Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tìm hiểu thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam trong 35 năm đổi mới đất nước (1986 2021)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.86 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
~~~~~~*~~~~~~

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI

Tìm hiểu thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam
trong 35 năm đổi mới đất nước (1986 - 2021)

Giáo viên hướng dẫn :
: 09
Nhóm thực hiện
: 2260HCMI0131
Lớp học phần

HÀ NỘI – 2022


MỤC LỤC


3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập,
tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất
biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta. Bên cạnh các cuộc
chiến đấu ngoan cường bảo vệ giang sơn, độc lập, chủ quyền của đất nước, ông cha ta
đã luôn luôn chú trọng hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên những truyền thống và bản
sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Dùng


đối ngoại để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến tranh
trong vị thế có lợi nhất; đối ngoại phải ln luôn phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đối
nội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng có ý
nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế tăng trưởng khá, chính
trị ổn định, quốc phịng - an ninh được tăng cường, văn hóa - xã hội có bước phát triển
mới; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. Đặc biệt chính sách đối
ngoại đánh dấu một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, toàn diện so với
những năm trước đổi mới. Quan hệ đối ngoại của Đảng không ngừng được mở rộng và
tăng cường với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới theo hướng đa
phương và đa dạng hóa các quan hệ. Công tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao
Nhà nước và đối ngoại nhân dân kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi to lớn trên
mặt trận ngoại giao, góp phần phát triển đất nước trong những năm qua.
Đánh giá về những kết quả sau 35 năm đổi mới đất nước, Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần
yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều
thành tựu rất quan trọng tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đất nước phát triển nhanh và bền
vững, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa”. Và để hiểu sâu hơn về những thành công trên con đường đối ngoại của
dân tộc ta từ 1986 đến nay, nhóm 09 chúng em đã thực hiện nghiên cứu thơng qua đề
tài: “Tìm hiểu thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam trong 35 năm đổi
mới đất nước (1986 – 2021)”.


4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm đường lối đối ngoại
Chính sách đối ngoại là tổng thể những chiến lược, sách lược, chủ trương, quyết
định và những biện pháp do nhà nước hoạch định và thực thi trong quá trình tham gia
vào đời sống quốc tế trong từng thời kỳ lịch sử, vì lợi ích quốc gia, phù hợp với xu thế

phát triển của tình hình thế giới và pháp luật quốc tế.
Công tác đối ngoại là một trong lĩnh vực hoạt động cơ bản của hệ thống chính
trị và nhân dân, bao gồm tổng thể những hoạt động xác định và thực hiện đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước đối với các chủ thể quan hệ quốc tế nhằm
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đường lối đối ngoại là một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của Đảng ta,
ở mỗi giai đoạn cách mạng có các mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm,
phương hướng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức, đồn
thể chính trị - xã hội, của toàn dân và của cả cá nhân khi tham gia hoạt động quốc tế
nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của
quốc gia, dân tộc mình trên trường quốc tế.
1.2. Vai trò của đường lối đối ngoại
Như chúng ta đều biết, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào trong quá trình hình thành
và phát triển của mình cũng đều phải xử lý hai vấn đề cơ bản là đối nội và đối ngoại.
Hai vấn đề này có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau
như hai cái cánh của một con chim, tạo thế và lực cho nhau, gắn kết và đan xen ngày
càng chặt chẽ với nhau, nhất là trong điều kiện tồn cầu hố phát triển mạnh mẽ và sâu
rộng. Đối ngoại ngày nay không chỉ là sự nối tiếp của chính sách đối nội, mà cịn là
một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Đường lối đối
ngoại đã góp phần quan trọng vào việc duy trì và củng cố mơi trường quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với hoạt động đối ngoại sôi động, tích
cực, chúng ta đã mở rộng và nâng lên tầm cao mới các mối quan hệ hợp tác, đối tác
với nhiều quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
rộng rãi của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Chính
bản chất nhân nghĩa, hịa hiếu, khoan dung của dân tộc đã giúp ngoại giao Việt Nam
xóa bỏ hận thù và san lấp khoảng cách giữa nước ta với các nước khác.
Hoạt động đối ngoại đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Cơng tác đối ngoại tham gia tích cực

vào việc giữ vững và xây dựng đường biên giới trên bộ hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển với các nước láng giềng. Đối với những vấn đề phức tạp trên biển Đông,


5
chúng ta ln giương cao ngọn cờ hịa bình, hợp tác, giải quyết mọi tranh chấp bằng
biện pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hiệp quốc
về Luật Biển 1982, Tuyên bố về ứng xử trên biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc,
trên tất cả các diễn đàn song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, phối hợp chặt
chẽ với đối ngoại quốc phòng - an ninh, với đối ngoại nhân dân, nhằm kiểm sốt bất
đồng, đồng thời tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho mọi tranh chấp. Ngành Ngoại
giao đã đóng vai trị tiên phong trong thời bình, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và
chủ quyền đất nước.
Hoạt động đối ngoại đã chủ động, tích cực triển khai mạnh và hiệu quả chủ
trương lớn về Hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ trên tất
cả các kênh, gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại của Quốc hội, đối
ngoại nhân dân, diễn ra trên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nỗ lực
trong hoạt động đối ngoại đã phát huy vai trò của nước ta trên nhiều diễn đàn và tổ
chức quốc tế, tranh thủ có được những vị trí xứng đáng trong Hội đồng Bảo an, Ủy
ban nhân quyền, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hiệp quốc,... Đặc biệt, đã phát huy
vai trị là thành viên tích cực trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Việt Nam
được đánh giá cao trong việc thực hiện Chương trình thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc,
lần đầu tiên tham gia và được tín nhiệm trong hoạt động của Phái bộ gìn giữ hịa bình
của Liên hiệp quốc.
Hoạt động đối ngoại đã có nhiều đóng góp thiết thực vào việc tranh thủ tối đa
các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Có nhiều quốc gia, vùng
lãnh thổ, tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Đàm phán thành công nhiều hiệp
định thương mại tự do với 55 quốc gia, mở ra triển vọng huy động thêm các nguồn lực
từ bên ngoài để phát triển đất nước.
Trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua, kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại

vẻ vang của dân tộc, nhất là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đặt nền móng
cho nền ngoại giao Thời đại Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kế thừa và khơng ngừng bổ
sung, phát triển, hồn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở vì hịa bình,
hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hố, đa dạng hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cách mạng
Việt Nam trong bất kỳ hồn cảnh nào cũng cần vai trị đóng góp của đối ngoại nhân
dân”. Trong lịch sử, đối ngoại đã có vai trị đặc biệt quan trọng, nhất là khi nước ta
chưa có kênh liên lạc chính thức với các nước.

1.3. Quan điểm đường lối đối ngoại của Việt Nam


6
Tại đại hội Đảng, Đảng và Nhà nước nêu rõ quan điểm đường lối đối ngoại và
chủ động hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta như sau:
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển. Đa dạng hóa, đa phương hóa
trong quan hệ đối ngoại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của
đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Giữ vững môi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào
sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong đó,
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu; đồng thời phải
nhận thức rõ vị trí của cơng tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế phải góp phần quan trọng bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, ưu
tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có
chung biên giới như: Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia. Ký kết và thực hiện hiệu quả
các hiệp định thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng thể
với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước.
Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố
vai trị quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại của
quốc tế. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác
chiến lược. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt
là với các nước ASEAN.
