All
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC.
LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
GVHD: TS. Phạm Thị Lan
SVTH:
Lê Nguyễn Thiên Tứ 21110349
Trần Thị Á Tiên 21110318
Nguyễn Thị Xuân Mai 21110946
Trần Nguyễn Bảo Trân 21150105
Bùi Thanh Tín 21150101
Mã lớp học: LLCT130105_40CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2022
Tieu luan
All
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC.
LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
GVHD: TS. Phạm Thị Lan
SVTH:
Lê Nguyễn Thiên Tứ 21110349
Trần Thị Á Tiên 21110318
Nguyễn Thị Xuân Mai 21110946
Trần Nguyễn Bảo Trân 21150105
Bùi Thanh Tín 21150101
Mã lớp học: LLCT130105_40CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2022
Tieu luan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................................
2. Mục tiêu nghiên cứu.....................................................................................................
3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC–LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC...........................................................................................................................
1.1 Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc................................
1.2 Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay.........................................
1.3 Những nguyên tắc cơ bản trong vấn đề giải quyết dân tộc......................................
1.3.1 Các dân tộc hồn tồn bình đẳng.........................................................................
1.3.2 Các dận tộc hồn tồn tự quyết............................................................................
1.3.3 Liên hiệp cơng nhân tất cả các dân tộc.................................................................
CHƯƠNG 2 LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
....................................................................................................................................
2.1 Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đồn kết dân tộc.......................
2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc.....................................................................................................................................
2.3 Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
nước ta hiện nay..............................................................................................................
KẾT LUẬN.............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................
Tieu luan
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và dân tộc – nhân loại trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là mối quan hệ cơ bản và có tác động đối với cơng cuộc giải phóng
dân tộc cũng như sự phát triển của tồn xã hội. Lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ
XX, một thế kỷ vận động và phát triển nhanh và phức tạp của tình hình quốc
tế, chúng ta càng thấy sự sáng tạo và đúng mực của tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và giai cấp, nhân loại.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng vấn đề giai cấp và dân tộc
không được kết hợp một cách đúng đắn, quan điểm giai cấp và dân tộc được vận
dụng một cách cứng nhắc, hoặc bị coi nhẹ thì ở đó cách mạng sẽ khơng chỉ gặp
khó khăn mà thậm chí cịn bị tổn thất nặng nề.
Với cơ sở trên, liên hệ phổ biến với trách nhiệm của sinh viên về vấn đề
dân tộc nên chúng em – sinh viên trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TPHCM
đã chọn và được giáo viên hướng dẫn chủ đề “Quan điểm triết học MÁC–
LÊNIN về vấn đề dân tộc. Mối quan hệ giữa giai cấp – dân tộc – nhân loại. Liên
hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
nước ta hiện nay”. Song với việc kiến thức của chúng em cịn hạn chế, chưa
hồn thiện và đây là lần đầu viết tiểu luận nên chúng em khó tránh thiếu sót khi
làm việc. Cả nhóm hai rất mong sẽ nhận được những nhận xét và đóng góp từ
cô. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này giúp chúng em có thêm điều kiện để củng cố
kiến thức và tìm được những vấn đề mà mình chưa được biết. Mục đích đề tài
vấn đề dân tộc này sẽ giúp chúng em tìm hiểu được Mối quan hệ giữa vấn đề
giai cấp và dân tộc – nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Những vấn đề
chúng em sẽ tìm hiểu là quan điểm Triết học Mác–Lênin về vấn đề dân tộc, mối
1
Tieu luan
quan hệ giữa giai cấp – dân tộc – nhân loại và qua đó chúng em sẽ liên hệ trách
nhiệm của sinh viên về quan điểm trên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận của chúng em được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như:
lịch sử – logic, phân tích – tổng hợp, quy nạp – diễn dịch, so sánh, thống kê,
nghiên cứu…
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC–LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC
1.1 Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc1
Con người có bản chất xã hội, do vậy bao giờ cũng chỉ tồn tại và phát triển
trong những hình thức cộng đờng người nhất định. Hình thức cộng đồng người
là cách thức tổ chức xã hội của con người trong những thời kỳ lịch sử xã hội
khác nhau. Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay, là lịch sử phát
triển của các hình thức cộng đồng người từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc
và dân tộc. Trong các hình thức đó thì dân tộc là hình thức cộng đờng người cao
nhất và phở biến nhất của xã hội lồi người hiện nay.
Thị tộc
Thị tộc là một hình thức cộng đồng người cơ bản trong thời kỳ nguyên
thủy. Bởi vì, trong chế độ ngun thủy cịn có bộ lạc. Thị tộc là một tập thể sản
xuất xã hội đầu tiên của xã hội ngun thủy có sự cộng đồng về nguồn gốc,
ngơn ngữ chung, phong tục tập quán và văn hóa chung
Thị tộc vừa là thiết chế xã hội đầu tiên, vừa là hình thức cộng đờng người
sớm nhất của lồi người. Thị tộc có những đặc điểm cơ bản là các thành viên
trong thị tộc đều tiến hành lao động chung, vai trị của các thành viên phụ thuộc
vào vị trí của họ trong nền sản xuất nguyên thuỷ. Các thành viên của thị tộc có
cùng một tở tiên, cùng nói một thứ tiếng, cùng thói quen và tín ngưỡng; Điểm
khác là mỡi thị tộc có một tên gọi riêng. Về tổ chức xã hội, thị tộc bầu ra tù
Ph. Aênghen, Chống Đuy rinh, Nxb ST, Hà Nội-1959, tr.454.
1
2
Tieu luan
trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để điều hành công việc chung của thị tộc.
