TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN HỌC PHẦN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Phân tích thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới của Việt Nam.
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Ngọc Diệp
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
Mã lớp học phần: 2177HCMI0131
Hà Nội, 2021
Tieu luan
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHĨM 2
Mơn học: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Giáo viên phụ trách: Cơ Nguyễn Ngọc Diệp
Đề tài : “Phân tích thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới của Việt Nam”
Các thành viên trong nhóm:
11.
Nguyễn Trần Mai Chi
12.
Hồng Thị Chiến
13.
Nguyễn Thị Hồng Diệp
14.
Nguyễn Thị Thùy Dung
15.
Phạm Trần Phương Duyên
16.
Bùi Thị Giang
17.
Lê Nguyễn Hương Giang
18.
Lê Thị Hương Giang
19.
Tiêu Thị Giang
20.
Nguyễn Thị Hà
Cụ thể:
-Ngày 20/09/2021: Cả nhóm tìm hiểu đề tài và đưa ra ý kiến về đề tài thảo luận.
-Ngày 26/09/2021: Phân cơng cơng việc cho cả nhóm. Cả nhóm làm đề tài và khai thác
đề tài thảo luận.
Làm Word: Phạm Trần Phương Duyên
Làm Powerpoint: Lê Nguyễn Hương Giang
Thuyết trình: Nguyễn Trần Mai Chi
Nhóm phản biện: Cả nhóm
2
Tieu luan
-Ngày 29/10/2021: Chỉnh sửa và đưa ra bản Word và Powerpoint cuối cùng cho đề tài
thảo luận.
Nhận xét: Kết thúc thảo luận, các thành viên trong nhóm hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao và nộp đúng hạn. Các thành viên đồn kết, tích cực cho ý kiến giúp bài thảo luận
hồn thiện hơn. Mọi người đều có trách nhiệm làm việc với thái độ nghiêm túc và đạt
hiệu quả công việc tốt nhất.
Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2021
Nhóm trưởng
Chi
Nguyễn Trần Mai Chi
3
Tieu luan
BẢNG ĐIỂM THẢO LUẬN NHĨM 2
Lớp HP: 2177HCMI0131
Nhóm: 2
Nhóm trưởng: Nguyễn Trần Mai Chi
Điểm TB nhóm:
Điểm tổng nhóm:
STT
Họ và tên
Lớp HC
Chức vụ
11
Nguyễn Trần Mai Chi
K55DK3
Nhóm trưởng
12
Hồng Thị Chiến
K55DK1
Thành viên
13
Nguyễn Thị Hồng Diệp
K55DK2
Thành viên
14
Nguyễn Thị Thùy Dung
K55DK1
Thành viên
15
Phạm Trần Phương Duyên
K55DK1
Word
16
Bùi Thị Giang
K55DK2
Thành viên
17
Lê Nguyễn Hương Giang
K55HC1
Thành viên
18
Lê Thị Hương Giang
K55HC1
Thành viên
19
Tiêu Thị Giang
K55DK3
Thành viên
20
Nguyễn Thị Hà
K55DK2
Thành viên
Điểm thảo luận
Ngày 14 tháng 10 năm 2021
Nhóm trưởng
Chi
Nguyễn Trần Mai Chi
4
Tieu luan
MỤC LỤC
Lời mở đầu
I. Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kì đổi mới giai đoạn 1975-1986…………….7
II. Thành tựu về kinh tế Việt Nam trong 30 năm đổi mới..............................................8
1. Nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới nền kinh tế của Đảng (từ tháng 12 năm
1986)..........................................................................................................................8
2. Tư duy kinh tế của Đảng qua các kỳ đại hội.........................................................12
3. Thành tựu kinh tế trong 30 năm đổi mới..............................................................16
III. Những vấn đề tồn tại trong quá trình đổi mới nền kinh tế của Đảng ta.................17
và phương hướng giải quyết........................................................................................17
1. Những vấn đề tồn tại trong quá trình đổi mới nền kinh tế của Đảng ta..............18
2. Phương hướng giải quyết...................................................................................20
Kết luận
Tài liệu tham khảo
5
Tieu luan
Lời mở đầu
Cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới có nhiều biến đổi
sâu sắc. Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 đã làm cho nền kinh tế thế giới lâm
vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng. Đến đầu thập kỉ 90, khi các nước
TBCN kịp thời điều chỉnh, thực hiện các chính sách cải cách kinh tế xã hội kết hợp sử
dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ nên đã vượt qua được những
khó khăn, kinh tế dần hồi phục và có bước tăng trưởng đáng kể. Trong khi đó, nhiều
nước XHCN cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, kinh tế bị trì trệ trầm trọng.
Nhờ học hỏi từ thành công của các nước TBCN, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tiến
hành cải tổ, cải cách và đổi mới để thốt khỏi tình trạng khủng hoảng.