Hội nhập quốc tế là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ đối ngoại. Hội nhập
quốc tế không giới hạn trong một phạm vi, một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà
được lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Tham gia
mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế là phải tham gia các quá trình kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng. Hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời
cuộc nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.


7
Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách
nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu…, đặc biệt là
Liên hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối
phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu tồn
cầu. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phịng, an ninh, trong
đó có tham gia các hoạt động hợp tác ở mức độ cao hơn như hoạt động gìn giữ hịa
bình của Liên hợp quốc,…

Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hợp tác quốc
tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công
nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị…; hội nhập là q trình vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế bị động,
đối đầu.
1.4. Các yếu tố tác động đến đường lối đối ngoại của Việt Nam
- Lợi ích của quốc gia, dân tộc
Trong từng bước ngoặt của thời cuộc, ngoại giao Việt Nam luôn kiên định và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để "giải mã" trúng
và đúng tình hình quốc tế, khu vực, từ đó đổi mới tư duy và có hành động phù hợp.
Đặc biệt, trong 35 năm đổi mới, ngành ngoại giao đã đồng hành cùng dân tộc, phục sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là cơng
tác đối ngoại “phải ln ln vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”.
Đường lối đối ngoại đổi mới được Đảng ta đề xướng từ năm 1986, liên tục
được bổ sung và hồn chỉnh qua các kỳ đại hội, trong đó đều khẳng định vai trị đặc
biệt quan trọng của lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của đất nước. Hội nghị
Trung ương 3 khóa VII (tháng 6-1992) khẳng định, mục tiêu “hịa bình và phát triển”
trở thành chuẩn mực trong hoạt động quốc tế của Việt Nam, phục vụ cho lợi ích cao
nhất của dân tộc là “nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng, giữ vững tăng cường ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc
độc lập và tự do của Tổ quốc”. Trên tinh thần đó, “cơng tác đối ngoại phải phục vụ lợi
ích đó của dân tộc..., và coi lợi ích dân tộc là cao nhất và thiêng liêng nhất”. Hội nghị
Trung ương 8 khóa IX (tháng 7-2003) tiếp tục khẳng định: “Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định
để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”. Đại hội XI của Đảng (năm 2011)
khẳng định mục tiêu của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới là “vì lợi ích quốc gia,
dân tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Văn kiện Đại hội
XII đã đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất về mục tiêu đối ngoại, đó là “bảo đảm lợi ích



8
tối cao của quốc gia  - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
bình đẳng và cùng có lợi”. Như vậy, lợi ích quốc gia ln đóng vai trị trọng tâm trong
việc xác định đường lối đối ngoại, hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.
Lợi ích quốc gia của Việt Nam trong đối ngoại bao gồm hai nhóm: nhóm các lợi
ích sống cịn và nhóm các lợi ích phát triển. Nhóm các lợi ích sống cịn bao gồm giữ
vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; giữ vững hịa bình với
bên ngồi, bảo đảm ổn định và trật tự bên trong; bảo đảm cuộc sống an toàn cho nhân
dân; bảo đảm an ninh kinh tế của quốc gia; giữ gìn bản sắc dân tộc. Đảng ta xác định
đường lối đối ngoại của Việt Nam phải bảo tồn được đất nước, đưa lợi ích của quốc gia
dân tộc lên hàng đầu bởi đó là điều kiện giúp nước ta ngày càng phát triển và phát
triển một cách bền vững. Ngay từ khi đất nước còn chiến tranh đối ngoại đã giữ vai trò
tiên phong trong việc giữ vững độc lập nước nhà và bảo vệ thành cơng chính quyền
cách mạng cịn non trẻ. Những sách lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của ngoại
giao như “hòa để tiến”, cùng các nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “đặt lợi ích
dân tộc lên hàng đầu”… đã giúp cách mạng Việt Nam vượt qua được những tình
huống hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Đồng thời ngoại giao đã đi đầu trong việc
vận động các nước cơng nhận nền hịa bình và độc lập của Việt Nam. Hay trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngoại giao cách mạng Việt Nam đã
trở thành “một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”, bộ phận cấu thành quan
trọng trong đường lối cách mạng, sát cánh cùng mặt trận quân sự để đưa kháng chiến
đi đến thắng lợi. Đến thời bình hiện tại, trong công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước
sau khi chiến tranh kết thúc, ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu
tranh đưa đất nước ta thốt khỏi thế bị cơ lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế.
Đồng thời, ngoại giao đã tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại giữa Việt Nam
với các nước láng giềng, nước lớn, tạo ra những đột phá trong quan hệ đối ngoại của
nước ta.

Nhóm các lợi ích phát triển bao gồm không ngừng nâng cao khả năng giữ vững
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân; mở rộng không gian phát triển; phát huy bản sắc dân
tộc; phát huy vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, kế thừa nền tảng và kinh nghiệm đối ngoại
của thời kỳ trước, ngoại giao đã đi đầu, đóng vai trị tiên phong, mở đường, phát triển
và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi
vào chiều sâu, mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác mới, thu hút các nguồn lực
cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì mơi trường hịa bình, ổn định, giữ
vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Từ đó có


9
thể thấy được lợi ích của đất nước, dân tộc luôn là một trong những nhân tố tác động
hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta xác định trong đường lối đối ngoại của Việt Nam.
- Thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế
Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, mọi quốc gia trên thế giới đều
cân nhắc và xem xét yếu tố thế và lực của quốc gia mình. Chính sách đối ngoại được
xây dựng trên cơ sở không những phải phù hợp với lợi ích của quốc gia, mà còn phải
tương thích với vị thế và sức mạnh tổng hợp của đất nước. Xem xét thế và lực của
quốc gia là điều cần thiết khi hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong
những thời kỳ lịch sử nhất định. Ở những giai đoạn khác nhau, vai trò và vị thế của
Việt Nam ở khu vực và toàn cầu sẽ khác nhau, do vậy, việc hoạch định và triển khai
chính sách đối ngoại của nước ta cũng sẽ khác nhau. Có thể thấy, sau hơn ba thập niên
triển khai đường lối đổi mới, Việt Nam hiện nay có vai trị ngày càng tích cực, vị thế
ngày càng gia tăng ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam là thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế, có nhiều đóng góp tích cực tại các tổ chức quốc tế, khu vực,
liên khu vực và toàn cầu. Vị thế quốc gia ngày càng được cải thiện sẽ tạo thuận lợi cho
Việt Nam tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, thực thi chính sách
đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.

Bên cạnh vị thế quốc gia, thực lực hay sức mạnh tổng hợp của quốc gia cũng là
một nhân tố quan trọng cần tính đến khi hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam
trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao
là cái tiếng; chiêng có to thì cái tiếng mới lớn”. Sức mạnh quốc gia hay sức mạnh dân
tộc là tổng hòa các sức mạnh, tiềm lực của một quốc gia, dân tộc trên các khía cạnh vật
chất lẫn tinh thần, như sức mạnh kinh tế, chính trị, qn sự, văn hóa, tri thức, hệ tư
tưởng, thể chế chính trị, đường lối, chính sách,.... Như vậy, sức mạnh quốc gia của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay là sức mạnh tổng thể của Nhà nước và nhân dân, của sự
lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng, là sức mạnh tổng hợp cả “sức mạnh cứng”
lẫn “sức mạnh mềm” của quốc gia, là sự kết hợp hài hòa các yếu tố truyền thống và
hiện đại, và vị thế ngày càng gia tăng của Việt Nam ở khu vực và thế giới.