Quyền lực của tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự được thực hiện dựa trên cơ
sở của uy tín, đạo đức cá nhân của họ. Tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự là
do các thành viên của thị tộc bầu ra và họ có thể bị bãi miễn nếu khơng thực
hiện được vai trị của mình. Mọi thành viên trong thị tộc đều bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ. Cơ sở kinh tế của thị tộc là sở hữu công cộng nguyên thủy. Xét
về hình thức thị tộc đầu tiên là thị tộc mẫu quyền. Vai trò quyết định trong đời
sống kinh tế xã hội thuộc về người phụ nữ. Bởi vì trong thời kỳ này nghề săn
bắn của đàn ông là nghề không ổn định, ngược lại nghề hái lượm, chuẩn bị thức
ăn, trơng coi lửa và giữ nhà lại có khả năng bảo đảm sự ổn định của thị tộc.
Nhưng về sau do sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thủy
dẫn đến phát triển của trồng trọt và chăn ni, vai trị của người đàn ông trong
đời sống thị tộc tăng lên, dần dần thị tộc mẫu quyền bị thay thế bởi thị tộc phụ
quyền.
Bộ lạc
Bộ lạc là cộng đồng bao gồm những thị tộc có quan hệ cùng hút thớng
hoặc các thị tộc có quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Ph. Ăngghen viết: “một
thị tộc đã được coi là một đơn vị cơ sở của xã hội, thì tồn bộ chế độ thị tộc, bào
tộc và bộ lạc đều phát triển từ cái đơn vị ấy với một sự tất yếu hầu như khơng
thể ngăn cản nởi- bởi vì đó là điều hoàn toàn tự nhiên”. Mỗi một bộ lạc bao gồm
nhiều thị tộc khác nhau và ít nhất có hai thị tộc. Những thị tộc hợp thành bộ lạc
có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau. Bộ lạc là một hình thức
mới của nền sở hữu xã hội. Nó bao gồm sở hữu thị tộc và sở hữu bộ lạc, thể hiện
về lãnh thổ. Một nhu cầu mới nảy sinh là vấn đề lãnh đạo bộ lạc, nên nó làm
xuất hiện các thủ lĩnh, những người tế lễ, những người coi sóc cơng việc chiến
tranh và các cơ quan điều hành như hội đồng bộ lạc, hội nghị chiến binh, hội
nghị các thành viên cao tuổi trong bộ lạc. Bộ lạc có những đặc điểm cơ bản sau,
cơ sở kinh tế của bộ lạc là chế độ công hữu về đất đai và công cụ sản xuất. Các
thành viên trong bộ lạc đều tiến hành lao động chung, quan hệ giữa các thành
3
Tieu luan
viên trong lĩnh vực sản xuất vật chất là bình đẳng. Cũng như thị tộc, mỡi bộ lạc
có tên gọi riêng; các thành viên nói chung một thứ tiếng; có những tập quan và
tín ngưỡng chung. Song lãnh thở của bộ lạc có sự ởn định hơn so với thị tộc. Về
tổ chức xã hội, đứng đầu bộ lạc là một hội đồng gồm những tù trưởng của các
thị tộc tham gia bộ lạc và có một vị thủ lĩnh tối cao. Mọi vấn đề quan trọng trong
bộ lạc đều được bàn bạc và thông qua trong hội đồng này. Trong q trình phát
triển của nó, một bộ lạc có thể được tách ra thành các bộ lạc khác nhau, hoặc là
có sự hợp nhất giữa nhiều bộ lạc thành liên minh các bộ lạc.
Bộ tộc
Thị tộc và bộ lạc chỉ bao gờm hầu hết là những người có cùng huyết thống
nhưng bộ tộc là sự liên kết của nhiều bộ lạc không cùng huyết thống
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Do việc mua bán ruộng đất, do sự phát triển hơn nữa của
phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thương nghiệp
và hàng hải, và những thành viên của các thị tộc, bào tộc và bộ lạc chẳng bao lâu
đã phải sống lẫn lộn với nhau; và lãnh thổ của bào tộc và bộ lạc đã phải thu nhận
những người tuy cũng là đồng bào, nhưng lại không thuộc các tập đoàn ấy, tức
là những người lạ xét về nơi ở”. Bộ tộc là một hình thức phát triển của cộng
động người trong lịch sử, xuất hiện vào thời kỳ lao động chăn nuôi tách khỏi
trồng trọt nghề thủ cơng ra đời. Bộ tộc hình thành cùng với chế độ chiếm hữu nô
lệ, hoặc trong những xã hội bỏ qua chế độ chiếm hữu nơ lệ, thì bộ tộc hình thành
cùng với chế độ phong kiến. Đặc điểm cơ bản của bộ tộc là việc hình thành lãnh
thổ chung, tiếng nói chung, văn hóa và lối sống chung, nó đánh dấu sự tan rã của
các quan hệ sản xuất nguyên thủy hình thành quan hệ sản xuất của xã hội có giai
cấp. Nhưng vì mới liên hệ cộng đờng chưa phát triển nên tiếng nói chung đó cịn
chưa thực sự vững chắc. Bên cạnh tiếng nói chung, thở ngữ của các bộ lạc vẫn
được sử dụng rộng rãi. Trong bộ tộc đã xuất hiện những yếu tố chung về tâm lý,
văn hố. Về tở chức xã hội, việc điều hành công việc xã hội thuộc về nhà nước.
Nhà nước là công cụ do giai cấp thống trị tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho giai
cấp đó. Với sự ra đời của bộ tộc, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại có một hình
4
Tieu luan
thức cộng đờng người được hình thành khơng theo hút thống mà dựa trên
những mối liên hệ về kinh tế, về lãnh thở và văn hố mặc dù những mới liên hệ
đó cịn chưa thực sự phát triển. Bộ tộc tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, cho
tích lũy và trao đổi kinh nghiệm sản xuất, văn hoá v.v... Nhưng khi nền sản xuất
hàng hóa thay thế dần nền kinh tế tự nhiên, gia tộc thì bộ tộc trở thành sức cản
đối với sự phát triển của sản xuất và trao đổi, cho nên dân tộc xuất hiện thay thế
dần hình thức bộ tộc.