Ở Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh những
thành tựu đã đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước, chúng ta cũng gặp khơng ít
khó khăn, thách thức. Chịu ảnh hưởng của khủng hoảng 1973 và hậu quả của chiến tranh;
bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới … đã làm cho tình hình
kinh tế - xã hội nước ta ngày càng đi xuống. Bên cạnh đó, kế hoạch 5 năm (1976 – 1980)
do Đảng đề ra đã vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan,
nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai
cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mơ hình kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình kinh tế-xã hội rơi vào trì trệ, khủng
hoảng và mất cân đối lớn.
Cuối những năm 70, ở một số địa phương bước đầu có những tìm tịi, thử nghiệm
cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua
những thành cơng bước đầu đạt được trong q trình tìm tịi, thử nghiệm đó, Đảng và
nhân dân ta càng nhận thấy sự cần thiết đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới
cách làm nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, trong Đại
hội VI năm 1986, Đảng khẳng định đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự
nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống cịn. Việc đề ra đường lối đổi mới tồn diện
đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo và phong
cách của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
6
Tieu luan
I.
Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kì đổi mới giai đoạn 1975-1986
Đại thắng mùa xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta kết
thúc thắng lợi đã mở ra một thời kỳ phát triển mới, một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên của
độc lập, tự do, hịa bình, phát triển và thống nhất để cả nước cùng đi lên XHCN.
Trong giai đoạn này, cũng giống như các nước XHCN khác, Việt Nam thực hiện
công cuộc xây dựng đất nước theo mơ hình XHCN được quan niệm lúc bấy giờ. Cơ cấu
quản lý kinh tế của nước ta là tập trung bao cấp. Theo đó, nền kinh tế tồn tại là nền kinh
tế mệnh lệnh, chỉ huy. Đảng và Nhà nước chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế: thành
phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế tư nhân
không được phép tồn tại và hoạt động.
Nền kinh tế của một nước phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất. Sự phát triển của nền kinh tế cũng phản ánh sự phù hợp của hai yếu tố trên. Ở
nước ta giai đoạn này, trong khi lực lượng sản xuất cịn mang tính chất phát triển không
đồng đều, sản xuất nhỏ thủ công là phổ biến, trình độ phân cơng lao động và xã hội hố
rất thấp thì chúng ta lại xây dựng nền kinh tế mệnh lệnh, chỉ huy làm triệt tiêu động lực
phát triển kinh tế, không khai thác được năng lực sản xuất xã hội. Nhà nước chỉ ưu tiên,
chú trọng bảo hộ cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, coi hai thành phần kinh tế
trên là kinh tế XHCN, còn các thành phần kinh tế khác bị coi là mầm mống của CNTB
nên bị xoá bỏ hoàn toàn.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976, Đảng ta đã xác định
đường lối kinh tế dựa trên đường lối phát triển chung của đất nước, chủ trương kinh tế
được xác định: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành một cơ cấu công-nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát
triển kinh tế địa phương trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc
phòng”. Tuy nhiên, việc xác định mục tiêu chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ của
Đảng là chưa rõ ràng, hơn nữa, Đảng đã phạm sai lầm trong việc xác định bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về cải tạo XHCN, về việc áp dụng cơ cấu quản lý kinh tế.
Trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật cịn thấp kém, cơng nghệ lạc hậu, nước ta cịn dựa vào
sản xuất nơng nghiệp là chính, Đảng lại chủ trương phát triển công nghiệp nặng. Điều
này khơng phù hợp với tình hình thực tiễn. Chúng ta đã quá nóng vội trong những bước
7
Tieu luan
quá độ. Nước ta có xuất phát điểm là một nước tiền TBCN tiến lên CNXH, vì thế trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất rất thấp, cần phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ.
Nhưng chúng ta lại thực hiện ngay những đường lối phát triển như một nước có nền kinh
tế phát triển cao. Điều này là khơng đúng với quy luật phát triển của lịch sử.
Nhìn chung trong thời kỳ này, do ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, mước ta đã sao
chép rập khuôn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ cấu quản lý kinh tế của các nước
XHCN. Có thể nói, nền kinh tế mệnh lệnh – chỉ huy mang tính chất tập trung, quan liêu,
bao cấp là phù hợp với hồn cảnh có chiến tranh. Tuy nhiên, khi đất nước thống nhất,
thời kỳ quá độ được thực hiện trong phạm vi cả nước, nền kinh tế tập trung bao cấp này
khơng cịn phù hợp với hồn cảnh. Nó làm nảy sinh tình trạng quan liêu hố và điều này
đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ sự phát triển kinh tế, xã hội. Nền kinh tế đất nước
rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Cơng nghiệp yếu kém, manh mún thiếu
rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng… Nền nông nghiệp không đủ chi dùng trong
nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thường xuyên khiến cho
cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay
từ nước ngoài. Hậu quả nghiêm trọng phải kể đến là hai cuộc đổi tiền năm 1975 do Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện và năm 1978 trên toàn quốc để thực thi “đánh tư sản
mại bản” đã tiêu diệt vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng.