Lịch sử dân tộc mãi ghi nhận những thành tựu vĩ đại trong công cuộc Đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986. Với nhiệm vụ đưa đất nước bị tàn
phá nặng nề sau chiến tranh và bị bao vây cấm vận trong suốt một thời gian dài bước
vào hòa nhập với thế giới, do thế và lực là một đất nước bé nhỏ, khơng có tiếng nói
nên ngoại giao đóng vai trị đi đầu trong việc tạo dựng mơi trường hịa bình và ổn
định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, tư duy đối ngoại đã được thay
đổi về căn bản, phản ánh yêu cầu phát triển của đất nước và phù hợp với các xu thế lớn
của thời đại. Lúc này, trải qua những năm tháng không ngừng nỗ lực phát triển, Việt


10
Nam đã có những sự nâng cao về vị trí và thế lực vì vậy đường lối đối ngoại của nước
ta hướng tới độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại
với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
- Tình hình chính trị và an ninh thế giới
Cục diện thế giới và khu vực cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến quá
trình hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại của mọi quốc gia trên thế giới trong

đó Việt Nam cũng khơng phải là ngoại lệ. Có thể thấy rằng, tình hình thế giới, khu vực
trong và ngồi ln chuyển biến một cách phức tạp, ẩn chứa nhiều tiềm ẩn, Việt Nam
luôn nhận thức những cơ hội, thách thức trong bối cảnh tình hình chính trị và an ninh
thế giới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam ln đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản
lý và khoa học - công nghệ tiên tiến,... phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Một minh chứng cụ thể gần đây đó là tình hình quốc tế trong năm 2021 tiếp tục
biến động rất sâu sắc. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song gặp nhiều
trở ngại, khó khăn. Tồn cầu hóa, liên kết quốc tế dù gặp thách thức vẫn tiếp tục tiến
triển, nhất là liên kết số. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn biến
phức tạp, quyết liệt hơn, nhất là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cách thức tập
hợp lực lượng trên thế giới và trong khu vực diễn ra hết sức linh hoạt. Bên cạnh đó các
thách thức an ninh truyền thống (xung đột vũ trang, sắc tộc, tranh chấp lãnh thổ...),
khoảng cách phát triển, bất bình đẳng và bất ổn chính trị - xã hội đang gia tăng ở nhiều
nước. Các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu và dịch bệnh
nổi lên gay gắt hơn. Đặc biệt là đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến sự phát triển
của các quốc gia và quan hệ quốc tế, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề về chính trị, đối
ngoại, kinh tế, y tế, môi trường, khoa học - công nghệ và văn hóa - xã hội. Từ những
sự khơng mấy khả quan về tình hình chính trị và an ninh trong và ngoài nước, đường
lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn này phải dự báo đúng tình hình, chủ động,
tích cực, sáng tạo, phát huy vai trị tiên phong trong tạo lập và giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngồi góp phần phục vụ phát
triển đất nước và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam để giúp đất nước thích ứng an
tồn và giải quyết được các vấn đề về phát triển kinh tế xã hội.
- Mục tiêu quốc gia mong muốn đạt được
Là một quốc gia u chuộng hịa bình và đang trên đà phát triển, Việt Nam luôn
đặt ra những mục tiêu cụ thể giúp đất nước ngày càng vững mạnh hơn nữa không chỉ
về chính trị mà cịn về kinh tế, văn hóa,... Từ những mục tiêu mà quốc gia mong
muốn, đường lối đối ngoại của Việt Nam cũng được hoạch định rõ ràng nhằm thực



11
hiện được đúng, đủ mục tiêu đã đặt ra. Mục tiêu phát triển trung và dài hạn mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đặt ra là xoay quanh mốc thời gian thành lập Đảng và thành lập
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được xác định dựa trên diễn biến và tình
hình của Việt Nam, bao gồm tình hình phát triển kinh tế, sự vận động thay đổi của các
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội; là sự theo đuổi chủ động các lợi ích của nhân dân Việt
Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện; là sự lựa chọn chủ động của Việt
Nam với hy vọng đất nước trở nên giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì
vậy đối ngoại của Việt Nam sẽ tồn diện, vĩ mơ hơn, tích cực xây dựng một khuôn khổ
ngoại giao tổng thể mới; các biện pháp ngoại giao sẽ chủ động hơn và chú trọng hơn
đến việc phát huy vai trị tích cực trong các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc và
ASEAN, nhằm gia tăng ảnh hưởng; ngoại giao Việt Nam sẽ chú trọng hơn quan hệ lợi
ích, duy trì và thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương thông qua việc xây dựng
lợi ích chung.
- Ảnh hưởng của bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại
Bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại ln trong trạng làm việc hết mình,
sẵn sàng cống hiến cho Đảng và Nhà nước. Bộ máy là cơ quan đầu não để hoạch định
ra đường lối đối ngoại, là kim chỉ nam cho các hoạt động ngoại giao của nước ta.
Chúng ta có quyền tự hào về một bộ máy làm việc hết sức cống hiến, điều này được
thể hiện một cách rõ ràng trong các phiên họp hội nghị của Đảng, các tiêu chí làm
việc, mục tiêu chỉ đạo, phương châm, quan điểm chỉ đạo và các nguyên tắc tiến hành
hoạt động được bộ máy triển khai một cách có hiệu quả và được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh.
- Các nhân tố chính trị nội bộ (nhóm lợi ích, giới truyền thơng, cơng luận,…)
Ngồi các nhân tố trên, các nhân tố về chính trị nội bộ như nhóm lợi ích khác,
giới truyền thơng, cơng luận cũng tác động tới đường lối đối ngoại của Việt Nam. Điều
đó khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam đã và đang được hoạch định và triển
khai một cách có quy chuẩn và linh hoạt phù hợp với thời thế và các yếu tố khác

nhưng tựu chung lại đường lối đối ngoại giúp Việt Nam phát triển vững mạnh hơn nữa
trong tương lai.
CHƯƠNG 2: THÀNH TỰU TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA
VIỆT NAM TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (1986 - 2021)
2.1. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986 –1995
Những bước đột phá lịch sử (Đại hội VI)
Ngoại giao thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Bước vào thời kỳ Đổi mới,
với những nhiệm vụ mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra, Ngoại giao Việt
Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ
quốc tế, tạo môi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đặc biệt, trước tình


12
hình cực kỳ phức tạp khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu tan rã, các
lực lượng thù địch mưu toan làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng và
Nhà nước ta đã triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương
hóa nhằm duy trì hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực quốc tế cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với sự nỗ lực vượt bậc của ngành ngoại giao
dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ trọng đại đó đã được thực
hiện thắng lợi.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở theo đường lối đổi mới của Đảng,
nhiệm vụ hàng đầu của ngoại giao lúc này là phải phá cho được "tảng băng" bao vây,
cấm vận. Muốn vậy, cần tìm một giải pháp cho “vấn đề Cam-pu-chia” mà các bên có
thể chấp nhận được. Sau 30 năm chiến tranh, lợi ích tối cao của ta là tạo lập một mơi
trường hịa bình và ổn định, trước hết là với các nước láng giềng để tập trung phát triển
kinh tế và hàn gắn các vết thương chiến tranh. Do đó, việc bình thường hóa quan hệ
với các nước láng giềng, trước hết là với Trung Quốc, là một yêu cầu chiến lược cấp
thiết. Trên tinh thần đó, ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã chính thức tuyên bố: Việt Nam
sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu
nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Trải qua nhiều vòng đàm phán, với sự

cố gắng của hai bên, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã chính thức được bình thường
hóa vào năm 1991 trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình. Quan hệ giữa hai
Đảng cũng đã được phục hồi trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ, hồn tồn bình
đẳng, tơn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trong quan hệ với các nước ASEAN, qua các cuộc đối thoại và tiếp xúc song
phương và đa phương với ta, các nước ASEAN nhận thấy giữa ta và họ có những lợi
ích chung trong việc xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hịa bình, hữu nghị và hợp
tác. Tất cả các yếu tố trên đã thúc đẩy các nước ASEAN thấy cần đẩy mạnh hơn q
trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và tách dần khỏi chính sách của một số
nước lớn tiếp tục bao vây cấm vận ta. Các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo các nước
ASEAN tới Việt Nam và các chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Võ Văn Kiệt (năm 1991, 1992) và của Tổng Bí thư Đỗ Mười (năm 1993) tới
Thái Lan, Xin-ga-po đã làm cho các bên hiểu biết lẫn nhau hơn. Quan hệ Việt Nam với
các nước ASEAN được xem như đã hoàn toàn trở lại bình thường đồng thời với việc
ký kết Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia.
