Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Phân tích thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới của việt nam (1986 2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.98 MB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

THẢO LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THÀNH TỰU VỀ KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI
MỚI CỦA VIỆT NAM (1986-2016)

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ......................................................................................................................... 2
I. Kinh tế Việt Nam trước khi tiến hành 30 năm đổi mới (trước năm 1986) ................... 2
II. Thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới của Việt Nam ......................................... 5
1.Các nhân tố trong nền kinh tế quốc nội .......................................................................... 5
1.1.Quy mô nền kinh tế ........................................................................................................ 5
1.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ......................................................................................... 7
1.3. Cơ cấu kinh tế .............................................................................................................. 9
1.4. Lạm phát ..................................................................................................................... 11
1.5. Về tỷ lệ xóa đói giảm nghèo....................................................................................... 14
2. Vốn đầu tư và hội nhập kinh tế thế giới ...................................................................... 16
2.1. Đầu tư trong nước...................................................................................................... 16
2.2. Đầu tư nước ngoài ( ODA, FDI) ............................................................................... 17
2.2.1. Nguồn vốn ODA. .............................................................................................. 17
2.2.2. Nguồn vốn FDI ................................................................................................. 17
2.3. Thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam ..................... 17
3. Kim ngạch xuất nhập khẩu .......................................................................................... 18
3.1. Thành tựu chung ........................................................................................................ 18


3.2. Thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam .............................................. 20
III. Nguyên nhân ................................................................................................................. 22
1. Về phía Đảng và Nhà nước ........................................................................................... 22
2. Về phía nhân dân ........................................................................................................... 27
IV. Ý nghĩa của những thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới của Việt Nam ...... 27
V. Những hạn chế về kinh tế còn tồn tại sau 30 năm đổi mới của Việt Nam và bài học
rút ra sau 30 năm đổi mới kinh tế của Việt Nam ......................................................... 28
1. Những hạn chế còn tồn tại sau 30 năm đổi mới của Việt Nam .................................. 28
2.Nguyên nhân .................................................................................................................... 30
3.Bài học rút ra sau 30 năm đổi mới kinh tế ................................................................... 31
C. KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 34
NHIỆM VỤ THÀNH VIÊN NHÓM 1 ............................................................................... 35


A. LỜI MỞ ĐẦU
Đã hơn 30 năm trôi qua kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới. Nhìn
tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém. Những cải cách
ban đầu về kinh tế và sự mở đường cho kinh tế thị trường đã giải phóng những tiềm lực
to lớn của đất nước và mở ra trước mắt chúng ta những sự thay đổi thần kỳ trong phát
triển kinh tế. Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có mức thu nhập trung bình thấp,
vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế -xã hội, đói nghèo và kém phát triển. Tốc độ phát
triển kinh tế đã vượt trước những cải cách về chính trị và xã hội. Sự phát triển nhanh
chóng này đặt ra yêu cầu về những cải cách tiếp theo trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Đổi mới tư duy kinh tế để phát triển là cả một quá trình nhận thức lâu dài của
Đảng ta nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh. Chính vì vậy, với đề tài “Phân tích thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới
của Việt Nam (1986-2016)” nhóm 1 sẽ làm rõ tư duy kinh tế của Đảng về nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các thời kỳ và kết quả đạt được sau hơn 30
năm đổi mới, cũng như những vấn đề hạn chế còn đang tồn đọng, cần được tiếp tục hoàn
thiện, tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh và bền
vững.

1


B. NỘI DUNG
I. Kinh tế Việt Nam trước khi tiến hành 30 năm đổi mới (trước năm 1986)
Trước Đổi Mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp
lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn ; định giá sản
phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.
Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp
giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối
với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định của cơ quan
hành chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp khơng có
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả
sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều
hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng
khơng được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh

ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.
Trong 10 năm bao cấp, Việt Nam thực hiện hai kế hoạch: 5 năm lần thứ II (1976-1980)
và 5 năm lần thứ III (1981-1985). Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, nhà nước Việt Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp quá chế độ
tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.
Ban đầu nền kinh tế phát triển theo cơ chế này có tác dụng nhất định, cho phép tận dụng
tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện
cụ thể, đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công
2


nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển khoa học - công
nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động. Khi nền kinh tế phát triển theo
chiều sâu theo hướng dựa vào phát triển khoa học - công nghệ hiện đại thì nó càng bộc
lộ khuyết điểm của cơ chế này. Điều này cũng làm cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào
khủng hoảng, trì trệ.
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ khơi
phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật
chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời
sống và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là
nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn
chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. Ở miền
Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới
hai hình thức tồn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo cơng nghiệp tư bản tư
doanh chủ yếu bằng hình thức cơng tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hố nông nghiệp;

cải tạo thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp
nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Sau năm 1975, hồn cảnh của Việt Nam rất khó khăn: Mọi miền đất nước đều bị chiến
tranh tàn phá, hàng triệu nạn nhân chiến tranh cần được nuôi sống và hỗ trợ, chính sách
cấm vận của Mỹ, rồi lại phải đương đầu với hai cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam
Chiến tranh biên giới phía Bắc nên phải chi tiêu rất nhiều cho quốc phịng, trong khi đó
sự giúp đỡ của các nước đồng minh cũng khơng cịn như trước, do vậy việc phân phối
hàng hóa thiết yếu theo chế độ tem phiếu bao cấp vẫn cần tiếp tục duy trì trên phạm vi
cả nước
Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm cịn giảm: Năm 1977,
tăng 2,8%; năm 1978, tăng 2,3%; năm 1979, giảm 2%; năm 1980, giảm 1,4%, bình quân
1977–1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, làm cho thu
nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%. GDP bình quân đầu người là 80
USD năm 1980 thấp hơn Lào (94 USD), và Campuchia (191 USD). Theo một số thống
kê, kế hoạch 5 năm lần thứ hai chỉ tiêu tăng 13-14% mỗi năm, nhưng chỉ tăng 0,4% mỗi
năm, trong đó nơng nghiệp tăng 1,9% và cơng nghiệp tăng 3,3%, phân phối yếu kém và
lãng phí vốn đầu tư.
Kim ngạch xuất khẩu năm 1980 chỉ đạt 15% kim ngạch nhập khẩu. Cùng năm đó, chỉ
tiêu thóc lúa là 21 triệu tấn nhưng thu hoạch chỉ đạt 12 triệu tấn. Tình hình lương thực
thiếu hụt trầm trọng khiến lượng gạo mua qua mậu dịch quốc doanh bị hạn chế tương
3


đương với thời kỳ chiến tranh khốc liệt nhất ở miền Bắc. Khoảng 10 -15% lương thực
phải nhập khẩu. Hàng hóa khơng đủ, để trang trải các khoản nợ từ khối Cộng sản, chính
phủ Việt Nam xoay sang trả nợ bằng lao động.
Thời kỳ 1981–1985, kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong
nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân
dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá – lương – tiền cuối năm 1985 đã đẩy nền kinh tế đất
nước đến những khó khăn mới. Kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Siêu

lạm phát xuất hiện và kéo dài, từ năm 1985 kéo dài đến 1988 từ 500% đến 800%. Nguồn
gốc lạm phát một nguyên nhân là do thâm hụt ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên bất cập hệ thống phân phối cũng đáng kể.
Kết quả này do nhiều ngun nhân, như khơng cịn nhận nguồn viện trợ dồi dào từ bên
ngoài, hậu quả của các cuộc chiến tranh, ngân sách quốc phòng lớn, cấm vận của Mỹ,
nạn thuyền nhân và chảy máu chất xám, thiên tai, dân số tăng nhanh,... trong đó có cả
"do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ
sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội" dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra
những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ
trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng
phí lớn về sức người, sức của;... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của
Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả
năng về nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với các kế
hoạch hóa gị bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho
cơ sở, địa phương và ngành, và cũng khơng tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung
ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế khơng cịn thích
hợp, cản trở sản xuất và khơng phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo
của những người lao động... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình,
thiếu những biện pháp có hiệu quả". Việt Nam thiếu khả năng hoạch định và quản lý
kinh tế do đa số cán bộ trình độ quản lý kinh tế kém. Mơ hình kinh tế nặng về tự cung
tự cấp, khơng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất cũng như con người của quốc
gia. Thêm và đó phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", làm
cạn kiệt vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng.
Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền kinh
tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm 1980 với
những khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; mất cân đối
lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, nhiều nhu cầu chính đáng
tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm bảo…Thực trạng
4