Nhận thấy được tình hình trên, tại Đại hội V (1982), Đảng ta chỉ ra những khuyết
điểm, hạn chế của giai đoạn 1976-1980, từ đó Đại hội đề ra đường lối phát triển kinh tế
trong chặng đường trước mắt giai đoạn 1981-1985. Giai đoạn này cần tập trung phát triển
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công
nghiệp nặng quan trọng trong cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý… Tuy nhiên, thời kỳ
1981-1985, kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là cơ bản ổn
định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Tổng điều chỉnh giá – lương –
tiền cuối năm 1985 đã làm nền kinh tế – xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng: tình
trạng lạm phát trầm trọng (cao nhất là năm 1985 với tỉ lệ lạm phát là 600%), sản xuất trì
trệ, hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống của người lao động rất khó khăn…
Quần chúng giảm lịng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Điều
này đã tạo áp lực lớn đối với sự phát triển của đất nước. Do đó, sự nghiệp đổi mới được
bắt đầu ngay từ áp lực này.
Các bước đột phá tháng 8/1979, tháng 6/1985 và tháng 8/1986 phản ánh sự phát
triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng
lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.
8
Tieu luan
Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng ta đã khẳng định 3 thánh tựu nổi bật: Một, thực
hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; Hai, đạt được những
thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; Ba giành thắng lợi to lớn trong sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách
mạng nước ta những nhân tố để tiếp tục tiến lên. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
vẫn còn tồn tại những sai lầm hạn chế, đó là khơng hồn thành các mục tiêu kinh tế - xã
hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài; sản xuất tang chậm và không ổn định; lạm phát tang cao và kéo dài. Đất
nước bị bao vây, cơ lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng. Để xảy ra những khuyết điểm trên là do nước ta xây
dựng từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận
nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến
tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh ở hai đầu biên giới đất nước làm nảy sinh những
khó khăn mới. Ngồi ra, nó cịn do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác
định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thơng; duy trì q lâu cơ chế tập trung quan lieu
bao cấp; bng lỏng chun chính vơ sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong
đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
II. Thành tựu về kinh tế Việt Nam trong 30 năm đổi mới
1. Nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới nền kinh tế của Đảng (từ tháng 12
năm 1986)
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Nam được
hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước đang cùng nhau đi lên chủ nghĩa xã
hội. Thực trạng kinh tế của miền Nam là một nền kinh tế hỗn hợp giữa sản xuất hàng hóa
nhỏ đa sở hữu do thời kỳ thực dân Pháp đô hộ để lại kết hợp với kinh tế thực dân kiểu
mới do Mỹ du nhập. Kinh tế miền Bắc sau 20 năm giải phóng (1954-1974), tuy đã có một
bước phát triển nhưng vẫn là một nền sản xuất nhỏ lạc hậu được xây dựng theo mơ hình
kinh tế của Liên Xơ cũ và một số nước XHCN Đông Âu. Từ những thực trạng kinh tế đó,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Các chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng trong 30
năm đổi mới được bắt đầu từ tháng 12/1986, được Đảng đề ra chính sách, chủ trương qua
từng các Đại hội Đại biểu toàn quốc.
Tháng 12/1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại
Hà Nội, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, đa cả nước tiến lên xã hội
9
Tieu luan
chủ nghĩa. Đặc biệt Đảng đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong quá
trình đổi mới kinh tế. Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Đảng lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm. Trên cơ sở phân tích, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư
duy lý luận trải qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ thực tiễn. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI
(tháng 12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới về quan điểm chính sách kinh tế:
Một là, chuyển đổi từ chính sách đơn thành phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều
thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu nhằm phát triển sản xuất và nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế.
Hai là, chuyển từ cơ chế Nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh
tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước mang tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh
doanh của từng doanh nghiệp.
Ba là, chuyển từ kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế mở cửa với thế
giới bên ngoài.
Kết quả là cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Lương
thực từ chỗ thiếu triền miên. Từ một nước phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo (1988) thì đến
năm 1989, khơng chỉ đã đáp ứng được nhu cầu mà nước ta còn dự trữ và xuất khẩu. Hàng
tiêu dung đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Đến năm 1991, lạm phát từ 774,7%
năm 1986 giảm xuống còn 67,1%. Từ Đại hội VI trở đi, nền kinh tế nước ra từ một nền
kinh tế thuần nhất trở thành một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế đó bao gồm: Kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực quốc doanh và khu vực tập thể,
cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó và các thành phần kinh tế
khác bao gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hố (thợ thủ cơng, nông dân cá thể, những
người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao là cơng tư hợp danh; kinh tế tự nhiên, tự
cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Tiếp đó, để phù hợp với đổi mới kinh tế, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991. Xuất phát từ đặc điểm
tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đại hội VII của Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới kinh tế:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng
suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân
10
Tieu luan
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước.
Sau 5 năm thực hiện (1991-1995), GPD đã đạt 8,2% và vượt mức kế hoạch đề ra
(5,5-6,5%), đã bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Lạm phát từ mức 67,1% của năm
1991 đã giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước tiếp tục được xây dựng theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (họp từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996),
Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược- xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa đã nhấn mạnh: “Nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đại hội Đảng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu
của kế hoạch 5 năm 1996-2000 về chủ trương đổi mới kinh tế:
Một là, thực hiện đồng thời ba mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền vững và có
hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao
hơn sau năm 2000.