Thực hiện đổi mới trong chính sách đối ngoại, ta ln ln coi trọng việc bình
thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “Chính phủ ta
tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn
sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hịa bình, ổn định ở Đơng Nam Á”. Các
nghị quyết của Bộ Chính trị cũng khẳng định: Cần có chính sách tồn diện đối với Mỹ


13
nhằm tranh thủ dư luận nhân dân Mỹ và thế giới tạo thuận lợi cho chiến lược của ta tập
trung vào việc giữ vững hịa bình và phát triển kinh tế. Chúng ta đã giải quyết vấn đề
POW/MIA (tù binh và người Mỹ mất tích) và một số vấn đề nhân đạo khác theo đúng
lộ trình. Mỹ cũng bắt đầu nới lỏng một số hạn chế trong chính sách cấm vận đối với ta.
Nhìn lại chặng đường đầu tiên của công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động bắt
đầu từ Đại hội VI có thể thấy đó là chủ trương hồn tồn đúng đắn. Chỉ trong vịng
chưa đầy 4 năm thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở theo tư duy mới, đất nước ta

đã thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận của các lực lượng thù địch, giải tỏa
những bế tắc trong quan hệ với các nước láng giềng (ngồi Đơng Dương) và hầu hết
với các nước lớn, các tổ chức khu vực và liên khu vực. Quan hệ giữa nước ta với các
nước ASEAN được khai thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập
ASEAN và hội nhập khu vực sau đó. Đặc biệt quan trọng là việc bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc và từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ tiến đến việc bình thường
hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Đây là bước đột phá cực kỳ quan
trọng về mặt ngoại giao, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới về mặt
kinh tế nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược của nhân dân ta sau 30 năm chiến
tranh là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục đổi mới về tư duy đối ngoại (Đại hội VII)
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII (1991), ngoại giao Việt Nam đã tỏ ra
năng động và sáng tạo hơn, đẩy mạnh các hoạt động nhằm góp phần vào việc phá vỡ
thế bao vây cô lập, tranh thủ thiết lập quan hệ với tất cả các nước, trước hết là các
nước lớn, mở rộng quan hệ đối với tất cả các khu vực trên thế giới, các tổ chức quốc tế
nhằm tạo điều kiện cho bước đầu hội nhập. Bình thường hóa quan hệ với Mỹ và đàm
phán để gia nhập ASEAN là hai ưu tiên hàng đầu vì sẽ có tác dụng thúc đẩy việc mở
rộng quan hệ với các nước cũng như các tổ chức quốc tế khác. Mặt khác, Mỹ và
ASEAN cũng có lợi ích trong việc xích lại gần Việt Nam. Với Mỹ là tái lập một thế
cân bằng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á và tạo điều kiện cho các công ty Mỹ vào
Việt Nam để kinh doanh sau này. Với ASEAN là tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện giấc mơ của các nhà sáng lập tổ chức này là xây dựng ASEAN thành một tổ chức
khu vực mạnh bao gồm tất cả các nước Đơng Nam Á. Việc Việt Nam tích cực góp
phần giải quyết vấn đề Cam-pu-chia và giúp Mỹ giải quyết vấn đề POW/MIA đã tạo
điều kiện thuận lợi cho ta trong các cuộc đàm phán với Mỹ nhằm bình thường hóa. Kết
quả là ngày 3/2/1994 Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và ngày
11/7/1995, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam. Đây là một thắng lợi quan trọng của ngành Ngoại giao Việt
Nam, phản ánh được xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, góp phần tích



14
cực vào sự nghiệp hịa bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á cũng như trên thế
giới. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt – Hoa Kỳ đến nay, hợp tác song phương
này được mở rộng một cách vững chắc, khơng chỉ trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao,
kinh tế - thương mại, mà cả trong lĩnh vực an ninh - quốc phịng, văn hóa, giáo dục, khoa
học công nghệ,...

Tổng thống Bill Clinton tiếp ông Lê Văn Bàng, Đại sứ Việt Nam
đầu tiên tại Hoa Kỳ
Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ đã giúp ta khai thông quan hệ với Liên
minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, gia nhập Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) và các tổ chức quốc tế khác. Quan hệ giữa ta với các nước
bạn bè cũ ở Đông Âu được xác định lại trên cơ sở mới.
Sau khi Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết, "nút thắt" đầu tiên trong
quan hệ của ta với các nước đã được tháo gỡ, quá trình đàm phán giữa ta và các nước
ASEAN về việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được đẩy nhanh. Ngày 28/7/1995, tại
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tại Brunei Darussalam,
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này.
Việc gia nhập ASEAN đã tạo cơ hội và tạo đà cho Việt Nam hội nhập khu vực, từ hội
nhập khu vực đến hội nhập quốc tế; đồng thời giúp Việt Nam tăng cường và nâng cao
vị thế hình ảnh của mình, mở rộng hợp tác với các nước không chỉ trong khu vực mà
với cả các nước đối tác lớn và các nước trong cộng đồng quốc tế.
2.2. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2010
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính
trị, quốc phịng, an ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo
được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.



15
Giai đoạn 1996-2010 là giai đoạn mà Việt Nam mở rộng quan hệ và hội nhập
kinh tế quốc tế. Với chủ trương đường lối và quyết sách đúng đắn của Đảng, đất nước
đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát
triển mới của đất nước. Các xu thế hòa bình, tồn cầu hóa, dân chủ hóa của thời đại
ngày càng được củng cố và tăng cường, là một trong những nước nằm trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao. Các đặc điểm và
xu thế nêu trên đã làm thúc đẩy thêm tính chất đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc
tế và chính sách đối ngoại của các nước.
Trong sự chuyển biến của thế giới và khu vực đó, Đại hội VIII (1996) đã khẳng
định tính đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa
dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Tư duy đối ngoại tiếp tục được đổi mới với quan điểm
mới về đối tác - đối tượng, về hợp tác và đấu tranh trong Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX (2003). Đây là cơ sở để Việt Nam hóa giải điểm bất đồng, gia tăng điểm song
trùng lợi ích trong quan hệ quốc tế. Một hướng đột phá mới trong giai đoạn này là chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội VIII, Đại hội IX (2001) và Đại hội X
(2006).