kinh tế – xã hội đó địi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo
ra một bước ngoặt cho sự phát triển.
II. Thành tựu về kinh tế trong 30 năm đổi mới của Việt Nam
Nền kinh tế khủng hoảng, trì trệ, chế độ bao cấp lỗi thời, lạc hậu đòi hỏi Đảng và Nhà
nước Việt Nam cần có sự đổi mới về đường lối kinh tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng và phát triển. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI năm 1986 đã thẳng
thắn nêu ra hạn chế của chế độ kinh tế cũ, chủ trương chuyển đổi từ chế độ kinh tế tập
trung sang nền kinh tế nhiều thành phần. Trải qua 30 năm (1986-2016) đổi mới nền
kinh tế, nước ta đạt được thành tựu trên rất nhiều lĩnh vực: các nhân tố trong nền kinh
tế quốc nội, vốn đầu tư, hội nhập quốc tế và kim ngạch xuất nhập khẩu.
1. Các nhân tố trong nền kinh tế quốc nội
1.1. Quy mô nền kinh tế


Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

GDP tăng trưởng nhanh và đều qua các năm, từ 30,17 tỷ USD năm 1986 lên 202 tỷ
USD năm 2016, tăng 171,83 tỷ USD. Đây là một con số tăng trưởng ấn tượng.
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Nền kinh tế dần
dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Tổng sản phẩm quốc
nội của Việt Nam vào năm 1986 đạt 30,17 tỷ USD.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh
tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ,
suy thoái, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức, GDP tương đối cao. GDP năm
1991 đạt 38,58 tỷ USD.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh
tế thời kỳ mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác
động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai

nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt,
tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được mức GDP khá cao. GDP vào năm 1996 đạt 59,08
tỷ USD.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển
khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định.GDP vào năm
1996 đã đạt 80,82 tỷ USD. Bên cạnh đó, riêng quy mơ tổng sản phẩm trong nước của
nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995.
5


GDP các năm sau đó vẫn liên tục tăng một cách tích cực. GDP năm 2006 đạt 117,52 tỷ
USD. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm
2000. GDP của Việt Nam đạt 161,36 tỷ USD vào năm 2011 và 202,00 tỷ USD vào năm
2015.

Nguồn: VNExpress.
❖ Thu nhập bình quân đầu người
Qua 30 năm, Việt Nam từ nước có thu nhập đầu người thấp nhất thế giới trở thành quốc
gia có mức thu nhập trung bình.
Năm 1986, tổng thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 86 USD/năm, đến năm 1990,
GDP bình quân đầu người cũng chỉ đạt 98 USD ( (bằng 1/4 chuẩn nước thu nhập thấp,
trong khi cùng thời điểm, Lào là 186 USD, và Campuchia 191 USD).
GDP bình quân đầu người năm 1991 là 188 USD, thuộc nhóm thấp nhất.
Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người đã tăng lên 400 USD/người.
Tuy nhiên đến 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở nước ta mới chỉ
đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mơ nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD, thu
nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia nhập
nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thốt khỏi tình trạng

kém phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất

6


nước trong thời kỳ này. Và năm 2010 đã đạt 1.200 USD/người (vượt chuẩn nước thu
nhập thấp khoảng 1.000 USD/người)
Năm 2011, GDP bình quân đầu người đã đạt 1.260 USD, gia nhập nhóm nước có thu
nhập trung bình của thế giới.
Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.200 USD (tương đương 48,6
triệu đồng/năm), trở thành một nước có thu nhập trung bình khá của thế giới.
Và đến năm 2016, GDP bình quân đầu người đạt 2.050 USD, gấp 10,9 lần năm 1991.