Hai là, tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo Định hướng
Xã hội chủ nghĩa; phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp
tác từ thấp đến cao, triển khai thực hiện Luật hợp tác xã. Mở rộng các hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Phát huy
khả năng của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
Ba là, kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội- văn hoá, tập trung
giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ nét về thực hiện công
bằng và tiến bộ xã hội.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng,
an ninh
11
Tieu luan
Năm là, kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, tạo điều
kiện cho các vùng đều phát triển, phát huy được lợi thế của các vùng, tránh chênh lệch
quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng.
Như vậy, Đại hội VIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát
triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Đảng đã đưa ra những chủ
trương mới giúp đất nước vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực từ tháng
7-1997. Cho đến năm 2000, kinh tế đất nước tang trưởng khá với tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tang bình qn hang năm 7%. Nơng nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là
sản xuất lượng thực. Giá trị sản xuất cơng nghiệp bình qn hang năm tang 13,5%. Các
ngành dịch vụ, xuất và nhập khẩu đều phát triển.
Trong bối cảnh lịch sử đầu thế kỷ XXI, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi
mới đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 năm 2001) đã đề
ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005) và
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-2010) nhằm đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua là: “Đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng an
ninh”. Phát triển kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện
nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu
tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước và giải quyết tốt
các vấn đề xã hội
Chủ trương đổi mới nền kinh tế của Đảng lần thứ IX đó là định hướng phát triển các
ngành kinh tế và các vùng kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế là cốt lõi của chiến lược kinh tế,
là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả kinh tế quốc dân. Chủ trương đổi mới nền kinh
tế phát huy lợi thế để phát triển tạo nên thế mạnh của từng khu vực, từng vùng theo cơ
cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước. Tại Hội nghị
12
Tieu luan
trung ương V khoá IX ra nghị quyết: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển kinh tế tư nhân, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn; khẳng định kinh tế
tập thể với nhiều hình thức đa dạng. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm 20012006, mặc dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp, một số nước có những bất ổn về
chính trị, kinh tế giảm sút nhưng Việt Nam vẫm có nền kinh tế ổn định.
Vào thời điểm sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm. Đại hội X của
Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra những phương
hướng, mục tiêu và nhiệm vụ để phát triển nền kinh tế đất nước trong 5 năm tới (20062010). Đảng chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức, chủ
động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là thể hiện bước tiến về nhận thức của Đảng
ta, bắt kịp xu thế phát triển mới của thế giới.
Về các thành phần kinh tế, Đại hội X chỉ rõ có 5 thành phần, đó là: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo- là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Đại hội thông qua nhiều quyết
sách quan trọng và khẳng định chủ trương:” Mọi cơng dân có quyền tham gia các hoạt
động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp
luật bảo hộ”. Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ Đảng và quy định của Ban
Chấp hành Trung Ương. Ngồi ra Đại hội Đảng cịn đưa ra quyết định “Xóa bỏ mọi rào
cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp
của tư nhân phát triển khơng hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”
Về Chiến lược phát triển kinh tế 2011-2020, Đại hội Đảng lần thứ XI đã quyết định
mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại hố; chính trị xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, độc lập chủ
quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của việt Nam trên trường
quốc tế được nâng lên. Nhằm thực hiện tốt mục tiêu, Đại hội đã đưa ra những chủ trương
nhằm phát triển nền kinh tế như sau:
13
Tieu luan
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Hoàn
thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ; huy động và sử
dụng có hiệu quả cho mọi nguồn lực cho phát triển.
Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là
các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh trên thị trường. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất
hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đồng, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát
triển kinh tế tri thức. Phát triển bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế- xã hội.
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề cập đến rất nhiều vấn
đề, mới trên các lĩnh vực, mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình phát triển đất nước.
Trong thời kỳ này, Đảng ta đã nêu ra các chủ trương đổi mới nền kinh tế:
Đối mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế: đây là một chủ trương lớn,
quan trọng xuyên suốt từ Đại hội IX của Đảng. Về mục tiêu tăng trưởng, Đại hội XII chỉ
rõ: “Kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển theo
chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh”. Về mơ hình tăng trưởng đã
xác định: “Đổi mới mơ hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và
vốn đầu tư sang phát triển, đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư xuất khẩu thị trường trong
nước. Đổi mới mơ hình tăng trưởng của Đảng đó là lấy năng suất, hiệu quả sử dụng các
nguồn lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế vừa để phát triển kinh tế bền vững, vừa gắn
với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Đối với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế,
Đại hội XII khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ hiệu quả đề án tổng thể
cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu tại các ngành lĩnh vực”. Đó là việc xác lập cơ cấu lại
nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh lại cơ cấu công nghiệp tạo nền
tảng cho quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố…
Đối với nền kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đại hội XII
tiếp tục khẳng định: Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế
kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh, sử dụng các
nguồn lực của Nhà nước và cơng cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân trong phát triển kinh tế
14
Tieu luan
Đối với kinh tế tập thể, Đại hội XII xác định: Tiếp tục đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa
trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường
Về loại hình doanh nghiệp và kinh tế tư nhân: khuyến khích phát triển các loại hình
doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các
doanh nghiệp cổ phần. Hồn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát
triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động
lực quan trọng trong nền kinh tế.