Chúng ta đã xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế.
Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ năm 2001, hiệp định đưa
quan hệ thương mại và đầu tư song phương giữa hai nước lên tầm cao mới, tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các thị trường lớn tại Hoa Kỳ và khuyến
khích Việt Nam cải thiện mơi trường kinh doanh. Việt Nam đã tham gia Hiệp định
thương mại tự do ASEAN (AFTA) và gia nhập một loạt các cơ chế đa phương quan
trọng như:
Việt Nam gia nhập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) tại Bangkok, Thái Lan,
ngày 01/03/1996:

Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương APEC 1998: Ngày
14/11/1998, tại Kuala Lumpur, Malaysia, APEC đã tuyên bố kết nạp Việt Nam, Nga và

Peru. Việc tham gia vào Diễn đàn APEC đánh dấu một bước hội nhập mới của Việt


16
Nam với cộng đồng kinh tế thế giới và tạo ra những cơ hội tìm kiếm đối tác, thị trường
cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Đại diện Lãnh đạo các nước tại Diễn đàn (APEC) năm 1998
Bên cạnh đó, Việt Nam đã tổ chức thành công hàng loạt các hội nghị, diễn đàn
quốc tế cấp cao của khu vực và Thế giới như: Hội nghị cấp cao lần thứ VII các nước
có sử dụng tiếng Pháp tổ chức tại Hà Nội (11/1997); Tổ chức thành công Hội nghị cấp
cao ASEAN VII tại Hà Nội (12/1998): với chủ đề “Đoàn kết và hợp tác vì một
ASEAN hồ bình, ổn định và phát triển đồng đều”, đã nâng cao uy tín và vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế; Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM 5)
lần thứ V, tổ chức tại Hà Nội, ngày 08/10/2004; Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 tại Hà
Nội (11/2006).
Vào tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương
mại Thế giới WTO (11/1/2007). Việc gia nhập WTO là sự kiện có ý nghĩa quan trọng
đối với Việt Nam, là cột mốc đánh dấu sự hội nhập sâu rộng của đất nước chúng ta vào
nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, việc gia nhập WTO cũng thể hiện sự tín nhiệm và
đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những thành quả của công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế - xã hội trong nước và mở cửa, hội nhập với bên ngoài của Việt Nam
trong hai thập kỷ qua.
Năm 2010, Việt Nam chính thức đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN. Trong
năm đảm nhiệm vị trí Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã đi đầu đề xuất trọng tâm hợp
tác của ASEAN “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: từ Tầm nhìn đến Hành động”,
nhằm tạo chuyển biến trong liên kết khu vực, cùng hiện thực hóa mục tiêu xây dựng
Cộng đồng vào năm 2015. Việt Nam ln tích cực cùng ASEAN xây dựng, thúc đẩy
và phát huy các cơng cụ và cơ chế hợp tác chính trị - an ninh ở khu vực, góp phần xây
dựng lịng tin, thúc đẩy đối thoại, vì hịa bình, an ninh, ổn định và hợp tác vì phát triển,

như: Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước Khu vực Đơng
Nam Á khơng có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về Ứng xử của các bên


17
ở Biển Đông (DOC),.... Thành công của nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN năm 2010 nói
riêng cũng như những kết quả tốt đẹp của quá trình tham gia ASEAN những năm qua
của Việt Nam xuất phát từ đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng suốt của Đảng, Nhà
nước ta, từ vai trò, vị thế của đất nước sau 30 năm Đổi mới và mở cửa, qua đó đã nâng
cao vai trị và vị thế quốc tế của Việt Nam.

Khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tháng 10/2010 tại Hà Nội
2.3. Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2021
2.3.1. Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Trong 5 năm từ 2011 đến 2015, Đảng và Nhà nước đã triển khai Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ XI trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, phức tạp
và khó lường hơn. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, một số đối tác kinh tế
lớn của chúng ta gặp khó khăn, giá cả một số mặt hàng, nhất là giá dầu, giảm sâu.
Cạnh tranh và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn biến nhanh chóng và phức tạp.
Các vấn đề tồn cầu như biến đổi khí hậu, khủng bố quốc tế và bệnh dịch có xu hướng
trầm trọng hơn. Một số vấn đề khu vực, nhất là tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo căng
thẳng hơn giai đoạn trước.
Kiên định mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”, trên cơ sở thế và lực của đất nước từng bước được
nâng cao, phát huy các thành tựu đối ngoại trong 25 năm Đổi mới, công tác đối ngoại
trong giai đoạn này tiếp tục đạt được nhiều thành tựu, trong đó nổi bật là các thành tựu sau:
Thứ nhất, chúng ta đã giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi
cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều sâu, thực chất,
hiệu quả. Bên cạnh việc tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt với Lào,
quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Campuchia, các mối quan hệ

đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thống,
kết quả nổi bật của đối ngoại năm năm qua là đã hoàn thành việc xây dựng khuôn khổ
quan hệ đối tác với hầu hết các nước có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới.


18
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, chúng ta đã thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với
tám nước trong tổng số 15 nước đối tác chiến lược đã được xây dựng trong 15 năm
trước đó, nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện hoặc sâu rộng với hai nước, lập
quan hệ đối tác toàn diện với ba nước trong tổng số 10 nước đối tác toàn diện, trong đó
có cả năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Được xây dựng
trên nền tảng quan hệ bình đẳng, tơn trọng luật pháp quốc tế, thể chế chính trị, độc lập
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, các khn khổ đó
đã đưa quan hệ của ta với các đối tác, nhất là các đối tác hàng đầu như Trung Quốc,
Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, EU, các nước cùng trong Cộng đồng ASEAN,... đi vào khuôn
khổ ổn định, đồng thời mang lại ngày càng nhiều lợi ích về kinh tế, thương mại, đầu
tư, chính trị, quốc phịng, an ninh, văn hóa… Quan hệ với các đối tác hàng đầu không
chỉ phát triển mạnh trên kênh Nhà nước, Chính phủ, mà cịn được đẩy mạnh trên cả
kênh Đảng, Quốc hội.
Thứ hai, cơng tác đối ngoại đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta ngày càng chủ động, tích cực trong việc đàm
phán và ký kết các Khu vực mậu dịch tự do (FTA), hội nhập sâu và toàn diện hơn vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Ta đã hoàn thành ba FTA song phương với các đối tác
quan trọng, bao gồm FTA với Hàn Quốc, FTA với Liên minh kinh tế Á - Âu và FTA
với Liên hiệp châu Âu. Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 11 FTA khu vực
và song phương, trong đó có sáu FTA trong khn khổ hợp tác ASEAN. Đặc biệt, đối
với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam đã tích cực triển khai các biện pháp
ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC. Việt Nam được đánh giá là
một trong những quốc gia thành viên có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong
Lộ trình Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Tháng 10/2015, ta đã cùng các nước thành viên

kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ta cũng tiếp tục
đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt được một
thỏa thuận kinh tế toàn diện, phù hợp điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN. Ở
cấp độ toàn cầu, tại Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tháng
12/2013, Việt Nam đã cùng với các thành viên WTO thơng qua Gói cam kết thương
mại Bali, khai thông bế tắc trong đàm phán trong khuôn khổ WTO đã kéo dài nhiều
năm. Cho đến giữa năm 2015, ta có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 224 quốc gia
và vùng lãnh thổ, thu hút trên 250 tỷ USD FDI. Trong 5 năm, chúng ta đã vận động
được thêm 36 đối tác mới, nâng tổng số đối tác chính thức cơng nhận quy chế kinh tế
thị trường ở nước ta lên 59. Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích
cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư,
ODA, thu hút khách du lịch, đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại,


19
áp đặt các rào cản thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và
nhà nước ta.