Nguồn: VNExpress
1.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trong suốt 30 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng, cao
hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới:
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân
hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1996, GDP bình qn đã tăng gấp đơi, đạt
trên 8% mỗi năm. Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao.
Giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996 - 2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài
chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm. => Đây là một
thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng của đất nước ta trong giai đoạn này.
Giai đoạn 2001 - 2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006 - 2010, do suy giảm
kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Trong
các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 và

7



khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011 - 2015 của Việt
Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam chững lại, được cho bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có khủng hoảng tài chính 2007-2010. Từ năm 2007, nền kinh tế đã có dấu hiệu
lạm phát rất cao. Đặc trưng giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng kinh tế chững lại (chỉ
đạt 5–6%/năm so với 7–8% giai đoạn trước). Năm 2008 là một năm không vui với tăng
trưởng GDP của Việt Nam khi tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt ~ 6,23%, thấp nhất kể từ
năm 1999.
=> Tính chung cho cả giai đoạn GDP tăng bình qn gần 7%, trong đó có tới 20 năm
liên tục GDP tăng bình quân 7,43%. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo
hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 2016, quy mô nền kinh tế đã đạt
khoảng 217 tỷ USD.
Các thị trường vận hành thông suốt tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp (DN)
tập trung sản xuất, kinh doanh.
Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng
trưởng có mặt được cải thiện, trình độ cơng nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng
góp của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 chỉ
đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đã đạt 28,94%
Không chỉ các báo cáo của Việt Nam mà báo cáo của nhiều tổ chức quốc tế cũng đánh
giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam 30 năm qua trong lĩnh vực kinh tế. Tờ Financial
Times của Anh đã nhận định: Mặc cho “màn đêm u ám” bủa vây các nền kinh tế mới
nổi, Việt Nam vẫn là một trường hợp ngoại lệ khi tiếp tục nằm ở “phía bên kia” của bức
tranh. Số liệu của bộ phận nghiên cứu Capital Economics cho thấy, từ năm 2010 đến
2016, Việt Nam là một trong những nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng cao so
với mức tăng trưởng trung bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cùng với Việt Nam, chỉ
có 4 quốc gia châu Âu được hưởng lợi tăng trưởng xuất khẩu nhờ giá dầu giảm, bao
gồm: Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc, Hung-ga-ry và Ba Lan. Tuy nhiên, trong khi các nền
kinh tế Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc và Hung-ga-ry khơng có sự tăng trưởng đáng kể nào về
tổng sản phẩm (GDP) từ năm 2008 - 2014 thì kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng tới 40%
trong suốt giai đoạn đó.


8


Theo hãng tin tài chính Bloomberg, Việt Nam là một trong số ít những nền kinh tế mới
nổi trên thế giới đạt tốc độ tăng trưởng khả quan năm 2015, trong bối cảnh nền kinh tế
tồn cầu vẫn ì ạch… Hãng này cho rằng, trong khi tình hình giá cả hàng hóa nhìn chung
sụt giảm khiến hàng loạt nền kinh tế mới nổi hàng đầu lâm vào tình cảnh điêu đứng, một
số nền kinh tế mới nổi khác như Ấn Độ và Việt Nam gây bất ngờ khi đạt tốc độ tăng
trưởng tích cực. Theo thống kê của Bloomberg, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP
cao thứ 6 trong số các nền kinh tế mới nổi trên thế giới.
1.3. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế theo ngành
Trong 30 năm Việt Nam tiến hành đổi mới về kinh tế ( 1986-2016), cơ cấu kinh tế Việt
Nam nhìn chung có sự chuyển biến tích cực theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại
hố.giảm khu vực nơng nghiệp , tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ.
Năm 1986, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 38.1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ
chiếm 33%, cịn cơng nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với 28,9%. Nền kinh tế chủ yếu
dựa vào nông nghiệp.

