Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

VỐN xã hội và đo LƯỜNG vốn xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.02 KB, 8 trang )

Tạp chí Khoa học X hội, số 3/2007, tr. 72-77

VỐN XÃ HỘI VÀ ĐO LƯỜNG VỐN XÃ HỘI
Lê Minh Tiến*
1. Quan niệm về vốn xã hội
Thời gian gần đây trong sinh hoạt khoa học tại nước ta đã có một cuộc hội thảo1, nhiều bài
viết trên các tờ báo, tạp chí trong nước bàn về khái niệm "vốn xã hội" (Social capital/Le
capital social)2, một chủ đề nổi lên ở Mỹ vào những năm 1990 và đã được bàn luận khá
rộng rãi và sâu sắc tại các nước phương Tây cách đây vài năm3. Có một điểm chung trong
các cuộc bàn luận tại nước ta cũng như ở các nước phương Tây đó là dù các tác giả đến từ
nhiều ngành khoa học khác nhau như kinh tế học, luật học hay xã hội học, nhưng gần như
mọi người đều thống nhất với kết luận chung rằng vốn xã hội một khái niệm rộng và không
nhất quán, từ những tác giả như Jane Jacobs, Pierre Bourdieu, James Coleman cho đến
Robert Putnam, Francis Fukuyama và Hernando de Soto cũng đều có những quan niệm
khơng giống nhau về khái niệm này. Thậm chí có nhà nghiên cứu cịn đi xa hơn khi cho
rằng vốn xã hội là một khái niệm chưa được "khái niệm hóa" đầy đủ, và do đó chưa trở
thành một khái niệm khoa học thực thụ (Trần Hữu Quang, 2006, tr. 74).
Tuy nhiên theo chúng tôi, sự thiếu nhất quán trong quan niệm về vốn xã hội không phải là
một nan đề và là điều hoàn toàn dễ hiểu trong nghiên cứu bởi vì ít nhất cho đến nay, các nhà
nghiên cứu trên thế giới đều đồng ý rằng khái niệm vốn xã hội là một trong những khái
niệm có thể được hiểu ở cả ba cấp độ trong nghiên cứu đó là cấp độ vi mơ (micro level),
cấp độ trung mô (meso level) và cấp độ vĩ mô (macro level). Ở từng cấp độ nghiên cứu sẽ có
quan niệm khác nhau nên tất sẽ dễ dẫn đến suy nghĩ rằng đây là một khái niệm không tường
minh, nhưng sự thực chắc không phải như vậy. Bàn sơ lược quan niệm về vốn xã hội ở ba
cấp độ này để thấy sự không nhất quán của khái niệm vốn xã hội là điều có thể hiểu được.
- Trước hết là ở cấp độ vi mô, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào khía cạnh hành
động tập thể (l'action collective) của vốn xã hội dựa trên quan điểm của lý thuyết về trò chơi
(la théorie des jeux). Theo quan điểm của lý thuyết này thì các cá nhân trong xã hội ln
ln có thiên hướng kết hợp lại với nhau thành các hiệp hội, các nhóm nhằm đạt được một
số mục tiêu nào đó. Trong cách nhìn như vậy, vốn xã hội được nhìn nhận như là sản phẩm
của1) những động cơ tự hợp tác, tự liên kết của các cá nhân (những giá trị và những khát


