tăng và có diễn biến phức tạp và đang là một vấn nạn nổi cộm ở
Quảng Nam. Thiệt hại tài sản do tội trộm cắp tài sản gây ra ngày càng lớn. Các
đối tượng gây án có xu hướng hình thành các băng, nhóm, hoạt động lưu động,
liên tỉnh và gây án liên tục với những phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội
ngày càng tinh vi, manh động và liều lĩnh…, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân,
làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh, hoạt động của các
cơ quan, doanh nghiệp, trường học và đời sống của nhân dân.
Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan,
như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực
1
dụng, chạy theo đồng tiền, làm ăn chụp giật,... nhưng chủ yếu vẫn là do
những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo toàn
diện công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống tội
phạm chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của
Đảng và Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ
tham gia một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công,
phân cấp ở các cơ quan bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến
chồng chéo, trùng lặp. Năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng
như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên
quyết tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật,
chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu
cần - kỹ thuật bảo đảm cho công tác phòng, chống tội phạm còn nhiều khó
khăn, hạn chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh
phòng, chống tội phạm còn chưa phù hợp [38, tr. 1].
Mặc dù các cơ quan chức năng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa,
đấu tranh, nhất là việc phát hiện và làm hạn chế các nguyên nhân làm phát
sinh tội trộm cắp tài sản như đã phân tích ở trên song chưa đem lại hiệu quả
cao. Bên cạnh đó, thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử đã cho thấy việc định tội
danh cũng như quyết định hình phạt của những người tiến hành tố tụng trong
Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn nhiều hạn chế, có vụ định tội
danh chưa chính xác, quyết định hình phạt ít nhiều còn mang tính chủ quan.
Trước tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội trộm cắp tài sản có
diễn biến phức tạp như vậy, đồng thời để triển khai thực hiện Chỉ thị số 48CT/TW, ngày 22/10/2010 và Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 01/12/2011 của Bộ
Chính trị, Quyết định số 1217/QĐ-TTg ngày 06/9/2012 của Thủ tướng Chính
2
phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai
đoạn 2012-2015, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng
Nam đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định, Kế hoạch về công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở đó các ban,
ngành, đoàn thể và các huyện, thành phố đều có kế hoạch triển khai thực hiện
cụ thể đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với tội phạm các loại. Kết
quả đạt được trên lĩnh vực an ninh, trật tự ở Quảng Nam những năm qua là
không thể phủ nhận. Tuy vậy, tình hình tội phạm trên thực tế vẫn không hề
thuyên giảm, tình hình tội trộm cắp tài sản vẫn có diễn biến phức tạp.
Do đó, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội trộm cắp tài
sản, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay và thực tiễn xét xử các loại tội phạm này ở Quảng
Nam trong thời gian vừa qua (2011 - 2015), trên cơ sở đó tìm giải pháp hoàn
thiện về mặt lập pháp hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần
phòng, chống tội trộm cắp tài sản, đảm bảo an ninh - trật tự, an toàn xã hội.
Trước sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc nghiên
cứu tội phạm cụ thể trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ thực tiễn tại một
địa phương nhất định, không những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà còn
về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật. Nhận thức được điều đó, tác giả đã chọn
đề tài: “Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu
xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam)” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản được rất nhiều nhà nghiên cứu
lý luận, luật gia hình sự, cán bộ pháp lý quan tâm. Đến nay, ở các mức độ
khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có nhiều công trình nghiên cứu được công
bố, như luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận, giáo trình
và một số bài viết bình luận án,... được thể hiện trên ba bình diện sau:
3
* Nhóm thứ nhất (các luận văn, luận án tiến sĩ luật học) bao gồm: 1)
Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu,
Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2001; 2) Hoàng
Văn Hùng, Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng, chống tội phạm này ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007; 3) Nguyễn
Thanh Tùng, Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; 4) Trần Thị Phường, Định tội danh đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; v.v...
* Nhóm thứ hai (các sách chuyên khảo, tham khảo) bao gồm: 1)
GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Chương I Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007; 2)
GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Phần 2,
Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2000; 3) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về
định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 1999; 4) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm
phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2003; 5) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002; v.v...
* Nhóm thứ ba (sách giáo trình, bài viết) bao gồm: 1) Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; 2) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
4
2010; 3) Trần Mạnh Hà, Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu
hiệu đặc trưng, Tạp chí Nghề luật, số 5/2006; 4) Nguyễn Văn Trượng, Một
số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội trộm căp tài sản, Tạp chí TAND số 4,
tháng 2/2008; v.v...