9


Biểu đồ cơ cấu kinh tế Việt Nam năm 1986
Năm 2016, sau 30 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực : tỉ trọng
ngành nơng nghiệp chỉ chiếm 10% trong cơ cấu GDP, công nghiệp chiếm 33% , dịch vụ
là ngành có tỉ trong cao nhất với 41%.

Biểu đồ cơ cấu kinh tế Việt Nam năm 2016
Cơ cấu kinh tế theo khu vực kinh tế

Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
30 năm tiến hành đổi mới, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng bên cạnh đó
kinh tế tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng tăng nhanh về số lượng,
đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế cả nước.

10


Kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 90% số việc làm và 39% tổng đầu tư
toàn xã hội. Trong giai đoạn 2008 - 2013, đã có 457.000 doanh nghiệp được thành lập
mới, tăng 30% so với cả giai đoạn 1991 - 2007.
Đến năm 2013, các doanh nghiệp FDI đóng góp 18% GDP, 23% vốn đầu tư phát triển,
66,9% kim ngạch xuất khẩu, 56,71% kim ngạch nhập khẩu cả nước.Tính đến năm 2013,
số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI trên 1,8 triệu người. Đóng góp của
khu vực FDI trong kim ngạch xuất nhập khẩu tăng từ 54,2% năm 2010 lên 67,8% năm
2015.
Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, sắp xếp lại; hình thành các tổng
cơng ty và một số tập đồn kinh tế ở những lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đối với nền kinh tế; đồng thời thu hẹp những lĩnh vực độc quyền nhà nước. Hiện nay,
còn 949 doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước, tổ chức dưới dạng cơng ty TNHH một
thành viên; 32 tỉnh khơng cịn doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thuần túy. Khu vực
doanh nghiệp nhà nước vẫn đang chiếm tới 45% tổng vốn đầu tư, 70% viện trợ. Phương
thức hoạt động của các hợp tác xã bước đầu được đổi mới, phù hợp hơn với cơ chế thị
trường và các nguyên tắc: Tự nguyện, dân chủ, bình đẳng cùng có lợi và phát triển cộng
đồng.
Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo cơ cấu ngành với sự chuyển dịch lao động thì khu
vực nơng nghiệp sang khu vực cơng nghiệp và dịch vụ, tăng số lượng lao động đã qua
đào tạo.

Tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm còn khoảng
46,5 %.
Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo tăng dần qua các năm: tăng từ 40% năm 2010 lên khoảng
49% năm 2014. Tỉ lệ lao động qua đào tạo theo thông lệ quốc tế năm 2010 là 14,6%,
năm 2013 là 17,9%.
1.4. Lạm phát
Từ năm 1986 - 2008, Việt Nam có ba cuộc lạm phát ở mức 2-3 con số.
Cuối năm 1985, sai lầm về tổng điều chỉnh giá - lương - tiền đã khiến Việt Nam rơi vào
tình trạng lạm phát phi mã. Siêu lạm phát xuất hiện liên tục từ năm 1985 đến 1988, với
tỷ lệ lạm phát từ 300% đến 800% mỗi năm. Năm 1986, tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7%
khiến kinh tế rối loạn. Siêu lạm phát vẫn tiếp diễn trong 2 năm sau đó (năm 1987:
323,1%; năm 1988: 393%). Chủ yếu là mất cân đối lớn về quan hệ tiền - hàng (thiếu
hàng). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát là do nội tại nền kinh tế. Ðặc trưng chung
11


của lạm phát lúc này là lạm phát trong suy thối. Cho nên chúng ta phải tự tìm tịi xác
định biện pháp chống lạm phát. Cách làm không giống ai và sát với hoàn cảnh và đặc
điểm của nước ta với hai nhiệm vụ chính: Rút khối lượng lớn tiền mặt trên thị trường
về, đến năm 1989, lạm phát mới xuống dưới 100% và Việt Nam mới thoát khỏi lạm
phát. Sự kiên trì, bền bỉ, sáng tạo, với cách làm riêng chúng ta đã thành công rút dần lạm
phát 3 con số xuống 1 con số ở mức 4-5% mức bình thường của nhiều nước vào những
năm 1992 - 1993.
 Việc chống lạm phát phi mã thành công giai đoạn 1986 - 1993 sau này đã được
mọi người nhắc tới là “hiện tượng Việt Nam”.
Lần thứ 2 có số lạm phát 2 con số là những năm khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực
1997 diễn ra từ biểu hiện khơng bình thường trong đầu tư và chu chuyển các dòng vốn,
trước hết là ở các nước châu Á trong điều kiện chúng ta bắt đầu đổi mới, mở cửa, nền
kinh tế hội nhập chưa sâu. Lúc đó chúng ta khơng ở tâm bão của cuộc khủng hoảng,
nhưng cũng có tác động đến nhiều lĩnh vực, tới mối quan hệ tiền, hàng. Nguyên nhân