vọng lý giải cho sự hợp tác); 2) những hành vi, những kiểu hợp tác của các cá nhân và 3)
quan niệm, những niềm tin của cá nhân có được từ sự hợp tác. Như vậy ở đây vốn xã hội
được nhìn nhận như là kết quả của những đặc trưng cá nhân (nhu cầu hợp tác để đạt được
các mục tiêu như định nghĩa của Snijders (1999) về vốn xã hội đã thể hiện rõ "vốn xã hội là
những lợi ích mà cá nhân có được từ những mối quan hệ với các cá nhân khác" (A.
Degenne, 2003, tr. 19).
- Quan niệm về vốn xã hội ở cấp độ vĩ mơ thì lại quan tâm đến khía cạnh hội nhập và cố kết
xã hội của vốn xã hội (l'intégration et la cohésion sociale). Quan niệm này gắn với các quan
niệm của các lý thuyết về thiết chế (les théories de l'institutionnalisme) khi cho rằng vốn xã
hội là một sản phẩm của cấu trúc xã hội, mà cụ thể là của các giá trị và chuẩn mực của nền
văn hóa xã hội. Theo cách nhìn này, nếu các giá trị, chuẩn mực xã hội càng thúc đẩy sự tin
tưởng (la confiance) và sự tương hỗ (la réciprocité) thì các cá nhân trong xã hội càng có xu
hướng dấn thân mạnh mẽ vào đời sống dân sự (la vie civique) và do đó vốn xã hội của họ
cũng càng lớn và ngược lại.
*

Thạc sĩ. Giảng viên khoa Xã hội học, Trường ĐH Mở TP.HCM

1


- Cuối cùng, cấp độ trung mô lại nhấn mạnh đến giá trị mang tính cơng cụ (la valeur
instrumentale) của vốn xã hội gắn với lý thuyết vận động các nguồn lực (la théorie de la
mobilisation des ressources). Quan niệm ở cấp độ này không cho rằng vốn xã hội là một sản
phẩm của sự ham muốn hợp tác của các cá nhân cũng như của cấu trúc xã hội, nhưng nó là
sản phẩm của mối quan hệ liên phụ thuộc (l'interdépendance) giữa các cá nhân và các nhóm
trong một cộng đồng nào đó. Như vậy, vốn xã hội được nhìn nhận như là một nguồn lực nảy
sinh từ các mối liên kết xã hội và phục vụ cho các thành viên (các cá nhân hoặc các tập thể)
trong mạng lưới, tức chính mạng lưới xã hội là nguồn tạo nên vốn xã hội của cá nhân4.
Như vậy có thể thấy rằng vốn xã hội là một khái niệm đa chiều kích (multidimensionnel) và

do đó, nếu chỉ có duy nhất một định nghĩa thì sẽ rất khó cho thấy được "hình ảnh" thật sự
của vốn xã hội. Một điều cũng lưu ý là rất khó có sự phân định một cách rạch ròi giữa ba
cấp độ quan niệm về vốn xã hội trong nghiên cứu thực nghiệm. Và đây phải chăng là một
trong những động lực thúc đẩy cho những suy nghĩ tiếp theo về vốn xã hội nơi các nhà
nghiên cứu trong tương lai.
2. Đo lường vốn xã hội
Như đã thấy, vốn xã hội là một khái niệm đa chiều kích do có thể được quan niệm khác
nhau tùy theo từng cấp độ nghiên cứu nên chúng tôi cho rằng xác định một cách thống nhất
thế nào là vốn xã hội có lẽ ít quan trọng hơn việc làm thế nào để đo lường nó trong nghiên
cứu thực nghiệm. Trên thế giới đã có một số tổ chức, quốc gia cũng như các tác giả đã làm
việc khá nhiều cho việc đo lường vốn xã hội. Dưới đây sẽ là một số tóm lược kết quả đã đạt
được.
2.1. Các chủ đề trong nghiên cứu vốn xã hội
Trong báo cáo nghiên cứu của hai nhà nghiên cứu thuộc cơ quan Thống kê Canada là C.A.
Bryant và D. Norris tại Hội thảo quốc tế về đo lường vốn xã hội diễn ra vào tháng 9-2002
tại thủ đô Luân Đôn (Anh quốc), các chủ đề cần đo lường về vốn xã hội như sau:
- Chủ đề 1. Sự tham gia xã hội và sự dấn thân vào đời sống dân sự: chủ đề đầu tiên trong
nghiên cứu về vốn xã hội sẽ là các hoạt động mang tính xã hội của cá nhân như sự tham gia
vào các tổ chức từ thiện, các tổ chức xã hội, các hoạt động chính trị (chẳng hạn như tham
gia vào các bầu cử, các hoạt động trợ giúp cộng đồng và cảm giác thuộc về cộng đồng nơi
mình sinh sống.
- Chủ đề 2. Mức độ khẳng định sự tự chủ: Ở chủ đề này, các nhà nghiên cứu sẽ đo lường sự
thỏa mãn trong cuộc sống của cá nhân cũng như khả năng làm chủ cuộc sống và các sự kiện
tác động đến cuộc sống của cá nhân. Trong chủ đề này, nhà nghiên cứu cũng sẽ đo lường sự
tự đánh giá về bản thân (l'estime de soi) cũng như niềm tin vào chính mình nơi các cá nhân
trong xã hội.
- Chủ đề 3. Quan niệm về cộng đồng: Trong khía cạnh này của vốn xã hội, nhà nghiên cứu
sẽ đánh giá mức độ hài lịng của cá nhân đối với nơi mình đang sinh sống. Các khía cạnh
liên quan sẽ là các dịch vụ mà cá nhân có thể tiếp cận được tại nơi sinh sống của mình, đánh
giá về mức độ an tồn và chất lượng sống tại khu vực sống của cá nhân.