Ngoài ra còn có các bài viết về tội xâm phạm quyền sở hữu được đăng
tải trên các tạp chí: Nhà nước và Pháp luật, Luật học, Cảnh sát nhân dân,
Công an nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Dân chủ và
Pháp luật trong những năm gần đây.
Các công trình đã nêu không thể thiếu được cho việc thực hiện đề tài
luận văn. Bởi vì, trong đó không chỉ chứa đựng lý luận về các vấn đề cơ bản
luận văn phải giải quyết mà còn có những chỉ dẫn cho việc xác định phương
pháp luận nghiên cứu đề tài, từ tổng quan cho đến chi tiết.
Các công trình trên rất có giá trị để luận văn có thể kế thừa thông tin, số
liệu đối chứng, ý tưởng nghiên cứu mà vẫn không bị trùng lặp vì có sự khác
nhau về các yếu tố như: cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu; thời gian nghiên
cứu; địa bàn nghiên cứu.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy: một số công
trình có phạm vi nghiên cứu rộng, có công trình chỉ nghiên cứu tội trộm cắp
tài sản với ý nghĩa là tội phạm để nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự và
hình phạt hoặc chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học, có công trình thì đã
nghiên cứu cách đây khá lâu, do vậy giá trị lý luận và thực tiễn đã không còn
cao. Đồng thời, rất ít công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về tội trộm
cắp tài sản một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống từ lý luận của một tội
phạm cụ thể đến thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
trong phạm vi tỉnh Quảng Nam.
Luận văn này tác giả nghiên cứu một số vấn đề lý luận của tội trộm
cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, dựa trên cơ sở đánh giá, khái quát
những vấn đề phát sinh từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam trong thời gian 5
5
năm (2011 - 2015). Trên cơ sở đó, việc tiếp tục nghiên cứu để tiếp tục hoàn
thiện quy định của BLHS Việt Nam tội trộm cắp tài sản, cũng như đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội phạm này vẫn còn
có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phục vụ trực tiếp cho địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề
pháp lý cơ bản về tội trộm cắp tài sản như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý
hình sự, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, phân biệt tội trộm cắp
tài sản với với một số tội phạm khác trong BLHS, đồng thời đi sâu vào phân
tích thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản từ năm 2011 đến 2015 trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại
trong thực tiễn xét xử để đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp
luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS
Việt Nam về loại tội phạm này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội trộm
cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa
bàn tỉnh Quảng Nam).
4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội
trộm cắp tài sản nói riêng.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân
6
tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp hệ thống hóa
các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp
đánh giá thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về tội trộm cắp tài sản, qua đó chỉ ra các khiếm
khuyết, bất cập.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các văn bản pháp luật, các
công trình nghiên cứu, các tài liệu khác có liên quan đến tội trộm cắp tài sản
và công tác phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh giữa pháp luật hiện
hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể:
- Khái niệm về tội trộm cắp tài sản.
- Phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
nước ta về tội phạm này từ năm 1945 đến nay
- So sánh tội trộm cắp tài sản của một số nước trên thế giới
- Nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định
của BLHS Việt Nam hiện hành
- Phân tích thông qua thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
7
từ năm 2011 đến 2015, qua đó chỉ ra những tồn tại, bất cập của các quy
định hiện hành, các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó cũng
như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản ở khía cạnh lập pháp
và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc
phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc
biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn cơ sở để đưa ra các kiến
nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội trộm
cắp tài sản, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền tài sản của tổ chức và công dân nói
riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong giải quyết
vụ án hình sự.
Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự tại
các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản trong luật hình
sự Việt Nam
Chương 2: Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội trộm cắp tài sản
trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Quan hệ sở hữu với tư cách là khách thể được bảo vệ bằng luật
hình sự Việt Nam
Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu thường
xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của
Nhà nước, do các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực lượng chuyên trách làm
nòng cốt [38, tr. 1].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta có nhiệm vụ
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Với vai trò là nền tảng kinh tế
xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một trong những vấn đề trọng yếu được
nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp, trong đó biện pháp pháp lý hình sự thể
hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực nhà nước trong xử lý các hành vi xâm
phạm tới chế độ sở hữu. Các quan hệ sở hữu được bảo vệ vững chắc thì sẽ tạo
môi trường xã hội ổn định, lành mạnh phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước.