Thứ ba, cơng tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững chủ
quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Năm năm qua, cơng tác biên giới
với Trung Quốc, Lào, Campuchia đều có tiến triển. Với Trung Quốc, hai bên đã ký
Hiệp định quy chế tàu thuyền đi lại tại khu vực tự do đi lại ở cửa sông Bắc Luân và
Hiệp định khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc. Chúng ta đã
chủ động và tích cực duy trì đàm phán về vùng biển ngồi cửa vịnh Bắc Bộ, hợp tác
trong lĩnh vực ít nhạy cảm và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển. Hai bên đã đạt được
“Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”. Ngày
19/12/2015, hai bên đã khởi động khảo sát chung tại một số khu vực thỏa thuận ngoài
cửa vịnh Bắc Bộ, chuẩn bị triển khai một số dự án về hợp tác ít nhạy cảm trên biển để
thực hiện mục tiêu phân định và hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Với Lào,
hai bên hoàn thành dự án tăng dày tôn tạo hệ thống mốc giới, đạt được nhiều thỏa
thuận trong việc phát triển đường biên giới hịa bình, hữu nghị. Với Campuchia hai

bên đã hợp tác tốt giữ gìn an ninh, trật tự và giải quyết ổn thỏa các vấn đề phát sinh ở
khu vực biên giới; tiếp tục công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (hiện đã đạt hơn 80%).
Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, công tác đối ngoại đã thực hiện
nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sử dụng linh hoạt, triệt
để các biện pháp chính trị - ngoại giao, mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song
phương và đa phương, khu vực và quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khơi
phục lịng tin, thúc đẩy hợp tác hữu nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải
pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông. Chúng ta đã tranh thủ được công luận
quốc tế lên tiếng ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách vô
lý, phản đối các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật pháp quốc
tế, nhằm duy trì hịa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở
Biển Đông và khu vực. Trong những năm qua, vấn đề Biển Đông là chủ đề được quan
tâm và nêu trong nhiều Tuyên bố, văn kiện của nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương như
ASEAN, Hội nghị cấp cao Đơng Á (EAS), Nhóm nước G-7, EU,...
Đối với các thế lực lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can
thiệp vào công việc nội bộ của đất nước, chúng ta đã sử dụng nhiều biện pháp, kiên
quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa, bảo vệ hệ giá trị Việt
Nam. Năm năm qua, chúng ta đã chủ động tổ chức các cuộc đối thoại với các nước,
các tổ chức quốc tế về các vấn đề này. Chúng ta cũng đã tăng cường công tác thông tin
cho cộng đồng quốc tế về thực tế quá trình xây dựng và triển khai chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực này. Công tác đối ngoại đã phối hợp


20
chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy lùi và vơ hiệu hóa các âm mưu
và hành động chống phá Đảng và Nhà nước ta trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo. Năm năm qua, nhiều hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế
nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường năng lực xây dựng và thực thi pháp luật cũng được
mở ra, tạo cơ sở cho các đối tác hiểu rõ hơn những chuyển biến về chính sách và thực

thi chính sách ở Việt Nam.
Thứ tư, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua việc nâng tầm đối ngoại
đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật
chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển
của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế”. Việt Nam đóng góp nhiều sáng kiến quan trọng tại các diễn đàn đa
phương có tầm ảnh hưởng lớn như ASEAN, Liên Hợp Quốc, APEC, ASEM, hợp tác
tiểu vùng Mê Công,... Vị thế của đất nước được nâng lên đáng kể với việc chúng ta
đăng cai thành công Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132,
đóng góp cho Liên Hợp Quốc trong việc xây dựng và triển khai Chương trình nghị sự
phát triển bền vững sau năm 2015, được các nước tin cậy bầu với số phiếu cao vào Hội
đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban kinh tế - xã hội Liên
Hợp Quốc nhiệm kỳ 2016 - 2018, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ
2013-2017, lần đầu tiên tham gia lực lượng gìn giữ hịa bình Liên Hợp Quốc (PKO).
Cơng tác đối ngoại đạt được những thành tựu kể trên là nhờ đường lối đúng đắn
của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những thành tựu quan
trọng này cịn là kết quả của sức mạnh đồn kết dân tộc, nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của
các cán bộ làm công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và đối ngoại nhân
dân; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành và địa phương; sự vận dụng sáng tạo,
hiệu quả các bài học lớn còn nguyên giá trị thời đại của ngoại giao Việt Nam hiện đại,
đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kiên định về nguyên tắc, linh
hoạt về sách lược với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
2.3.2. Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021
Chủ động, tích cực nắm bắt và tạo dựng được thời cơ, kiên trì và linh hoạt vượt
qua những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài, đối ngoại trong nhiệm kỳ qua đã đạt
được những thành tựu nổi bật, góp phần tích cực vào củng cố mơi trường hịa bình, ổn
định, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thu hút các nguồn lực phát triển, nâng
cao vị thế và uy tín của đất nước. Quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng
chung biên giới, các nước trong khu vực, các nước lớn, các đối tác ưu tiên, chủ chốt
tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu, thực chất, tạo dựng được khuôn khổ quan hệ

ổn định, bền vững. Các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện
được mở rộng, trên tinh thần lựa chọn đối tác có trọng tâm, trọng điểm. Trong giai


21
đoạn này, ta đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với 5 nước, nâng cấp quan hệ lên đối
tác chiến lược với 2 nước (Australia năm 2018 và New Zealand năm 2020), từ đối tác
chiến lược lên đối tác chiến lược toàn diện với một nước (Ấn Độ năm 2016), nâng
tổng số quan hệ đối tác chiến lược/đối tác toàn diện lên 30 nước.
Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu
vực và toàn cầu của các nước lớn. Trao đổi đoàn các cấp với các đối tác được duy trì
đều đặn, thường xuyên, kể cả vào những thời điểm quan hệ nảy sinh vấn đề, cho thấy
chiều sâu, tính thực chất trong quan hệ của ta với các đối tác. Đối ngoại song phương
đã góp phần thiết thực vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Ta cũng xử lý tốt các vấn đề tồn tại và phát sinh trong quan hệ với các đối tác
chủ chốt, không để ảnh hưởng đến các lợi ích an ninh, phát triển cũng như cục diện
quan hệ đối ngoại của ta.
Ngay cả trong khó khăn của đại dịch Covid-19, đối ngoại vẫn điều chỉnh linh
hoạt, sáng tạo, hiệu quả với các hình thức ngoại giao trực tuyến, đồng thời ta đã đẩy
mạnh ngoại giao y tế và hợp tác quốc tế phòng chống dịch. Trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 diễn biến phức tạp, hiện nay, chúng ta đã chủ động đóng góp có trách nhiệm
vào sự nỗ lực chung của quốc tế trong phòng, chống dịch Covid-19, đồng thời tranh
thủ được sự hỗ trợ của quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan
trọng vào việc phịng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Năm 2020, với chiến dịch “ngoại giao vaccine” tính đến hết tháng 9, nước ta đã tiếp
nhận khoảng 50 triệu liều vaccine và nhiều trang thiết bị y tế, thuốc men từ các đối tác
song phương, đa phương cũng như kiều bào ta ở nước ngoài. Việt Nam đã phát huy
tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế, hỗ trợ khẩu trang, vật tư y tế, tài chính cho 51
quốc gia và tổ chức quốc tế ứng phó với đại dịch COVID-19.