1.2 Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay2
Khái niệm dân tộc
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên
cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế thống
nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với một nhà nước và
pháp luật thống nhất.
Dân tộc gồm có những đặc trưng như là một cộng đồng người ổn định trên
một lãnh thổ thống nhất. Một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ. Một cộng
đồng thống nhất về kinh tế. Một cộng đồng bền vững về văn hóa và tâm lý, tính
cách. Một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống nhất.
Tính phổ biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử thế
giới
Ở châu Âu, dân tộc hình thành gắn liền với sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản.
Ở phương Đông, dân tộc ra đời rất sớm, không gắn với sự ra đời của Chủ
nghĩa tư bản.
Dân tộc Việt Nam được hình thành rất sớm gắn liền với quá trình đấu
tranh chống ngoại xâm, cải tạo thiên nhiên, bảo vệ nền văn hoá dân tộc, bắt đầu
từ khi nước Đại Việt giành độc lập.
2
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 4, Nxb Chính trị q́c gia, Hà Nội, 1995, tr. 603.
5
Tieu luan
1.3 Những nguyên tắc cơ bản trong vấn đề giải quyết dân tộc
1.3.1 Các dân tộc hồn tồn bình đẳng
Quyền bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc, kể cả các cộng
đồng bộ tộc và chủng tộc. Các dân tộc được gọi là dân tộc bình đẳng có nghĩa là:
các dân tộc, dù lớn hay nhỏ, không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp,
khơng phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, chủng tộc, màu da,...
không một dân tộc nào được giữ đặc quyền lợi đặc biệt và đi áp bức bóc lột dân
tộc khác trong phạm vi một quốc gia cũng như trên thế giới nhưng đều có nghĩa
vụ và quyền lợi như nhau.
Trong một quốc gia trong đó có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các
dân tộc khơng chỉ thể hiện trong tư tưởng, pháp luật mà quan trọng hơn là phải
được thực hiện ngay trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thực tế phải được
thể hiện bằng hành động khơng phải chỉ trên lời nói. Trên phạm vi tồn thế giới,
đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc hẹp
hịi, chủ nghĩa phát xít mới; đồng thời, gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một
trật tự thế giới mới, chống áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với
các nước chậm phát triển về kinh tế. Trong đó, việc phấn đấu khắc phục chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc
tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
1.3.2 Các dận tộc hoàn toàn tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mọi dân tộc đối với vận
mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định về chế độ chính trị – xã hội của đất
nước, cũng như về con đường phát triển hoặc lập ra một nhà nước dân tộc riêng,
độc lập hoặc liên kết với các dân tộc khác thành lập một nhà nước nhiều dân tộc
trên cơ sở bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và tự nguyện. Mục đích cùng có lợi
để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ
quyền quốc gia có được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dân tộc. Khi
6
Tieu luan
xem xét, giải quyết các vấn đề về quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân. Cần phải ủng hộ các phong trào dân tộc
tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động của các quốc gia. Ngồi việc ủng hộ thì cũng cần phải kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng
chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước,
giúp đỡ các thế lực phản động chống lại các lực lượng tiến bộ trong dân tộc.
1.3.3 Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân các dân tộc được hiểu là sự đoàn kết và thống nhất
của các giai cấp công nhân tất cả các dân tộc trên thế giới dựa trên cơ sở có cùng
địa vị về các lĩnh vực như kinh tế – xã hội, có sự thống nhất về lợi ích giai cấp,
có cùng sứ mệnh lịch sử…Giai cấp công nhân ở mọi quốc gia đều phải đặt việc
đồn kết của giai cấp cơng nhân các dân tộc làm hàng đầu và cũng là mục tiêu
hành động và phối hợp nhau trong đấu tranh chống kẻ thù xóa bỏ hận thù dân
tộc.
Liên hiệp cơng nhân tất cả các dân tộc cũng chính là yếu tố đảm bảo cho
việc tạo nên sức mạnh cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức bôc lột
chiến thắng các kẻ thù của mình. Liên hiệp cơng nhân tất cả các dân tộc quy
định mục tiêu, đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự
quyết, quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Từ đó, điều này chiếm vai trị rất quan
trọng trong việc liên kết cả ba nội dung trong cương lĩnh dân tộc thành một
chỉnh thể thống nhất.
CHƯƠNG 2 LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
Khối đại đồn kết dân tộc có thể xem là giá trị tinh thần vô cùng to lớn, là
truyền thống vô cùng quý của dân tộc ta, được hun đúc trong mấy nghìn năm
đấu tranh xây dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một loại động lực
7
Tieu luan
to lớn, là một triết lý nhân sinh hành động để cho dân tộc ta vượt qua bao nhiêu
biến cố và thăng trầm thiên tai, …, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên thực
tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới cũng đã sớm hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại đồn kết dân tộc.
Với sự quan sát chính trị sắc bén, cùng với tinh thần nhân văn cao cả, suốt
cuộc đời, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng xây dựng, hồn thiện một hệ thống
quan điểm về khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá những tư tưởng đồn
kết trong tồn Đảng và các cấp chính quyền, trong tầng lớp nhân dân, kể cả
đồng bào Việt Nam xa Tổ quốc.
Một là, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về đại đồn kết, đại đồn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại đồn kết dân tộc chính là một bộ phận
quan trọng để hợp thành trong hệ thống tư tưởng của Người về các vấn đề cơ
bản cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người để cảm nhận
được cụm từ “đoàn kết” được Hồ Chí Minh nhắc đến hơn hai ngàn lần và cụm
từ “đại đoàn kết” được Người nhắc đến hơn tám mươi lần, điều đó có thể nói lên
được sự quan tâm đối với các vấn đề đoàn kết ở trong mọi điều kiện, trong mọi
hoàn cảnh lịch sử, và đồng thời thể hiện rõ tầm chiến lược tư tưởng đoàn kết của
Người.