- Chủ đề 4. Các mạng lưới xã hội, tương trợ xã hội và tương tác xã hội: Đối với chủ đề này,
nhà nghiên cứu sẽ quan tâm đến các mối quan hệ tình thân và các quan hệ gia đình, các hệ
thống tương trợ và sự sâu sắc trong các mối quan hệ cá nhân. Tương tác với người khác là
một khía cạnh quan trọng và những lợi ích có được từ các mối quan hệ xã hội sẽ làm gia
tăng hoặc củng cố vốn xã hội của cá nhân.
- Chủ đề 5. Niềm tin, sự tương hổ và gắn kết xã hội: Ở đây nhà nghiên cứu sẽ đo lường
niềm tin của cá nhân vào sự công bằng trong đời sống xã hội, nhất là nhận thức về sự phân

2


biệt đối xử trong xã hội nơi cá nhân; niềm tin vào người khác, vào các thiết chế xã hội và
các dịch vụ công cũng như quan niệm về các giá trị chung trong xã hội.
Như vậy có thể thấy rằng đo lường vốn xã hội một cách thực nghiệm là một công việc
không hề dễ dàng. Và trong nhiều trường hợp, nhà nghiên cứu chỉ có thể tiến hành đo lường
vốn xã hội ở một trong những chủ đề trên mà thôi nên khi công bố kết quả nghiên cứu chắc
chắn sẽ dẫn đến những tranh luận. Và đây là một điều hồn tồn bình thường.
2.2. Một số cách thức đo lường thực nghiệm về vốn xã hội
Dù đo lường vốn xã hội trong nghiên cứu thực nghiệm là một việc thật khó khăn, nhưng
trên thế giới cũng đã có khá nhiều những cơng trình nghiên cứu được tiến hành nhằm đo
lường vốn xã hội của các cá nhân. Những "bộ tiêu chí" đo lường vốn xã hội được trình bày
sau đây sẽ là một tham khảo hữu ích cho những nhà nghiên cứu quan tâm đến chủ đề này
2.2.1 Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OCDE)
Dựa vào những nghiên cứu của R. Putnam và J. Helliwell cũng như hàng loạt các cuộc hội
thảo quốc tế khác, vào năm 2001, OCDE đã đưa ra định nghĩa về vốn xã hội như sau: "vốn
xã hội gắn với các mạng lưới cũng như các chuẩn mực, các giá trị và những niềm tin chung
mà mọi người cùng chia sẻ". Từ định nghĩa đó, nhóm nghiên cứu của OCDE được gọi là
nhóm Sienne (Groupe de Sienne) đã đưa ra các khía cạnh cần đo lường về vốn xã hội như
sau:
1. Sự tham gia xã hội