Hội nhập quốc tế, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, thu

hút thêm nhiều nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Trong năm năm qua, đối ngoại
đã thúc đẩy tạo dựng nhiều khuôn khổ thuận lợi cho hợp tác quốc tế, đặc biệt là việc
tham gia và ký kết hai hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới là CPTPP và
EVFTA và một FTA quy mô hàng đầu thế giới là RCEP, mang lại những cơ hội to lớn
về mở rộng, đa dạng hóa thị trường và tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng khu
vực và toàn cầu. Hội nhập chính trị, an ninh, quốc phịng ngày càng đi vào chiều sâu,
với dấu ấn quan trọng là việc Việt Nam lần đầu tiên cử lực lượng tham gia lực lượng
gìn giữ hịa bình của Liên Hợp Quốc. Hội nhập văn hóa - xã hội, khoa học cơng nghệ,
giáo dục - đào tạo cũng đạt được những bước tiến quan trọng.
Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển được tăng cường, tạo môi trường thuận
lợi và trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các địa phương và
doanh nghiệp. Công tác tham mưu, nghiên cứu các vấn đề kinh tế, chiến lược phát


22
triển được đẩy mạnh, với nhiều báo cáo tham mưu có chất lượng, đưa ra được nhiều
khuyến nghị chính sách kịp thời, khả thi. Các hoạt động ngoại giao kinh tế được lồng
ghép hiệu quả trong các hoạt động đối ngoại cấp cao; góp phần đẩy mạnh hợp tác kinh
tế, thương mại, đầu tư, lao động, du lịch, khoa học cơng nghệ, hỗ trợ tích cực cho
doanh nghiệp và địa phương, xử lý thỏa đáng một số vấn đề kinh tế - thương mại nảy
sinh trong quan hệ với các nước.
Việt Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trị của đối ngoại đa phương, tích
cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng bước phát huy vai trị
hịa giải, góp phần vào hịa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Ta đã khẳng định
vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như
ASEAN, ASEM, APEC, Liên Hợp Quốc, G20, WEF và các cơ chế tiểu vùng Mekong;
để lại nhiều dấu ấn quan trọng với việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017,
Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018. Năm 2020,
Việt Nam đã tổ chức thành công tất cả các hội nghị cấp cao, bao gồm Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 36 và 37, cùng hơn 30 cuộc họp trực tuyến cấp bộ trưởng và tương

đương cũng như hàng chục cuộc họp tham vấn, dưới hình thức trực tuyến và bán trực
tuyến. Đặc biệt, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 (tháng 11/2020) với 20 cuộc họp
liên quan và hơn 80 văn kiện đã được thông qua. Đây là số lượng văn kiện được thông
qua cao nhất trong các kỳ họp ASEAN. Với vai trò chủ tịch, Việt Nam đã chủ động
dẫn dắt, điều phối ASEAN vượt qua nhiều thách thức, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh
COVID-19; đồng thời, phát huy tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế, hỗ trợ khẩu
trang, vật tư y tế, tài chính cho 51 quốc gia và tổ chức quốc tế ứng phó với dịch bệnh
COVID-19. Đánh giá về kết quả của những sáng kiến do Việt Nam triển khai, các
nước ASEAN cho rằng, chủ đề mà Việt Nam đưa ra rất chính xác và đã trở thành một
thương hiệu của ASEAN, đó là một ASEAN “Gắn kết và chủ động thích ứng”. Với
tâm thế và quyết tâm “hoàn thành trọng trách mà cộng đồng quốc tế giao phó”, trên
tinh thần “đối tác vì hịa bình bền vững”, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trị Ủy viên
khơng thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020-2021. Trên cơ sở sáng kiến
của Việt Nam, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lần đầu tiên thông qua Tuyên bố Chủ
tịch về tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc; các ý kiến của Việt Nam liên quan đến
xử lý các vấn đề phức tạp ở khu vực châu Á được các nước coi trọng và đánh giá cao.
Việt Nam cũng lần đầu tiên đề xuất và thúc đẩy Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 27-12 hằng năm là Ngày Quốc tế phòng, chống dịch bệnh với số
lượng nước đồng bảo trợ đạt kỷ lục (112 nước).
Tại cuộc điện đàm giữa Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc với Tổng Thư ký
Liên hợp quốc diễn ra vào tháng 6, ông Antonio Guterres đã ghi nhận những đóng góp
tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam tại Liên hợp quốc và trong các vấn đề toàn


23
cầu, nhất là tại Hội đồng Bảo an, đối với việc thực hiện các mục tiêu Phát triển bền
vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và COVID-19. Người đứng đầu Liên hợp quốc
khẳng định “Việt Nam là nhân tố quan trọng đóng góp vào hịa bình, ổn định trong khu
vực”. Bên cạnh đó, việc Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự và phát biểu tại
phiên họp cấp cao của Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an tiếp tục khẳng định mạnh mẽ,

rõ ràng với bạn bè quốc tế về một nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, khát vọng phát
triển và vươn lên, có trách nhiệm, đóng góp một cách tích cực vào các vấn đề hịa
bình, an ninh và phát triển trên thế giới,...
Với việc chủ động thúc đẩy và đứng ra tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ Triều Tiên lần thứ hai diễn ra từ ngày 27-28/2/2019 tại Hà Nội, ta đã quảng bá mạnh
mẽ hình ảnh một đất nước Việt Nam khát vọng hồ bình, đổi mới, phát triển, chứng
minh được năng lực đóng góp vào các vấn đề an ninh và hịa bình tồn cầu. Việc chọn
Việt Nam, mà cụ thể là Hà Nội đã cho thấy cả Mỹ và Triều Tiên đều đánh giá Việt
Nam là đối tác tin cậy và tin tưởng Việt Nam sẽ tạo ra môi trường an tồn, cơng bằng,
thân thiện cho cuộc đối thoại giữa hai bên. Đồng thời, với hội nghị thượng đỉnh lần hai
ở Hà Nội, Việt Nam đã trở thành “cầu nối” cho tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên, giữ vai trị một đối tác góp phần kiến tạo hịa bình khơng chỉ
trên bán đảo Triều Tiên mà cả khu vực Đông Bắc. Hội nghị được giáo sư Carlyle
Thayer ví như là một cuộc “bỏ phiếu tín nhiệm”, chứng tỏ sự tin tưởng của cộng đồng
quốc tế vào “năng lực, vai trò xây dựng của Việt Nam trong vấn đề an ninh và hịa
bình của khu vực và thế giới”.
Cơng tác đối ngoại đã đóng góp quan trọng vào việc giữ vững chủ quyền biển
đảo và tồn vẹn lãnh thổ, củng cố mơi trường hịa bình, ổn định. Về biên giới trên bộ,
ta phối hợp triển khai hiệu quả công tác quản lý biên giới và cửa khẩu theo các văn
kiện pháp lý, thỏa thuận về biên giới ký kết với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Đặc
biệt, với Campuchia, ta đã ký và phê chuẩn 2 văn kiện pháp lý hóa thành quả phân giới
cắm mốc đã đạt được (84%). Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Việt Nam
hiện đại, ta đã xây dựng đường biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với
tất cả các nước láng giềng. Về biên giới trên biển, mặc dù tình hình Biển Đơng thời
gian qua rất phức tạp, ta vẫn kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán của ta ở Biển Đông được xác lập phù hợp với Công ước của
Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982; đồng thời vẫn duy trì ổn định quan hệ song
phương với các đối tác. Ta tích cực đàm phán giải quyết những tranh chấp, khác biệt
liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế (với Indonesia) và báo cáo chung ranh giới ngoài
thềm lục địa (với Malaysia); cùng các nước ASEAN thúc đẩy đàm phán Bộ Quy tắc
Ứng xử trên Biển Đông (COC) với Trung Quốc. Đồng thời, ta đã xử lý hiệu quả các



24
vấn đề phức tạp nảy sinh, tích cực triển khai đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao và
cả trên thực địa ở Biển Đông.