Các tội xâm phạm quan hệ sở hữu đã gây ra những thiệt hại không nhỏ
về tài sản, tính mạng, sức khỏe của công dân, ảnh hưởng đến hoạt động chung
của xã hội. Do đó, khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ quan hệ sở hữu,
tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần
vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở
hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [33, Điều 32].
9
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo vệ các quan hệ sở hữu, trên
cơ sở của Hiến pháp, BLHS đã quy định chương “Các tội xâm phạm sở hữu”.
Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Chương XIV BLHS năm 1999 là
các tội được sát nhập từ các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định
tại Chương IV và các tội xâm phạm sở hữu của công dân quy định tại Chương
VI BLHS năm 1985 do yêu cầu của tình hình phát triển xã hội. Việc sát nhập
này, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mặt pháp lý là không
có sự phân biệt đối với các thành phần kinh tế trong xã hội. Mặt khác, nó
cũng đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn xét xử đặt ra trong những năm qua,
nhiều hành vi xâm phạm tài sản của các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu chung
của nhiều thành phần kinh tế như: Công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư
nước ngoài, liên doanh, liên kết... nhưng không thể xác định người phạm tội
xâm phạm tài sản thuộc sở hữu thuộc về thành phần kinh tế nào, nên việc định
tội và quyết định hình phạt không chính xác [28, tr. 2].
Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, các tội xâm phạm sở hữu được
khái niệm như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân” [28, tr. 4].
1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội. Theo quy định
tại Điều 8 BLHS năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì tội phạm
được định nghĩa như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
10
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [32, Điều 8].
Khái niệm tội phạm phản ánh những đặc điểm cơ bản: tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi và
phải xâm phạm đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ.
Tội trộm cắp tài sản ngoài những dấu hiệu pháp lý hình sự nói chung
thì còn có những đặc điểm riêng biệt của nó. Để đưa ra khái niệm đầy đủ về
tội trộm cắp tài sản thì chúng ta lần lượt đi vào phân tích các đặc điểm pháp lý
của tội phạm này. Cụ thể bao gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách lén lút
Đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội "trộm cắp tài sản" là hành
vi “lén lút”, không có việc lén lút thì không phải là trộm cắp. Nếu một hành
vi chiếm đoạt tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu tài sản, người quản
lý tài sản thì không thể coi đó là hành vi trộm cắp, mà hành vi trộm cắp phải
được thực hiện một cách lén lút, vụng trộm đối với chủ tài sản. Theo từ điển
Tiếng Việt giải nghĩa từ “lén lút” là hành vi: cố giấu diếm, vụng trộm không
để lộ ra do có ý gian. Trong tội "trộm cắp tài sản", hành vi “lén lút” chiếm
đoạt tài sản có đầy đủ những dấu hiệu này, thiếu một trong những dấu hiệu
đó sẽ không thể hiện được bản chất của sự "lén lút", bởi nếu làm một việc
quang minh thì không bao giờ phải lén lút. Nói cách khác, "lén lút" là hành
vi của một người cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng trộm, giấu
diếm không để lộ cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép
tài sản của họ [11, tr. 1].
11
Hành vi "lén lút" ở đây không nhất thiết là việc làm mà không ai biết,
nó có thể được thực hiện một cách giấu diếm, vụng trộm, nhưng cũng có thể
được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy nhiên, việc
giấu diếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung, đó là sự “lén
lút” với chủ tài sản. Bởi nếu không "lén lút" với chủ tài sản thì hành vi của họ
sẽ không còn là phạm tội "trộm cắp tài sản" nữa.
Thứ hai, đối tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành trộm cắp
Đối tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi trộm cắp là chủ
sở hữu và người quản lý tài sản
- Chủ sở hữu tài sản: theo quy định tại Điều 164 BLDS 2005 thì “quyền
sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản
của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt tài sản”. Hay nói một cách khác, chủ sở hữu là người có quyền: tự
nắm giữ, quản lý, chi phối tài sản theo ý mình mà không bị hạn chế, gián đoạn
về thời gian; có quyền khai thác các công dụng, lợi ích, giá trị của tài sản và
quyết định về số phận của tài sản đó.
- Người quản lý tài sản: là người đang nắm giữ hoặc trông coi tài sản,
họ không phải là chủ sở hữu tài sản nên họ không có được đầy đủ ba quyền
năng của chủ sở hữu. Vì vậy, người quản lý tài sản không được định đoạt tài
sản. Họ có thể được định đoạt tài sản trong phạm vi ủy quyền của chủ sở hữu.