3. Các mạng lưới xã hội
1.1. Loại hình nhóm mà cá nhân đang
3.1. Tần số tiếp xúc của cá
tham gia
nhân với bạn bè, người thân
1.2. Bản chất của sự tham gia chủ động
hoặc những đồng nghiệp
vào các nhóm
3.2. Tần số tiếp xúc của cá
1.3. Bản chất của sự tham gia theo loại
nhân với bạn bè, người thân,
hình nhóm
láng giềng theo loại hình tiếp
Hoặc là
xúc
a). Loại hình nhóm mà cá nhân tham gia 4. Sự tham gia vào hoạt động cộng
một cách chủ động
đồng
b). Tần số tham gia chủ động theo loại
4.1. Sự tham gia vào các hoạt
hình nhóm
động cộng đồng vì những lợi
c). Bản chất của sự tham gia chủ động
ích cấp quốc gia
theo loại hình nhóm
4.2. Sự tham gia vào các hoạt
2. Sự tương trợ xã hội
động cộng đồng vì những lợi
2.1. Loại hình tương trợ phi chính thức,
ích ở các cấp độ khác

phi lợi nhuận mà cá nhân nhận được từ
4.3. Sự tham gia vào các cuộc
những người ngồi gia đình, thân tộc
bầu cử gần nhất.
2.2. Tần số của sự tương trợ phi chính
thức, phi lợi nhuận mà cá nhân nhận được
từ những người ngồi gia đình, thân tộc
theo loại hình nhóm
2.3. Loại hình tương trợ phi chính thức,
phi lợi nhuận mà cá nhân đã cung cấp cho
những người ngồi gia đình, thân tộc
2.4. Tần số của sự tương trợ phi chính
thức, phi lợi nhuận mà cá nhân đã cung
cấp những người ngoài gia đình, thân tộc
theo loại hình nhóm
3


Nguồn: www.tilastokeskus.fi/tup/sienagroup2005
2.2.2. Úc (Australia)
Cơ quan thống kê Úc (Australian Bureau of Statistics) là nơi đã dành nhiều mối quan tâm
cho việc nghiên cứu và xây dựng các chỉ báo đo lường vốn xã hội. Quan niệm của cơ quan
này đó là xem vốn xã hội xuất phát từ các mạng lưới xã hội của cá nhân. Và vào năm 2004,
cơ quan này đã cho công bố tài liệu "Khung phân tích và các chỉ báo đo lường vốn xã hội"
(Australian Social Capital Framework and Indicators). Dưới đây là tóm tắt bộ tiêu chí đo
lường vốn xã hội được giới thiệu của tài liệu này
Sự tin tưởng
Sự hợp tác
Sự tham gia xã hội
Sự tin tưởng tổng quát hóa

Sự tin tưởng phi chính thức
Sự tin tưởng vào các thiết chế
Cảm giác an tồn khi sử dụng
các phương tiện vận chuyển
cơng cộng
Cảm giác an toàn trên đường
phố
Cảm giác an toàn tại nhà khi
đêm đến

Sự tương trợ mang tính cộng
đồng
Cường độ và sự minh bạch
Sự hợp tác trong việc bảo vệ
nguồn nước, điện
Sự hỗ trợ cho các sự kiện trong
cộng đồng
Thái độ đối với khả năng ra
quyết định của tập thể
Thái độ đối với sự hợp tác xã
hội và cộng đồng
Tham gia vào việc phát triển
một dịch vụ mới tại địa phương
Tham gia vào nhóm cổ vũ cho
những cải cách xã hội, chính trị
Chấp nhận sự đa dạng

Sự tham gia vào các hoạt động
xã hội
Những rào cản đối với sự

tham gia xã hội
Sự qui thuộc vào các câu lạc
bộ, các tổ chức, các hiệp hội
Số lượng câu lạc bộ, tổ chức
hoặc hiệp hội mà cá nhân
tham gia một cách tích cực
Sự gắn bó tơn giáo
Thực hành tôn giáo
Độ dài của những thực hành
tôn giáo