Đồn kết có thể hiểu một cách đơn giản chính là sự tập hợp, sự kết thành
một khối thống nhất, và cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó. Cịn đại
đồn kết chính là sự đồn kết rộng rãi có nghĩa là muốn nhấn mạnh tới các thành
phần, quy mơ, lực lượng của khối đồn kết.
Hồ Chí Minh đã nói rất nhiều tới đồn kết và đại đồn kết, tuy nhiên chỉ
một lần duy nhất Hồ Chí Minh định nghĩa khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết
tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại
đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
8
Tieu luan
gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác.” 3. Tư tưởng về đại đoàn
kết vẫn tiếp tục được Người cụ thể hóa hơn ở trong những cụm từ như là: “đại
đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta
đoàn kết”. Tuy nhiên cách diễn đạt có thể khác, nhưng mà nội hàm của các khái
niệm ở trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng khối đại đoàn kết là của
toàn thể nhân dân Việt Nam.
Như vậy, khối đại đồn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đại
đồn kết các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, mọi giới tính, mọi lứa tuổi, mọi vùng
miền đất nước, đoàn kết mọi thành viên ở trong đại gia đình dân tộc Việt Nam
cho dù có sống trong nước hay là định cư ở nước ngoài thành một khối vững
chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
Hai là, Hồ Chí Minh chỉ ra vai trị của đại đồn kết dân tộc đối với cách
mạng Việt Nam.
Khi đề cập tới vị trí, và vai trị của đại đồn kết dân tộc, Người khẳng định,
đại đồn kết dân tộc chính là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, và là
vấn đề sống cịn, quyết định đến sự thành cơng của cách mạng. Đó chính là
chiến lược tập hợp mọi lực lượng với mục đích hình thành và phát triển sức
mạnh to của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và của nhân
dân ta. Theo Hồ Chí Minh thì đồn kết làm nên sức mạnh và cũng là cội nguồn
mọi thành cơng: “Đồn kết là một lực lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục
khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành cơng,
thành cơng, đại thành cơng”4.
Đại đồn kết dân tộc trong tư tưởng của Người không đơn giản chỉ là
phương pháp tổ chức và tập hợp lực lượng, mà ở cấp cao hơn chính là một bộ
phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt ở trong đường lối chiến lược cách mạng,
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là
3
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244.
4
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.119
9
Tieu luan
một thủ đoạn chính trị”5. Có thể nói đồn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết,
sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời cũng chính là tơn chỉ, mục
đích và là nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng tới và đạt tới.
Với Người, đại đồn kết khơng là một chủ trương, chiến lược xuất phát từ
chính nguyện vọng, từ chính ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà chính
là sự đúc kết những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng
tiến hành. Nếu xuất phát từ nhu cầu lực lượng lãnh đạo cách mạng, đại đoàn kết
dân tộc sẽ dừng lại là một thủ đoạn chính trị nhằm đạt được mục đích, ý đồ nhất
định. Ngược lại, nhìn nhận đồn kết dân tộc như là địi hỏi tự thân, khách quan
của quần chúng nhân dân ta ở trong cuộc đấu tranh tự giải phóng thì đại đồn
kết chính là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó, trong tiến trình lãnh
đạo cách mạng, Người u cầu khơng được có bất cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng khối đại đồn kết dân tộc khơng chỉ
dừng lại trong nhận thức mà nó cịn được cụ thể hóa ở trong mọi bước đi, giai
đoạn phát triển của cách mạng, Hồ Chí Minh có nói: “Ta đồn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước
nhà”.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước chính là một
cơng việc hết sức hệ trọng, to lớn và rất khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ thành cơng
khi tập hợp được sức mạnh đồn kết tồn dân tộc vì chỉ có đồn kết mới tạo ra
sức mạnh, tạo ra lực lượng hùng hậu để có thể đương đầu và chiến thắng mọi kẻ
thù. Thực tiễn thì cách mạng đã trả lời giữa đoàn kết và thành cơng nó có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau bởi những phạm vi, mức độ và quy mô của thành
công trước hết thì phụ thuộc vào quy mơ và mức độ của khối đại đoàn kết. Là
lãnh đạo tối cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhận thức
sâu sắc đồn kết khơng chỉ tạo được sức mạnh mà cịn là vấn đề có ý nghĩa
quyết định tới sự sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống
5
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244
10
Tieu luan
những kẻ thù. Để lý giải một nước Việt Nam nghèo, lạc hậu có thể đương đầu và
đánh bại tên thực dân đầu sỏ có ưu thế về mọi mặt, Người nói: “Tồn dân Việt
Nam chỉ có một lịng: Quyết khơng làm nơ lệ, Chỉ có một ý chí: Quyết khơng
chịu mất nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất
và độc lập cho tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường
đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào,
đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại” 6. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam đã có lời giải đáp, có đồn kết thì có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn và
càng khó khăn bao nhiêu thì ta lại cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững
chắc hơn bấy nhiêu. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm tới việc đồn kết vì đoàn kết sẽ là mấu chốt thắng lợi và rút ra một bài
học lớn đồng thời cũng là quy luật mang tính sống cịn của dân tộc ta: “Sử ta dạy
cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết mn người như một thì nước ta độc
lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”7.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là tồn
dân trong đó lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức làm nền tảng.
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ơng ta: “Nước
lấy dân làm gốc”; đồng thời cũng dã thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng
là ngày hội của quần chúng”, Người đã đi tìm sức mạnh và cẩm nang thần kì của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước: “Trong bầu trời khơng
có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn
kết của nhân dân”8. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân có một nội hàm rất rộng.