Đối với bộ phận kinh tế nước ngoài, Đại hội XII xác định: Nâng cao hiệu quả thu
hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao cơng nghệ, trình độ quản lý và
thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước
ngồi có trình độ quản lý và cơng nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị tồn
cầu và có liên kết với doanh nghiệp trong nước
Nhìn chung, chủ trương đổi mới kinh tế của Đại hội Đảng toàn quốc từ tháng 12/1986 đã
khẳng định đường lối đổi mới kinh tế của Đảng đề ra qua từng thời kỳ là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với quy luật khách quan và đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân ta.
Đổi mới đã đem lại kết quả đáng khích lệ và tạo khả năng cho nền kinh tế phát triển tốt
hơn trong những năm tới.
2. Tư duy kinh tế của Đảng qua các kỳ đại hội
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối
cảnh cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối ngoại trên thế
giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Khi đó
Việt Nam vẫn đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đổi mới đã trở thành địi hỏi bức thiết của tình hình đất
nước. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ
chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch
toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng
quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có
tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương
trình kinh tế lớn là lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự
cụ thể hóa nội dung cơng nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thực
hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh
15
Tieu luan
tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ
chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu
củng cố quốc phòng và an ninh. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhận sự tồn
tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế, nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc
doanh, phát huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác.
Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh
cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải
tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ
động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội VII khẳng định nền kinh tế bước đầu chuyển biến tích cực, hình thành nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và
có cách nhìn tồn diện, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng nơng nghiệp, nơng thơn
nước ta qua những năm đầu đổi mới, Hội nghị Trung ương V (6-1993), đưa ra các chính
sách đối với nơng dân, nông nghiệp và nông thôn. Trung ương xác định ba mục tiêu chủ
yếu là: với ba mục tiêu chủ yếu: Xây dựng nơng thơn mới có kinh tế phát triển, đời sống
văn hóa phong phú, lành mạnh có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những
nhu cầu cơ bản của nơng dân; có hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ, bảo
đảm cơng bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị, giữ vững trật tự xã hội,
củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh. Điểm mới trong chủ trương này của Đảng là đề
ra các quan điểm, nhiệm vụ xây dựng, phát triển nơng nghiệp, nơng thơn tồn diện, khơi
dậy mọi tiềm năng, nội lực của nông dân. Trung ương đã đưa ra quan điểm, những
phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới, xây dựng và phát triển nơng
nghiệp, nơng thơn tồn diện. Hội nghị Trung ương VII (7-1994) chủ trương phát triển
công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Biến nước
ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ. Cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác
ngộ về giai cấp, vững về chính trị tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng
lực tiếp thu và sáng tạo cơng nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng hiệu quả.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trị của Mặt
trận và các đồn thể nhân dân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng, đưa đất nước sang thời kỳ mới đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của
16
Tieu luan
Đảng sau Đại hội VIII là coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hướng
mạnh về xuất khẩu, nhưng không được coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong
nước. Thực hiện cơ chế thị trường, nhưng Nhà nước phải quản lý và điều tiết theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ
cấu đầu tư. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả
các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính- tiền
tệ, thực hành triệt để tiết kiệm. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế- xã hội.
Trong tồn khóa IX, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp
tích cực đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và đã đạt nhiều kết quả
làm tăng thế và lực của đất nước. Hội nghị Trung ương III (Tháng 9 năm 2011) đã chỉ
đạo sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tạo bước
phát triển mới, tạo thế và lực cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua
10 năm (1991-2001), kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước tuy nhiên cịn
gặp nhiều hạn chế, yếu kém: quy mơ nhỏ, vốn ít, cơng nghệ sản xuất lạc hậu, hiệu quả
sức cạnh tranh yếu. Hội nghị Trung ương V (Tháng 3 năm 2002) đã thảo luận thống nhất
nhận thức coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát
triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung ương quyết định tiếp tục đổi mới cơ chế chính
sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Hội nghị Trung ương VII
(Tháng 3 năm 2003) đã thống nhất nhận thức coi đất đai là tài nguyên quốc gia vô cung
quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước,
quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Trung ương chủ trương tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng Nhà nước giao đất, cho thuế đất cho các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình và khơng
thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho cá nhân.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần, thảo luận và
quyết định nhiều vấn đề quan trọng. Tại Hội nghị Trung ương VIII (Tháng 7 năm 2003),
17
Tieu luan
Đảng ta ban hành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Trước tình hình mới, phát
triển kinh tế phải gắn với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia đối với biển, đảo
và vùng trời của Tổ quốc, địi hỏi nước ta cần có chiến lược biển tồn diện nhằm phát huy
mạnh mẽ hơn nữa vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trung
ương đặt mục tiêu Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên
cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ
cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm
nhìn dài hạn. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an
ninh, hợp tác quốc tế, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, hải đảo với phát triển
vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các
nguồn lực bên trong, tranh thủ hợp tác quốc tế thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài
theo nguyên tắc bình đẳng. Hội nghị Trung ương VI (Tháng 1 năm 2008) đã đưa ra
những chủ trương và giải pháp để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật
khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của
Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Gắn kết hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ mơi
trường. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
và hiệu quả quản lý Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong q
trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung
ương VII (2008) đã đánh giá tình hình lần đầu tiên đưa ra những quyết sách mạnh mẽ về
chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp, giải quyết đồng thời ba vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Các vấn đề này phải được giải quyết đồng bộ, gắn với q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển nơng nghiệp, nơng thơn và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, phát huy cao nội lực,
ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nơng nghiệp, nơng thơn.