Sự tham gia mang tính cộng
đồng
Cảm nhận về sự tương hỗ
trong các tập thể
Đóng góp thời gian và tiền
bạc
Thái độ đối với sự đóng góp
cho tập thể
Sự tương trợ đã thực hiện
Sự tương trợ đã nhận được
Sự tương trợ đã làm cho
đồng nghiệp
Sự tương trợ nhận được từ
đồng nghiệp
Khả năng yêu cầu có được
sự tương trợ

Quan hệ tình thân
Tính chuyển tiếp/di động

Chấp nhận những lối sống
khác
Hỗ trợ cho sự đa dạng văn
hố
Tính đa dạng của các nhóm
Thái độ trước việc sử dụng
các ngôn ngữ khác biệt

Mức độ tham gia cộng đồng
Thời gian dành cho việc
tham gia vào các hoạt động
cộng đồng
Số lượng nhóm mà mình là
thành viên
Những rào cản đối với sự
tham gia vào hoạt động
cộng đồng
Sự hiểu biết về các hoạt
động, các sự kiện đang diễn
ra trong cộng đồng
Sự qui thuộc vào nghiệp
đoàn
Thực hành quyền bầu cử
Sự tham gia vào các đảng
phái chính trị

Trợ giúp cộng đồng
Cung cấp sự trợ giúp ra bên
ngồi gia đình
Cung cấp sự trợ giúp cho

gia đình

Kích thước của mạng lưới
Nguồn trợ giúp khi gặp
khủng hoảng
Người thân trong gia đình
hoặc bạn thân sống gần gũi

Tính chuyển tiếp/di động
Thời gian sống tại nơi đang

Sự di động về mặt địa lý
Những thay đổi trong việc

Sự tương hỗ

Sự tham gia vào đời sống
dân sự

4


Tham gia vào các hoạt động với cá nhân
Quan hệ với láng giềng
từ thiện
Tần số của các hoạt động từ Quan hệ với các thiết chế
thiện
Thời gian dành cho các hoạt
động từ thiện
Sự đóng góp của cá nhân

cho các tổ chức từ thiện

Quan hệ tình thân

tham gia vào các tổ chức
Thời gian tham gia vào các
tổ chức mà cá nhân tham
gia tích cực nhất
Những trải nghiệm trong
việc tham gia các hoạt động
trợ giúp xã hội trong thời
thơ ấu và vị thành niên
Sự di động về mặt địa lý
trong thời thơ ấu và vị
thành niên
Quan hệ quyền lực

Tần số và mức độ truyền
thông trong các mạng lưới
Số lượng bà con gần
Số lần tiếp xúc "mặt đối Tiếp xúc với các tổ chức
Số bạn thân
mặt" với những người trong Mong muốn tiếp cận với
Số lượng bạn bè
gia đình
các dịch vụ và tổ chức công
Sự thỏa mãn trong quan hệ Số lần tiếp xúc "mặt đối
bạn bè
mặt" với bạn bè
Quan hệ bạn bè tại nơi làm Số lần tiếp xúc qua điện

việc
thoại với những người trong
gia đình
Số lần tiếp xúc qua điện
thoại với bạn bè
Số lần tiếp xúc với những
người trong gia đình qua thư
điện tử và Internet
Số lần tiếp xúc với bạn bè
qua thư điện tử và Internet
Tần số của những kiểu
truyền thơng khác với những
người trong gia đình
Tần số của những kiểu
truyền thông khác với bạn bè
Sự tham gia vào các forum
trên Internet
Nguồn: S. Franke, 2005, tr. 45-47.
2.2.3. Các tiêu chí đo lường vốn xã hội của V. Vella và D. Narajan