Hồ Chí Minh dùng các khái niệm để chỉ tổng thể mọi công dân nước Việt Nam,
được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí
Minh là đoàn kết tất cả tầng lớp nhân dân, giai cấp, chính đảng, đồn thể, dân
6
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.178-179; tr.336
7
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.256;168
8
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.119-120.
11
Tieu luan
tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây đã lầm đường lạc lối nhưng biết hối
cải, quay về với chính nghĩa dân tộc. Đồn kết trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
là đồn kết rộng rãi và tranh thủ tất cả những lực lượng, bộ phận có thể tranh
thủ. Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi dựa trên điểm tương đồng chính là: “Bất kỳ ai
mà thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người
đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đồn kết với họ”.
“Ai có tài, có sức, có đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đồn kết với họ”9 .
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc phải dựa trên cơ sở lấy lợi ích tối
cao dân tộc và quyền lợi cơ bản nhân dân lao động để làm nền tảng, kết hợp hài
hồ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và
dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục
khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà
đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác”, và sau này Hồ Chí Minh bổ sung thêm nền tảng của khối đại đồn kết
dân tộc chính là liên minh giữa cơng nhân, nơng dân cùng với trí thức: “Trong
sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí
óc có một vai trị quan trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí cần phải đồn kết
chặt chẽ thành một khối”10.
Như vậy, trong tư tưởng của Người ln có sự phối hợp hài hịa và nhất
qn giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy
liên minh công nơng làm gốc, khơng một lúc nào có thể qn đi lợi ích của giai
cấp song Hồ Chí Minh cũng có tư duy vượt trước khi khẳng định chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của cách mạng Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ
phát huy khi tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cả dân tộc chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn và trở thành lực lượng
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.119-120.
9
10
12
Tieu luan
vô địch khi được tổ chức thành khối chặt chẽ, được giác ngộ sâu sắc về mục tiêu
và lý tưởng, được định hướng bởi đường lối chính trị đúng đắn, nếu khơng thì
cho dù quần chúng nhân dân ta có số đơng tới hàng triệu người cũng thì cũng
chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh.
Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Người đã rất
lưu ý tới công tác tập hợp quần chúng và đưa họ vào các tổ chức yêu nước phù
hợp với đặc điểm từng giới tính, lứa tuổi, giai cấp và tôn giáo... Bao trùm tất cả
là tư tưởng muốn thu nạp được đông đảo các tầng lớp nhân dân vào Mặt trận
dân tộc thống nhất. Mặt trận cần thu nạp được đơng đảo quần chúng nhân dân,
người ít nhiều có tinh thần yêu nước, Mặt trận cần là một tổ chức rộng rãi. Rộng
rãi nhằm để thực hiện khối đồn kết được nhiều tổ chức, nhiều lực lượng khơng
phân biệt giàu nghèo, đảng phái, xu hướng chính trị... Hồ Chí Minh có nói: “Mặt
trận bao gồm tất cả những người u nước, khơng phân biệt khuynh hướng
chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi tác” 11. Do đó Mặt
trận khơng chỉ thu hút được mọi tầng lớp lao động nghèo khổ, bị áp bức, mà cịn
thu hút được tầng lớp trên khơng thuộc nhân dân lao động và một bộ phận phân
hóa trong hàng ngũ của kẻ thù. Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh chủ
yếu của khối đại đồn kết chính là khối liên minh cơng nơng, Người nói: “Lực
lượng chủ yếu trong khối đồn kết dân tộc là cơng nơng, cho nên liên minh công
nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”12.
Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công nông đã phản ánh về mặt tổ
chức xã hội mối quan hệ biện chứng dân tộc và giai cấp. Ở đó, tách biệt hoặc
nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận hoặc là liên minh công nông đều
không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng, khơng chuẩn với ngun
tắc đồn kết của Hồ Chí Minh. Tuyệt đối hóa vai trị, vị trí liên minh cơng nơng,
hạ thấp vai trị Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan. Ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một
chiều vai trị của Mặt trận, xem nhẹ liên minh cơng nơng sẽ dẫn tới hữu khuynh,
11
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.331; tr.130
12
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.417
13
Tieu luan
vơ chính phủ. Hồ Chí Minh từng nói rằng: “Trong chính sách đồn kết cần phải
chống hai khuynh hướng sai lầm: cơ độc, hẹp hịi và đồn kết vơ ngun tắc”13 .
Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam được
xác định là thành viên, bởi Đảng là bộ phận ưu tú nhất giai cấp công nhân. Tuy
nhiên, Đảng khơng là một thành viên bình thường, mà chính là người lãnh đạo
khối đại đồn kết tồn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng chính
là tun truyền, giáo dục để quần chúng có thể giác ngộ được sự cần thiết phải
đoàn kết lại; chọn lựa các hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để thu hút
rộng rãi lực lượng yêu nước, tiến bộ trong dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn
kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ phù
hợp lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của dân. Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho
mình, mà phải được nhân dân thừa nhận: “Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo
của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”14.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đồn kết dân tộc chính là
tồn dân, trong đó lấy liên minh cơng nhân – nơng dân – trí thức để làm nền
tảng được tập hợp trong một Mặt trận thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo Đảng.
Thực tiễn đã trả lời chỉ ở trên cơ sở tn thủ ngun tắc này thì đại đồn kết dân
tộc mới có sức sống bền vững và có thể trường tồn.
Bốn là, Hồ Chí Minh chỉ ra phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao dân tộc và
các lợi ích chính đáng nhân dân lao động. Thực tiễn lịch sử cũng đã xác nhận,
suy cho đến cùng thì mối quan hệ giữa các tầng lớp nhân dân trở nên bền chặt
hay khơng là do chính vấn đề về lợi ích quy định. Ngược lại khi khơng thỏa mãn
13
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.256;168
14
14
Tieu luan
những vấn đề tối thiểu về lợi ích thì mọi khẩu hiệu về đoàn kết cũng chỉ là các
khẩu hiệu trống rỗng. Tuy vậy, mối quan hệ lợi ích giữa giai cấp, tầng lớp vẫn
luôn là vấn đề vô cùng phức tạp, chồng chéo, luôn chứa những yếu tố thống
nhất, mâu thuẫn và không ngừng vận động biến đổi cùng đời sống thực tiễn.