Công tác bảo hộ công dân và vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài được triển khai kịp thời, hiệu quả, thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước
ta. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu, số lượng người Việt ra nước ngoài sinh
sống, lao động, học tập và du lịch ngày càng tăng, đối ngoại đã phát huy tinh thần chủ
động, kịp thời, chuyên nghiệp, hiệu quả trong triển khai bảo hộ công dân đối với trên
50.000 công dân, trên 600 vụ/1.000 tàu/gần 10.000 ngư dân; kịp thời xử lý những vấn
đề phát sinh liên quan đến công dân ta tại nước ngoài trong đại dịch Covid-19. Ta đã
triển khai các biện pháp nhằm tạo điều kiện để kiều bào sớm ổn định địa vị pháp lý,
hội nhập, làm ăn tại nhiều nước và hỗ trợ cho công dân ta gặp khó khăn. Cơng tác huy
động nguồn lực kiều bào được triển khai bài bản, sáng tạo hơn, qua đó khuyến khích
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi tham gia đóng góp kinh tế và tri thức vào sự
phát triển của đất nước. Nhiều hoạt động phong phú, thiết thực cho kiều bào đã được
tổ chức, góp phần khích lệ lịng u nước và củng cố khối đại đồn kết dân tộc.
Ta đã chủ động, kiên quyết đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo đồng thời thường xuyên thông tin, đối thoại nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau
và thu hẹp khác biệt. Ta đã đấu tranh kiên quyết với các hành vi lợi dụng vấn đề dân
chủ, nhân quyền và tôn giáo để thực hiện ý đồ chống phá và can thiệp vào công việc
nội bộ của ta; phát huy hiệu quả các cơ chế đối thoại nhân quyền với các nước phương
Tây trên tinh thần bình đẳng, khơng né tránh; đồng thời chủ động tham gia nhiều lĩnh
vực hợp tác quốc tế về quyền con người cả trong khuôn khổ song phương, đa phương
và các tổ chức nhân quyền quốc tế. Thơng qua đó, ta vừa giữ vững được ổn định chính
trị - xã hội trong nước, vừa giải tỏa thành công sức ép của các nước phương Tây trong
một số vấn đề, không để ảnh hưởng đến quan hệ với các đối tác lớn.
Cơng tác ngoại giao văn hóa và thơng tin đối ngoại được đổi mới hình thức và
nội dung, nâng cao hiệu quả, hiệu ứng quảng bá về đất nước, văn hóa, con người và

truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. Cơng tác ngoại giao văn hóa đã góp phần củng cố
và tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá hình ảnh, đất
nước và văn hóa Việt Nam ra thế giới thơng qua việc tích cực triển khai các chương
trình, khn khổ lớn như Chiến lược Ngoại giao văn hóa, Đề án tơn vinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh ở nước ngồi, chương trình Tuần/Ngày Việt Nam ở nước ngoài,... Trong
giai đoạn 2016-2020, ta đã vận động thành công thêm nhiều danh hiệu của UNESCO,
nâng tổng số di sản tại Việt Nam lên 39 di sản, qua đó vừa đóng góp vào bảo vệ các
giá trị của nhân loại, vừa tạo nguồn lực mới cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở
nhiều địa phương. Về công tác thông tin đối ngoại, ta đã chủ động thơng tin về đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước tới cộng đồng quốc tế và kiều bào ta ở


25
nước ngồi, tạo thuận lợi cho hàng nghìn phóng viên, cơ quan báo chí quốc tế vào Việt
Nam đưa tin, viết bài, góp phần tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về
nước ta, đồng thời phản bác, ngăn chặn, vơ hiệu hóa những luận điệu xun tạc về
Đảng và nhà nước ta. Ta đã ứng dụng hiệu quả các hình thức tương tác mới, tận dụng
mạng xã hội ngoại giao số và các hình thức trao đổi trực tuyến, đặc biệt trong thời kỳ
đại dịch Covid-19. Với kết quả tích cực về phịng chống dịch, cũng như những thành
công trong phát triển kinh tế, đảm nhiệm các trọng trách đối ngoại, thế giới càng biết
hơn đến Việt Nam khơng chỉ là một quốc gia hịa bình, ổn định, an tồn, giàu tiềm
năng mà cịn có khả năng thích ứng và xử lý hiệu quả các thách thức.
Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp giữa các
trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân ngày càng chặt chẽ,
kiện toàn và triển khai hiệu quả cơ chế phối hợp quốc phòng - an ninh - đối ngoại, góp
phần nâng cao hiệu quả và sức mạnh tổng thể trên mặt trận đối ngoại. Triển khai Quy
chế 272 về thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại, sự phối hợp, trao đổi giữa các
cơ quan, bộ, ngành liên quan ngày càng chặt chẽ, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong chia sẻ thông tin, phối hợp
nghiên cứu, tham mưu chung, xây dựng đồng thuận nội bộ, xử lý các vấn đề vướng

mắc, phức tạp nảy sinh.
Công tác đối ngoại Đảng tiếp tục được đổi mới theo tinh thần Chỉ thị 32 ngày
18/2/2019 của Bộ Chính trị về “Tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại
đảng trong tình hình mới”; thúc đẩy quan hệ của ta với chính đảng các nước ngày càng
thực chất hơn, phù hợp với tình hình mới. Quan hệ đối ngoại quốc hội ngày càng đi
vào chiều sâu, hiệu quả, thực chất với quốc hội các nước và trên các diễn đàn nghị
viện đa phương, góp phần quan trọng vào việc làm sâu sắc quan hệ của ta với các nước
và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.
Đối ngoại quốc phòng và đối ngoại an ninh được thúc đẩy, góp phần gia tăng
lịng tin, củng cố quan hệ, đồng thời tạo khơng khí tích cực xử lý các khác biệt, bất
đồng với các đối tác. Đối ngoại nhân dân được triển khai chủ động, tích cực, thiết thực
tại các diễn đàn nhân dân đa phương và trong quan hệ nhân dân với các nước, góp
phần huy động nguồn lực, tranh thủ đoàn kết quốc tế ủng hộ và tăng cường quan hệ
với Việt Nam.
Nhìn lại năm năm vừa qua, những thành tựu trên càng có ý nghĩa hơn bao giờ
hết khi thế giới trải qua những biến động to lớn, phức tạp chưa từng có. Cơng tác đối
ngoại đã đóng góp quan trọng, trở thành một điểm sáng trong những thành tựu chung
của cả dân tộc. Khơng chỉ giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định trong bối cảnh
thế giới rất phức tạp, Việt Nam đã thể hiện được bản lĩnh, tinh thần chủ động thích
ứng, khả năng kiến tạo và tận dụng cơ hội để khơng ngừng nâng cao thế và lực, uy tín


×