Trong bài viết mới đây của hai tác giả V.Vella (Nam Phi) và D. Narajan (Ngân hàng thế
giới) trên Journal of Sociology số 1-2006 là một tham khảo hữu ích về tiêu chí đo lường
vốn xã hội và việc ứng dụng nó trong nghiên cứu vốn xã hội. Bài viết của hai tác giả là kết
quả của việc phân tích các số liệu được thu thập vào tháng 11-1998 trên một mẫu gồm 950
hộ gia đình tại khu đơ thị nghèo có tên là Kampala thuộc Uganda.
Các biến số
Các chỉ báo mơ tả
- Số thành viên
- Đóng góp cho nhóm


- Sự hiện diện trong nhóm
- Tham gia quyết định

- Số lượng các nhóm/hiệp hội mà cá nhân là thành viên
- Số tiền mà cá nhân đã đóng góp cho các nhóm/hiệp hội mà
mình là thành viên
- Số thời gian mà cá nhân dành cho các hoạt động của
nhóm/hiệp hội trong tháng trước
- Sự tham gia vào quá trình ra quyết định của nhóm/hiệp hội
5


- Những thành viên cùng nơi cư
trú
- Những thành viên cùng gia đình
- Những thành viên cùng bộ tộc
- Những thành viên cùng tơn giáo
- Những thành viên cùng trình độ
học vấn
- Những thành viên cùng giới
- Các hoạt động xã hội

mà cá nhân là thành viên
Số thành viên của nhóm thứ nhất ở cùng khu vực sống
Số thành viên của nhóm thứ nhất trong cùng gia đình
Số thành viên của nhóm thứ nhất ở cùng bộ tộc
Số thành viên của nhóm thứ nhất có cùng tơn giáo
Số thành viên của nhóm thứ nhất có cùng trình độ học vấn

Số thành viên của nhóm thứ nhất thuộc cùng một giới

Số lượng thời gian đã dành ra trong tháng trước để thăm
viếng người khác, tham gia vào các hoạt động xã hội chung
- Thăm viếng những ngừơi khác Số người cùng hoặc khác biệt về thứ bậc/bộ tộc/tôn giáo mà
biệt
cá nhân đã thăm viếng
- Đón nhận sự viếng thăm của Số người cùng hoặc khác thứ bậc/bộ tộc/tôn giáo đã đến
những người khác biệt
viếng thăm
- Gửi con cái cho hàng xóm
Cá nhân có thể gửi con cái của mình cho hàng xóm trơng coi
giúp khơng
- Giúp đỡ của hàng xóm
Có thể kêu gọi sự giúp đỡ của hàng xóm khi đau ốm khơng
- Tin cậy người trong gia đình
Cá nhân có thể tin cậy các thành viên trong gia đình khơng
- Tin cậy hàng xóm
Cá nhân có thể tin cậy những người hàng xóm khơng
- Tin cậy người cùng bộ tộc
Cá nhân có thể tin cậy những người hàng xóm khơng
- Gây ảnh hưởng
Cá nhân có nghĩ rằng mình có thể có tác động đối với cộng
đồng khơng
- Giúp đỡ
Đã giúp đỡ ai trong sáu tháng qua
- Sự tham gia
Có tham gia ít nhất một cuộc hội họp chính trị
- Sáng kiến
Đã có gửi thư cho một nhà chính trị nào khơng
- Sự tự hào
Cá nhân có cảm thấy tự hào khơng

- Sự an tồn tại nhà
Cá nhân có cảm thấy an toàn khi ở nhà
- Sự an toàn trên đường phố
Cá nhân có cảm thấy an tồn khi đi trên đường phố
- Sự an toàn trong cộng đồng
Khu vực sống có an tồn khơng
- Niềm tin vào chính phủ
Cá nhân có tin cậy vào sự bảo vệ của chính phủ