Là một đất nước có một cơ cấu xã hội – giai cấp phong phú và mang nhiều
nét đặc thù của một xã hội nửa thực dân phong kiến, Người hiểu sâu sắc về nhận
thức, thái độ của mỗi tầng lớp nhân dân là hết sức khác nhau, Hồ Chí Minh nhận
định: “Cố nhiên, dân chúng khơng nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có
nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến,
có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu”15. Do chính mơi trường và hồn cảnh sống
khác nhau đó cho nên là nhận thức và hành động khơng nhất qn và thậm chí
có xung đột về những vấn đề lợi ích. Nhằm mục đích quy tụ sức mạnh của cả
dân tộc để hướng vào mục tiêu chung, tạo nên hợp lực trong cơng cuộc đấu
tranh và giải phóng đất nước, Người đã tìm kiếm, trân trọng và phát huy các yếu
tố tương đồng, thống nhất để khắc chế, giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn. Yếu tố tương đồng để quy tụ sức mạnh của cả dân tộc phải phản ánh
được khát vọng cháy bỏng của người Việt Nam u nước, đó chính là tinh thần:
“Hy sinh tiền bạc, thời gian và cả máu vì lợi ích các dân tộc bị áp bức; tóm lại,
phải vị tha và khơng ích kỷ, phải tn thủ theo phương châm “TỔ QUỐC TRÊN
HẾT” ở mọi nơi và mọi lúc”16.
Không chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu chung, đối với Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc chỉ mang giá trị khi nó gắn liền với tự do, hạnh phúc, cơm no áo ấm
của người dân, Hồ Chí Minh nói: “Nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” 17 và “Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”18 . Vì thế, trong những
ngày đấu tranh gian khổ của nhân dân, Người rất chăm lo tới đời sống nhân dân
15
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.178-179; tr.336
16
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.513
17
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.64; tr.175; tr.65
18
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.64; tr.175; tr.65
15
Tieu luan
với phương châm là vừa kháng chiến vừa kiến quốc, từng bước từng bước nâng
cao đời sống vật chất và quyền tự do dân chủ cho đông đảo nhân dân. Và Người
luôn phấn đấu làm cho dân ta thấy được những giá trị và từng bước được hưởng
quyền tự do dân chủ. Đông thời Người cũng căn dặn, mọi đường lối chủ trương
của chính quyền phải phản ánh được những tâm tư nguyện vọng và lợi ích của
quần chúng nhân dân, chính quyền phải thật sự vì dân, phấn đấu cho quyền lợi
của nhân dân: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
ta phải hết sức tránh”19.
Đại đoàn kết được xây dựng dựa trên cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền
và giáo dục đối với quần chúng nhân dân. Để tăng cường khối đại đoàn kết,
Người rất chú trọng tiến hành tuyên truyền, vận động, giáo dục. Công tác tuyên
truyền theo Hồ Chí Minh là một khoa học, nghệ thuật cách mạng, do đó các tổ
chức và cán bộ cách mạng phải khơng ngừng tìm tịi chọn nội dung và hình thức
phù hợp để truyền tải đường lối của Đảng một cách sâu rộng tới dân.
Trong công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, Người đặc biệt lưu ý
giải quyết hai mối quan hệ có tính chất nền tảng và quyết định tới sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân, đó chính là quan hệ giữa dân tộc trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam và quan hệ giữa tôn giáo. Người đã đấu tranh kiên trì và vơ
cùng bền bỉ để có thể xóa bỏ những hiềm khích và xây dựng khối đoàn kết các
dân tộc, trên cơ sở lợi ích chung thống nhất của quốc gia; đồn kết gắn với thực
hiện quan hệ dân tộc bình đẳng, tơn trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; đoàn
kết dựa trên cơ sở tơn trọng văn hóa, phong tục, tập qn của nhau, kiên quyết
chống tư tưởng dân tộc lớn: “Đảng và Chính phủ ta ln ln kêu gọi các dân
tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt
chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
Xóa bỏ mặc cảm, khoan dung là phương thức quan trọng xây dựng đại
đoàn kết dân tộc. Trải qua gần 100 năm thống trị của đế quốc nước ngồi, và xa
19
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.64; tr.175; tr.65
16
Tieu luan
hơn là hàng nghàn năm phong kiến với những âm mưu thủ đoạn “chia để trị”
của thực dân và thậm chí do những sự sai lầm ấu trĩ của cán bộ cách mạng nên
giữa một bộ phận các dân tộc, tơn giáo, giai cấp. Muốn xây dựng khối đại đồn
kết, muốn tập hợp, động viên và phát huy sức mạnh của tất cả các lực lượng,
theo Người tất yếu phải san bằng những hố sâu ngăn cách đó: “Cần phải xóa bỏ
hết thành kiến, cần phải thật thà đồn kết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ, để cùng phục vụ nhân dân”.