Thực hiện chương trình tồn khóa XI, trong 5 năm (2011-2016), trước thực trạng hệ
thống kết cấu hạ tầng ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ, kém
tính kết nối, hiện đang là điểm nghẽn của quá trình phát triển, thực hiện một trong những
đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, Hội nghị Trung ương IV
(Tháng 1 năm 2012) chủ trương xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trung
ương nhấn mạnh quan điểm: quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
phải hiện đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành từng vùng và từng địa phương,
đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Huy động mạnh mẽ mọi nguồn
18
Tieu luan
lực của xã hội, đảm bảo lợi ích hợp lý để thu hút các nhà đầu tư vào phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội. Phát triển kết cấu hạ tầng là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi vừa là
nghĩa vụ của toàn xã hội, mọi người đều có trách nhiệm tham gia đóng góp. Về đổi mới
mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh
tế tri thức. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đẩy
mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hội nghị Trung ương IV khóa XII (Tháng 10 năm 2016) đã ra nghị quyết về tiếp tục
đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mịa
tự do thế hệ mới. kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa quan hệ
quốc tế vì lợi ích quốc gia- dân tộc. Hội nghị Trung ương V (Tháng 5 năm 2017) chủ
trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đây là
một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và
bền vững; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước.
Nhằm tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân, hội nghị Trung ương V (Tháng 5 năm
2017) chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết,
vừa lâu dài trong q trình hồn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất, huy
động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh
tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng,
quy mơ, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong GDP. Hội nghị Trung ương 8 (10-2018) đề
ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045. Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền
vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo
đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường
đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì mơi trường hịa bình, ổn định cho
phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống
19
Tieu luan
chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân Việt
Nam.
3. Thành tựu kinh tế trong 30 năm đổi mới
Trong suốt quá trình chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã vươn lên thành một
điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải
thiện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể.
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới và ở mức cao hơn so với trung bình khu vực về
thế giới với mức tang bình bình cả thời kì gần 7%/năm. Sau giai đoạn đầu đổi mới (19861990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam
đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng: giai đoạn 1991-1995, GDP
bình quân tăng 8,2%/năm gấp đơi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 19962000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP
vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm. Giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%;
giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân 6,32%/năm. Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng
hoảng tài chính tồn cầu 2008 và khủng hoảng nợ cơng 2010, tốc độ tăng trưởng GDP
giai đoạn 2011 - 2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức
cao của khu vực và thế giới.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân
đầu người ở nước ta mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mơ nền kinh tế đã
đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Lực lượng
sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng có mặt
được cải thiện, trình độ cơng nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng góp của yếu tố
năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 chỉ đạt 21,4%, giai
đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đã đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục
được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Cơ cấu
kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ cấu ngành kinh
20
Tieu luan
tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công
nghiệp.
Nhiều động lực tăng trưởng mới được xây dựng bên cạnh khu vực DN nhà nước và
khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, số DN thành lập
mới tăng nhanh cả về số lượng và vốn đăng ký, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo lan tỏa
rộng với nhiều mơ hình kinh doanh độc đáo, có hiệu quả. Nguồn nhân lực có kỹ năng,
được đào tạo bài bản, có khả năng ứng dụng cơng nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh
được chú trọng phát triển, tạo tiềm lực phát triển kinh tế hiện đại trên nền tảng khoa học công nghệ. Hệ thống hạ tầng quốc gia được tập trung nguồn lực xây dựng một cách đồng
bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng đơ thị lớn. Bộ máy Chính phủ thực
hiện tốt vai trị Chính phủ kiến tạo, nỗ lực xóa bỏ nhiều thủ tục hành chính rườm rà, tạo
ra mơi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi để tập trung, chuyển hóa nguồn lực từ tất cả
các thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Cơ cấu lao động có sự chuyển
đổi tích cực gắn liền với q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
có cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai
đoạn 2011-2015 tăng đến 18%/năm.
Kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ ổn định, các thị trường vận hành thông suốt tạo điều
kiện cho người dân và doanh nghiệp (DN) tập trung sản xuất, kinh doanh. Các thị trường
vốn và tiền tệ có bước phát triển mạnh mẽ, hoạt động thơng suốt và dần ổn định hơn. Tín
dụng tăng trưởng tốt, là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế tới các hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Thị trường ngoại tệ được quản lý linh hoạt, tình trạng đơ-la hóa giảm
dần qua các năm, quỹ dự trữ ngoại hối tăng cao, niềm tin của người dân vào đồng nội tệ
được củng cố vững chắc.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với
90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa. So với thời kỳ
trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở
21
Tieu luan
thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Năm 2015, năm đánh dấu một giai đoạn quan trọng của tiến trình phát triển, năm
cuối của chặng đường 30 năm đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng; là năm triển khai tích
cực Cộng đồng ASEAN và thực hiện các Hiệp định thương mại tự do song phương, đa
phương một cách đồng bộ, hội nhập sâu rộng; đồng thời cũng là năm cuối thực hiện Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2011 - 2015, tiến hành Đại hội Đảng các
cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Với niềm tin sâu sắc vào đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và
Chính phủ, sự cố gắng vươn lên trong tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành, các địa
phương và sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, chúng ta luôn tin tưởng vào sự
phát triển thịnh vượng của đất nước trên con đường hội nhập rộng mở phía trước.
III. Những vấn đề tồn tại trong quá trình đổi mới nền kinh tế của Đảng ta và
phương hướng giải quyết
Trải qua 3 thập niên đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong
phát triển kinh tế và đã được ghi nhận bởi cộng đồng quốc tế. Trong 20 năm đầu đổi mới
từ năm 1986 đến năm 2006, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Tuy nhiên từ năm 2007 trở đi, tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chậm lại. Việt
Nam đang phải đối mặt với một dạng ‘phát triển chậm chạp’ và nguy cơ tụt hậu so với
các nước từng có trình độ phát triển tương đương và với cả khu vực. Nhiều vấn đề được
đặt ra nghiên cứu để tìm phương pháp hồn thiện phù hợp.
1. Những vấn đề tồn tại trong quá trình đổi mới nền kinh tế của Đảng ta
Thứ nhất, vấn đề xác định lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát triển. Cho đến nay,
Việt Nam đã hoàn thành chặng đường đầu tiên và đang trong chặng đường tiếp theo là
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền tảng sớm đưa Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, từ đây cho đến khi kết thúc
thời kỳ quá độ để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn phải trải qua bao
nhiêu chặng đường, nội dung kinh tế- xã hội của từng chặng đường là gì? Chỉ có đẩy
mạnh nghiên cứu lý luận- thực tiễn để giải đáp những câu hỏi đó một cách có căn cứ
22
Tieu luan
khoa học thì mới có chính sách cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ, phòng
ngừa và khắc phục tư duy giản đơn, chủ quan nóng vội trong lãnh đạo, quản lý đem mục
tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
Thứ hai, vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế khá đồng đều. Song,
nền kinh tế phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu của Đảng và Nhà
nước đề ra, chưa thật sự bền vững. Đặc biệt trong những năm gần đây, chất lượng và hiệu
quả của năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm hồn thiện, hệ thống thị trường
hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết
cấu hạ tầng chưa đồng đều và đang cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, việc tạo
nền tảng để trở thành một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại cịn chậm và gặp nhiều
khó khăn.
Thực hiện đổi mới sang kinh tế thị trường nhưng do chưa có kinh nghiệm quản lý
nên dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, ơ nhiễm mơi trường và các tệ nạn xã hội đã diễn ra
với tốc độ tăng nhanh. Mặc dù Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi, ban hành
nhiều chính sách hỗ trợ về cơ sở vật chất, đào tạo nghề, hướng nghiệp để các hộ nghèo,
hộ cận nghèo, các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ vươn lên làm giàu, xích lại
gần với nhóm trung lưu, giàu có trong xã hội. Song, khoảng cách giữa nhóm người giàu
và nhóm người nghèo về thu nhập vẫn khơng giảm mà có xu hướng ngày càng tăng. Năm
2002, mức chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo là 8,1
lần, năm 2004 tăng lên 8,3 lần, đến năm 2010 sự chênh lệch đã tăng lên 9,4 lần.
Như vậy, mức độ bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta có xu hướng tăng dần. Bên
cạnh đó, tuy nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chưa bao giờ đạt đến mức 10%, từ năm
2000 đến nay tăng trưởng chỉ dao động ở mức 5% - 7%, (chỉ số năng lực cạnh tranh ở
mức thấp, lãng phí tài nguyên, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, năng suất lao động thấp
và tăng chậm. Trong cơ cấu kinh tế, lao động nông nghiệp vẫn chiếm hơn 40% (2015).
Nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm kinh tế hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn nhất (32%
GDP), kế đến là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ít doanh nghiệp lớn và rất hiếm doanh
nghiệp có khả năng hoạt động ở thị trường nước ngồi.