Nguồn: V. Vella, D. Narajan, 2006, tr 4 - 5

Bên cạnh một số tiêu chí đo lường vốn xã hội trên, sau sự ra đời của những cơng trình của
R. Putnam, Ngân hàng thế giới cũng đã quan tâm rất nhiều đến vốn xã hội cũng như cách
thức đo lường nó và hiện nay, tổ chức này đã hoàn thành được bộ Công cụ đo lường vốn xã
hội (Instruments of the Social Capital Assessment Tool)5. Bộ công cụ này dài 72 trang gồm
hàng trăm câu hỏi nhằm đo lường vốn xã hội ở cả ba cấp độ vi mô, vĩ mô và trung mơ. Đây
chính là bộ cơng cụ mà Ngân hàng thế giới đang áp dụng để đo lường vốn xã hội tại các
nước Châu Phi.
Như vậy có thể thấy đối với vấn đề vốn xã hội, giới nghiên cứu hiện nay trên thế giới đã
khơng cịn dừng lại ở việc làm rõ khái niệm mà đã bắt đầu suy nghĩ về các tiêu chí đo lường
một cách thực nghiệm loại vốn hết sức quan trọng này.

6


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bích. 2006. "Vốn xã hội: Gầy vốn từ đâu?", DNSG Cuối tuần, 07-4-2006,
tr. 4.
2. A. Degenne. 2003. Mise en oeuvre empirique de la notion de capital social: définitions et
exemple. Rouen: Université de Rouen.

3. Trần Hữu Dũng. 2003. "Vốn xã hội và kinh tế", Tạp chí Thời Đại, số 8: 82-102
4. S. Franke. 2005. Le capital social comme instrument de politique publique, Canada: PRP.
5. GRIS, Université de Rouen. 2003. Le capital social, Rouen: Université de Rouen.
6. S. Ponthieux. 2004. Le concept de social capital, analyse critique, Paris: INSEE.
7. A. Portes. 1994. "Social capital: its origins and applications in modern sociology",
Annual Review of Sociology, vol 24: 1-24.
8. R. Putnam. 2004. "Le capital social", L’Observateur de l’OCDE, No. 242.
9. Trần Hữu Quang. 2006. "Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội", Tạp chí Khoa học xã hội, số 7:
74-81
10. Tạp chí Tia Sáng. 2006. Hội thảo "Vốn xã hội trong phát triển", Hà Nội, 24-6-2006.
11. Nguyễn Trung. 2006. "Bàn về vốn xã hội", DNSG Cuối tuần, 14-4-2006, tr. 4.
12. Lê Minh Tiến. 2006. "Tổng quan phương pháp phân tích mạng lưới xã hội trong nghiên
cứu xã hội". Tạp chí Khoa học xã hội, số 9.
13. V. Vella, D. Narajan. 2006. "Building indices of social capital", Journal of Sociology, số
1: 1-23.
14. www.tilastokeskus.fi/tup/sienagroup2005
15. www.web.worldbank.org.

7


1

Hội thảo "Vốn xã hội trong phát triển" do Tạp chí Tia sáng tổ chức vào ngày 24-06-06 được xem là cuộc hội thảo đầu
tiên-chính thức về chủ đề này tại Việt Nam.
2
Có thể xem các bài viết về chủ đề này trên báo và tạp chí Doanh Nhân Sài Gịn Cuối Tuần (4/2006), Tạp chí Tia sáng
(6/2006), Thời báo Kinh tế Sài Gịn (7/2006), Tạp chí Khoa học Xã hội (07/2006).
3
Có thể xem các Hội thảo "Le capital social., do GRIS và Đại học Rouen tổ chức vào tháng 02-2003, "La mesure du

capital social, PRP, Canada, 9-2005", v.v.v.
4
Có thể xem tổng quan về phương pháp mạng lưới xã hội trong Lê Minh Tiến. 2006. "Tổng quan phương pháp phân
tích mạng lưới xã hội trong nghiên cứu xã hội". Tạp chí Khoa học xã hội, số 10.
5
Có thể tham khảo bộ công cụ này trên trang web: .

8



×