Muốn xóa bỏ được những thành kiến, theo Hồ Chí Minh, cần phải có một
lịng bao dung, biết nâng niu, trân trọng và khuyến khích mặt tốt, mặt thiện trong
mỗi con người để khơi dậy phần tốt được nảy nở như hoa mùa xuân, và phần
xấu bị héo mòn đi để họ trở về với cộng đồng dân tộc. Đối với những người có
thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc, chứ không phải đập cho tơi
bời. Chính sách khoan hồng đại độ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là xóa bỏ
những hận thù, định kiến và mặc cảm quá khứ trên cơ sở khai thác những yếu tố
“tương đồng”, tôn trọng những yếu tố “dị biệt”. Trong nhận thức của Người, có
tấm lịng độ lượng sẽ có được sự cảm hóa sâu sắc: “Sơng to, biển rộng, thì bao
nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa
cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng của nó hẹp nhỏ...” 20. Như vậy,
khẳng định, mọi tư tưởng, mọi sự sáng tạo của Hồ Chí Minh đều xuất phát từ
lịng u thương, kính trọng và tin tưởng con người, tin tưởng nhân dân. Hồ Chí
Minh từng nói rằng đã là người Việt thì ai cũng có ít nhiều lịng u nước. Với
tấm lịng nhân ái bao la, lịng tin vơ hạn với dân, Người đã giành tình yêu
thương và sự tin tưởng vào khả năng tiến bộ con người, biết khơi dậy trong họ
khả năng tiềm tàng, thức.
Trên thực tế, quan điểm khoan dung, độ lượng và niềm tin vào nhân tính
con người đã giúp Hồ Chí Minh: “Đồn kết tất cả những người thật sự u Tổ
quốc, u hịa bình, khơng phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng
lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào. Trên nền tảng vững mạnh là lực
20
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.331; tr.130
17
Tieu luan
lượng vô địch của tối đại đa số nhân dân ta (tức là giai cấp công, nông), với một
cương lĩnh rộng rãi và một chính sách đúng đắn, với sự đồn kết nhất trí của tất
cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng – Mặt trận nhất định sẽ thành
công trong việc đánh tan âm mưu Mỹ và bè lũ tay sai của chúng và thực hiện
hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước Việt Nam yêu quý của
chúng ta”21.
2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc
Sức mạnh của một cộng đồng được tạo nên bởi các thành viên trong cộng
đồng đó bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau
cùng phát triển; các thành viên hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung hoặc chấp
nhận, tơn trọng lợi ích riêng của các thành viên khác, khơng để ảnh hưởng đến
lợi ích chung.
Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đảng ta qua các kỳ đại
hội được thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn
dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam; là động lực và nguồn sức mạnh to lớn, là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ba là vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của
yếu tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa
21
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.119-120.
18
Tieu luan
VI là: “Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực
của nhân dân và kết hợp hài hồ các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ
công dân”.
Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố
quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đồn kết tồn dân tộc. Chủ nghĩa
u nước ln ln là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
2.3 Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở nước ta hiện nay
Đối với gia đình
Gia đình là nơi sinh ra, lớn lên và giáo dục của mỗi người. Đồng thời, gia
đình cịn là nơi lưu giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, trải
qua bao thiên niên kỷ truyền thống tốt đẹp của dân tộc như yêu nước, yêu nước,
nghĩa khí, gian khổ, sáng tạo trong lao động sản xuất; Kiên trì vượt qua bao khó
khăn, thử thách; Trung thành, hiếu thảo, kính trên nhường dưới; Yêu thương và
quan tâm lẫn nhau; Ý chí kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm,... đã
được các thế hệ gia đình Việt Nam gìn giữ, truyền từ đời này sang đời khác và
tiếp tục tiếp thu những giá trị bổ sung, những giá trị tốt đẹp mới làm giàu thêm
giá trị tinh thần của gia đình Việt Nam. Chính vì những giá trị cao đẹp đó, nếu
muốn xây dựng một quốc gia thống nhất, chúng ta phải bắt đầu từ nơi gần gũi
nhất với chúng ta, đó là gia đình. Xây dựng một đơn vị gia đình tuyệt vời là điều
đầu tiên chúng ta phải làm là dành những điều tốt nhất của chúng ta cho những
người thân yêu của chúng ta.
Trong cuộc sống chúng ta thường mắc phải một sai lầm: “Đối xử với người
lạ bằng sự quan tâm, chăm sóc, tỉ mỉ, nhã nhặn, nhưng với người thân nhất trong
gia đình thì ln cáu kỉnh, nói năng bất lịch sự. Trên đời này, ngoại trừ những
người thân trong gia đình, khơng ai u thương chúng ta vơ điều kiện, cho dù
chúng ta có làm tổn thương họ như thế nào đi chăng nữa, họ vẫn sẽ bao dung
chúng ta, âm thầm bảo vệ chúng ta. Các thành viên trong gia đình, những người
19
Tieu luan
quan trọng nhất trong cuộc đời, là những người chúng ta quan tâm và cần được
đối xử với sự tôn trọng tối đa. Nếu bị thương ở ngoài hay trong cơng việc, có
chuyện gì khơng vui đừng mang về nhà, trên đường về nhà hãy giải quyết hết
những cảm xúc tiêu cực khi đứng ở cửa, hít thở sâu ba cái, bỏ lại tất cả. Những
bực bội bên ngoài, hãy mỉm cười, mở cửa đi về, khiến gia đình êm ấm, điều này
sẽ giúp các thành viên trong gia đình bạn cảm thấy hạnh phúc.
Sự thấu hiểu và lòng trắc ẩn cũng là điều quan trọng. Một phần giúp chúng
ta xây dựng khối đại đồn kết trong gia đình. Khơng ai có một cuộc sống dễ
dàng, ai cũng có lúc gặp khó khăn, giận dữ hay sợ hãi. Trong gia đình, bạn phải
biết suy nghĩ của mọi người, hiểu và thơng cảm với bệnh tật của họ, chăm sóc
họ tốt hơn, sử dụng nhiệt để xua tan giá lạnh. Gia đình là nơi để nói lời u
thương, khơng phải là nơi để nói điều tốt và điều xấu. Đơi khi đối mặt với khó
khăn, thất bại chúng ta hãy ở bên cạnh gia đình để vượt qua, chúng ta cùng nhau
giải quyết chúng, chỉ trích và khơng ngừng phàn nàn, chúng ta khơng hiểu hay
thơng cảm điều gì đã gây ra mâu thuẫn trong gia đình càng phát triển thì mối
quan hệ trong nhà càng trở nên căng thẳng. Giữa các thành viên trong gia đình,
nếu có thêm sự thấu hiểu và cảm thơng với những khó khăn của mỗi người khi
quan tâm đến người khác thì gia đình sẽ càng thêm tràn ngập tình yêu thương và
đầm ấm.