Xét dưới góc độ pháp lý thì người quản lý tài sản được chia ra hai trường hợp
là quản lý tài sản hợp pháp và quản lý tài sản bất hợp pháp.
Người quản lý tài sản hợp pháp: là trường hợp người được chủ sở hữu
giao cho quản lý tài sản một cách hợp pháp; hoặc tuy không phải do chủ sở
hữu giao cho nhưng việc sử dụng, quản lý tài sản được coi là hợp pháp (VD:
Trường hợp con lấy xe máy của bố để đi chơi mà không hỏi ý kiến…);
12
người được người quản lý hợp pháp tài sản, giao tài sản cho để trông giữ;
hoặc người phát hiện và thu giữ các tài sản vô chủ, tài sản bị bỏ quên, chôn
giấu, chìm đắm… phù hợp với các điều kiện pháp luật quy định; hay các
trường hợp quản lý tài sản theo quyết định, mệnh lệnh của cơ quan Nhà
nước (VD: Các trường hợp thu giữ, tịch thu các tài sản là tang vật trong vụ
án hình sự…) [11, tr. 2].
Người quản lý tài sản không hợp pháp: xét về góc độ quyền sở hữu, thì
đây là trường hợp chiếm hữu bất hợp pháp trong quyền chiếm hữu tài sản,
trong đó có cả chiếm hữu tài sản bất hợp pháp ngay tình và không ngay tình.
Một số trường hợp sau đây được coi là người quản lý tài sản không hợp pháp:
+ Người có được tài sản do phạm tội mà có;
+ Người cố ý mua tài sản do người khác phạm tội mà có;
+ Người có được tài sản do hành vi gian dối, do vi phạm pháp luật
nhưng chưa đến mức là tội phạm hình sự…
Đây chỉ là một số những trường hợp điển hình, còn trong thực tế thì có
vô số sự biến tướng của dạng người này. Tuy nhiên, chúng có một đặc điểm
chung nhất, dễ nhận biết nhất là: việc chiếm hữu, quản lý tài sản không hợp
pháp và không được pháp luật thừa nhận. Nhưng trong pháp luật hình sự, mà
cụ thể là trong tội "trộm cắp tài sản", thì những người này trở thành đối tượng
mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi lén lút, bởi tại thời điểm đó, họ là
người đang nắm giữ tài sản [11, tr. 2].
Thứ ba, vào thời điểm mất tài sản, chủ tài sản không biết
Tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản không biết mình đã bị mất tài sản.
Việc không biết bị mất tài sản có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, như:
+ Không có mặt tại nơi để tài sản;
+ Thủ đoạn và phương pháp tinh vi của người phạm tội làm cho chủ tài
sản không biết được việc mình bị mất tài sản;
13
+ Do lâm vào tình trạng không có khả năng để biết, như: bị tai nạn
ngất, bị chết…
Việc xác định “tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản có biết hay không”
là vấn đề cần thiết phải làm rõ, bởi nó liên quan đến bản chất của hành vi
chiếm đoạt. Nếu tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản biết việc tài sản của
mình bị người khác chiếm đoạt, thì rất có khả năng là người chiếm đoạt
không có ý định che dấu hành vi phạm tội của mình đối với chủ tài sản. Và
như vậy, vấn đề có hay không có dấu hiệu “lén lút” cần phải đặt ra trong
trường hợp này khi định tội danh [11, tr. 2].
Thứ tư, đặc điểm về tài sản bị trộm cắp
Theo quy định tại Điều 163 BLDS thì “tài sản bao gồm vật có thực,
tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”
Tuy nhiên, không phải tài sản nào cũng là đối tượng tác động của tội
trộm cắp tài sản, mà chỉ những tài sản thuộc các trường hợp sau mới là đối
tượng tác động của loại tội phạm này. Trước hết, về mặt vật lý, tài sản là đối
tượng tác động của tội “trộm cắp tài sản” phải là một dạng vật chất cụ thể và
tồn tại dưới dạng là một động sản; Là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, Nhà nước; Là tài sản phải đang trong vòng kiểm soát của chủ
sở hữu, người quản lý tài sản; Là tài sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng; Tài
sản do chiếm hữu không hợp pháp. Ví dụ như: Tài sản do phạm tội mà có; tài
sản có được do mua nhầm của kẻ gian…[11, tr. 3].
Để xây dựng được khái niệm tội trộm cắp tài sản cần xuất phát từ khái
niệm tội phạm nói chung và những đặc điểm riêng của tội trộm cắp đã được
phân tích trên, cũng như tham khảo từ những nghiên cứu trước đó.