Các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng nguồn vốn lớn của quốc gia nhưng hoạt
động kém hiệu quả, thiếu minh bạch, tham nhũng, thất thoát nhiều. Khu vực kinh tế tư
nhân năng động nhưng còn yếu, đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ do thiếu vốn và
23
Tieu luan
thiếu khả năng quản lý, mức độ liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau và với
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi cịn yếu. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
đóng góp phần lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam do đó họ nhận được nhiều
ưu đãi của nhà nước Việt Nam, khiến nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc. Các
cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi trở thành đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp nội
địa, đến Việt Nam chủ yếu để tận dụng nhân cơng giá rẻ và chi phí mơi trường thấp đồng
thời chiếm lĩnh thị trường sơ khai có tốc độ tăng trưởng cao. Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi có tổng lợi nhuận lớn nhất, tăng trưởng tốt nhất nhưng lại nộp ngân sách ít
nhất, phần lợi nhuận sau thuế sẽ được chuyển ra nước ngồi. Trình độ kỹ thuật của toàn
bộ nền kinh tế thấp, mức độ tự động hóa chưa cao, khả năng nghiên cứu phát triển ra
cơng nghệ mới còn rất yếu.
Các ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng như cơng nghiệp luyện kim, cơng nghiệp cơ
khí - chế tạo máy, cơng nghiệp hóa chất, cơng nghiệp điện tử... chưa phát triển đầy đủ để
làm nền tảng cho q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam, cơ sở hạ tầng
dù được nhà nước chú trọng phát triển nhưng vẫn chưa thể so sánh được với các nước
công nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo trong toàn bộ nền
kinh tế có xu hướng giảm, cơng nghiệp Việt Nam tăng trưởng chậm và không bền vững
trong khi Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình đổi mới cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa nền kinh tế.
Thứ ba, vấn đề mơ hình và phương thức quản lý phát triển xã hội
Cần nghiên cứu làm rõ mô hình xã hội Việt Nam hướng đến là mơ hình xã hội
đồn kết, đồng thuận, hài hịa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó tầng
lớp trung lưu sẽ ngày càng chiếm số động trong xã hội. Chủ động quản lý phân tầng xã
hội, quản trị sự biến đổi xã hội, có chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải
thiện điều kiện sống của nhân dân, chủ động xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở
phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, vấn đề đổi mới đồng bộ giữa chính trị và kinh tế.
Sau hai giai đoạn đổi mới, đất nước đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi
mới chính trị. Tuy nhiên hiện nay, q trình đổi mới chính trị (tư duy chính trị và tổ chức
hoạt động của hệ thống chính trị) đơi khi chưa bắt kịp với quá trình đổi mới nền kinh tế
24
Tieu luan
nên tạo ra nhiều khoảng trống pháp lý; nhiều cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa đáp ứng
kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhiều chính sách hiện khơng cịn phù hợp, thậm
chí cản trở tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, trong quá trình tổ chức thực hiện, bộ máy của
Đảng và Nhà nước, Chính phủ vẫn chưa tạo được mơi trường đầu tư kinh doanh thực sự
thơng thống, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sự bất bình
đẳng này đã làm cho khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta giảm xuống, môi
trường đầu tư kinh doanh đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, doanh nghiệp
khởi nghiệp rất nhiều nhưng giải thể cũng khơng ít do “hữu sinh, vơ dưỡng”. Các doanh
nghiệp tư nhân dù tăng nhanh về số lượng, nhưng quy mô nhỏ lẻ, nguồn lực hạn chế, khó
đầu tư sản xuất lớn.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2016, đã thành lập thêm hơn 110.000 doanh nghiệp
nhưng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 12.478, tăng 31,8% so với năm 2015,
số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động lên tới 60.667 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống
pháp luật trong thời gian qua còn thiếu sự đồng bộ, chồng chéo, nhiều Bộ Luật ban hành
một thời gian chưa thi hành đã phải sửa, khơng ít Luật đã ban hành nhưng không đi vào
thực tiễn. Việc lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp, các chuyên gia khi xây dựng
pháp luật vẫn mang tính chung chung, chưa thực sự đảm bảo công khai minh bạch, đôi
khi vẫn có tính áp đặt, đẩy cái khó cho doanh nghiệp. Trong khi đó, những người làm
luật, bộ máy quản lý gần như không phải chịu trách nhiệm khi xây dựng pháp luật thiếu
tính thực tiễn, thiếu đồng bộ, thậm chí gây tổn hại cho nền kinh tế.
Vì vậy phải đẩy mạnh đổi mới chính trị cho đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế,
tập trung vào đổi mới thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách, phương thức huy động và
phân bổ nguồn lực, kiểm soát quyền lực và phát huy các động lực của phát triển.
Thứ năm, vấn đề giáo dục - đào tạo và chăm sóc y tế.
Do không được Nhà nước bao cấp như cơ chế cũ, nên phần đông số người nghèo
không đủ tiền chữa bệnh, con em khơng có tiền đóng học phí phải bỏ học. Như vậy, sẽ
dẫn đến tình trạng một bộ phận khá lớn lực lượng lao động trong tương lai sẽ khơng đủ
sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn nghiệp vụ, sẽ rất khó tham gia vào các
hoạt động kinh tế - xã hội, gây áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm.
Thứ sáu, vấn đề động lực của đổi mới và phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới.
25
Tieu luan