Đối với nhà trường
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, việc xây dựng đoàn kết nội bộ là vấn
đề then chốt tạo nên sức mạnh của tập thể và góp phần to lớn vào việc thực hiện
hoàn thành tốt các nhiệm vụ năm học. Vì đồn kết mới có thể thành công, như
lời Bác dạy.
Trước hết mỗi thành viên trong nhà trường phải lập trường tư tưởng vững
vàng, phải tự mình quyết định, đấu tranh vì mục đích thực sự. Đó là một cuộc
đấu tranh khơng phải vì thắng thua, mà là vì học tập, rèn luyên bản thân. Khi
được như vậy, sự cạnh tranh trong học tập không biến thành sự ganh đua, cuộc
20
Tieu luan
chiến đầy đố kỵ. Khi mọi người có chung lý tưởng thì tất cả mọi người sẽ làm
việc cùng nhau, chia sẻ, thơng cảm và tử tế với nhau.
Phê bình và tự phê bình, nhằm từng bước loại bỏ những yếu kém, hạn chế,
giúp nhau cùng đi lên. Tuy nhiên, ý kiến của chúng cần chân thành, đúng lúc,
đúng chỗ để bạn bè có thể lắng nghe và khắc phục. Khi mỗi chúng ta biết đặt lợi
ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, xem lợi ích của tập thể cũng như của mình,
biết đâu là đúng, đâu là sai và biết lắng nghe để tự sửa chữa. Đó là cơ sở để xây
dựng tình đồn kết bền chặt hơn bao giờ hết, như dân gian ta có câu nói được
lưu truyền qua nhiều thế hệ:
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên núi cao”.
Hội đồng trường và ban giám hiệu có vai trị rất lớn trong việc xây dựng
khối đoàn kết nội bộ, điều này được thể hiện trong mối quan hệ giữa ban giám
hiệu và giảng viên. Đó là sự gần gũi, cảm thơng, góp ý chân thành và cởi mở,
không áp đặt từ trên xuống dưới. Các thầy cô giáo và cán bộ quản lý cần biết
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, giáo viên nhà trường. Sự thoải mái
trong suy nghĩ sẽ tạo cảm hứng cho mọi người và yêu thích cơng việc của mình.
Một vấn đề hết sức quan trọng xây dựng khối đoàn kết nội bộ là nâng cao tinh
thần bình đẳng trong trường học, tạo cơ hội bình đẳng cho học sinh, mỗi cá nhân
trong tập thể, minh bạch tài chính.
Ngồi ra, ngay từ đầu năm học, mỗi chi đoàn phải xây dựng kế hoạch hoạt
động năm của mình và phân cơng chức vụ cụ thể cho từng tháng, từng thời kỳ.
Việc lập kế hoạch phải sát thực tế, khơng mơ hồ, chung chung, có sự phân cơng
rõ ràng, phân công đúng người, đúng việc tùy theo năng lực, sở trường của mỗi
cá nhân thì hiệu quả cơng việc mới cao. Thực hiện nghiêm túc các hoạt động
đánh giá thường xuyên để phát huy những mặt mạnh và khắc phục những hạn
chế. Cần phải thừa nhận những khiếm khuyết chưa được xác định và chỉ ra
chúng một cách công khai. Sự rõ ràng trong công việc khiến mỗi người có trách
nhiệm hơn với cơng việc và tránh được tình trạng thiếu sót, trễ việc chồng chất.
21
Tieu luan
Một tập thể đoàn kết, biết trách nhiệm với cộng đồng và biết yêu thương, giúp
đỡ lẫn nhau thì chắc chắn tập thể này sẽ vững mạnh và xây dựng thành cơng một
khối đại đồn kết trong nhà trường.
Đối với xã hội
Mọi người phải có ý thức giáo dục, tu dưỡng đạo đức: gương mẫu phát huy
phẩm chất, thực hiện nhiệm vụ Đảng và chính quyền giao. Sống thanh đạm, đạm
bạc, ngay thẳng, chính trực, trung thực, cơng chính, bảo vệ đường lối, quan điểm
của Đảng, bảo vệ người dân tốt, trung thực, khiêm tốn, không bao che cho sai
lầm, phải ln cảm thấy rằng mình đang giữ được sự đoàn kết, thống nhất cao
nhất trong tập thể, trong khối đại đoàn kết dân tộc. Phải cố gắng phát triển trong
tổ chức, là tập thể, tôn trọng nguyên tắc và luật pháp, không kéo bè kéo lũ gây
mất trật tự, bất đồng nội bộ. Phải có ý thức tự phê bình và phê bình; Chỉ trích
những phát biểu vì lý do cá nhân; Động viên các thành viên trong gia đình nêu
cao đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hóa. Để phát huy được khối đại
đồn kết dân tộc hiện nay, mỗi cá nhân không chỉ phải rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức, mà cịn phải khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp
vụ.
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận này chúng ta nhận thấy theo Mác–Lênin dân tộc là sản
phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Mác và Ăngghen đã đặt nền
móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học. Chúng ta
còn nhận biết được dân tộc thơng qua các đặc trưng như: có cùng một phương
thức sinh hoạt kinh tế, các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các
thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc cho cộng đồng dân tộc, có
thể tập trung cư trú trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc hoặc cư trú
đan xen với nhiều dân tộc anh em, vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng
gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước, tạo nên bản sắc riêng của nền
văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc.
22
Tieu luan