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, trộm cắp tài sản
được hiểu là “hành vi lén lút bí mật đối với người quản lý tài sản để chiếm
đoạt tài sản”
14
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TSKH.
Lê Cảm chủ biên thì để đưa ra được khái niệm tội trộm cắp tài sản, cần khẳng
định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, tức
là thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là: bình diện khác quan - tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; bình diện pháp lý - tội phạm là hành
vi trái pháp luật hình sự; bình diện chủ quan - tội phạm là hành vi do người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách có lỗi [6, tr. 105].
Còn theo Ths Đinh Văn Quế thì “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy
tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không
dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy
hiếp tinh thần của người quản lý tài sản” [28, tr.116]. Theo khái niệm này thì
chưa chỉ ra được khách thể cũng như chủ thể của tội trộm cắp tài sản.
Tại Điều 138 BLHS (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội trộm cắp
tài sản như sau:
Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm… [32, Điều 138].
Từ sự phân tích ở trên, thì tác giả đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài
sản nư sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm”
15
1.1.3. Sự cần thiết của việc quy định tội trộm cắp tài sản trong luật
hình sự Việt Nam
Trộm cắp tài sản là một trong những hành vi vi phạm pháp luật hình sự
xuất hiện rất sớm trong đời sống xã hội. Điều này được thể hiện qua các văn
bản của nhà nước phong kiến điều chỉnh các hành vi trộm cắp tài sản. Trong
những năm qua, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp đã tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an
ninh trật tự, chú trọng công tác tuyên truyền để cán bộ, nhân dân nắm bắt kịp
thời các phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm, đề cao ý thức cảnh
giác trong việc bảo vệ tài sản. Tuy nhiên, tình hình trộm cắp tài sản có diễn
biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Thủ đoạn gây án của tội phạm trộm
cắp ngày càng táo bạo, liều lĩnh, có tính chuyên nghiệp ngày càng cao và hoạt
động lưu động trên nhiều tuyến, nhiều địa bàn. Thực trạng này đã trở thành
vấn đề bức xúc cho người dân. Do đó, tội trộm cắp tài sản là một trong những
tội phạm nằm trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu và nó cần thiết được ghi
nhận trong trong luật hình sự Việt Nam để kịp thời xử lý những người có
hành vi trộm cắp tài sản của người khác nếu đáp ứng các điều kiện nhất định.
Cụ thể, tội trộm cắp tài sản được quy định ngay trong các văn bản của các
triều đại phong kiến, tiếp đến là BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và hiện
nay là BLHS sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015, là một
trong các tội thuộc chương các tội xâm phạm sở hữu, tạo cơ sở pháp lý cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ tài sản của Nhà nước, công dân.
Và để cụ thể hóa quy định về tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 BLHS
năm 1999, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ Tư pháp đã phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP (viết tắt TTLT số 02) ngày 25/12/2001 về
16
việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở
hữu” của BLHS và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn ban
hành Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP (viết tắt NQ số 01) ngày 12/5/2006
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS quy định chi tiết một số nội
dung nhằm áp dụng một cách thống nhất tội này trong thực tiễn.
Việc xử lý nghiêm các hành vi trộm cắp tài sản theo quy định của
BLHS là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng nhằm góp phần ngăn chặn và kiềm chế nạn trộm cắp tài sản, bảo
đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của công dân. Thực tiễn áp dụng
các quy định của BLHS năm 1999 về tội trộm cắp tài sản trong những năm
qua cho thấy mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và đã có văn bản hướng dẫn
của các cơ quan có thẩm quyền nhưng trong qúa trình điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án này, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn gặp một số vướng mắc,
lúng túng trong việc xác định tội danh, áp dụng các tình tiết định khung tăng
nặng hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự…
Nguyên nhân của tình trạng này một phần do các quy định của pháp luật hiện
hành bộc lộ một số điểm chưa phù hợp. Mặc khác, các văn bản hướng dẫn của
cơ quan có thẩm quyền về áp dụng các quy định của BLHS cũng chưa đầy đủ,
cụ thể và rõ ràng dẫn đến sự nhận thức và áp dụng không thống nhất trong
thực tiễn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ
án. Cần tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận tội trộm cắp tài
sản, đồng thời tìm ra những điểm bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật hiện hành về tội phạm này và nguyên nhân, trên cơ
sở đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật hiện hành có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn trong
thời điểm hiện tại và sắp tới.
17