chủ yếu từ ngoài dẫn đến nên các biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn các yếu tố tác động
xấu hoặc gây rủi ro cho nền kinh tế đất nước.
Lạm phát lần thứ 3 được tích tụ và tăng dần, đặc biệt tăng cao vào năm 2007 và những
tháng đầu năm 2008. Năm 2007 là 12,36%, 3 tháng năm 2008 là 9,1%. Bởi cả yếu tố
nội tại của nền kinh tế và cả biến động ngày càng gia tăng của nền kinh tế toàn cầu. Các
yếu tố này tích tụ lâu dài trong cơ cấu của nền kinh tế cũng như những khuyết điểm
trong quản lý điều hành.
=> Nếu như lạm phát lần thứ nhất chủ yếu do yếu tố bên trong. Lần thứ 2 chủ yếu do
yếu tố bên ngồi. Lần thứ 3 này có cả yếu tố bên trong và bên ngoài và trong điều kiện
hội nhập sâu vào WTO. Tất cả giải pháp chống lạm phát phải giải quyết tốt vấn đề nội
tại nền kinh tế và phù hợp thông lệ quốc tế đã cam kết.
Trong những năm sau đó, cùng với tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cũng giành được
nhiều kết quả trong ổn định nền kinh tế vĩ mô, lạm phát đã giảm dần về mức hai rồi một
con số.

12


Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Bảng: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2016 (Đơn vị: %)
Năm 2011 có tỷ lệ lạm phát là 18.58%, cao nhất trong giai đoạn 2010 - 2016 và cao thứ
2 (chỉ sau năm 2008) trong giai đoạn 2000 – 2016.
Trong giai đoạn 2011 – 2015, nhờ việc áp dụng đồng bộ các chính sách tài khóa và tiền
tệ thắt chặt, đồng thời thúc đẩy việc sản xuất, gia tăng hàng xuất khẩu và kiểm sốt nhập
siêu,… lạm phát có xu hướng giảm và đạt mức thấp kỷ lục 0.63% vào năm 2015.
Năm 2016, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam được giữ ổn định ở mức 4%.
=> Đây là một trong những thành tựu vượt bậc nhất của nền kinh tế Việt Nam trong 30
năm đổi mới kinh tế, đưa đất nước từ mức lạm phát 3 con số năm 1986 (774,7%) xuống
mức lạm phát ổn định một con số năm 2016 (4%).
Một loạt các biện pháp quyết liệt được đưa ra đã giúp cung cầu hàng hóa dần trở về

trạng thái cân bằng, kéo giảm nhanh lạm phát xuống, đồng thời khẳng định chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước đó là: kiềm chế lạm phát nhưng vẫn duy trì tăng trưởng
hợp lý và gây dựng tiền đề cho sự phát triển cao, bền vững trong những năm sau.

13


(Nguồn: VnExpress)
1.5. Về tỷ lệ xóa đói giảm nghèo
Từ năm 1998 đến nay, xóa đói, giảm nghèo đã trở thành chương trình mục tiêu quốc gia
và được đưa vào kế hoạch định kỳ 5 năm của Chính phủ và các địa phương, đến 2011
đã qua 3 giai đoạn (1998 - 2000; 2001 - 2005; 2006 - 2010), góp phần cải thiện đáng kể
diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trong cả nước.
Cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế, Việt Nam đặc biệt quan tâm và ưu tiên nguồn
lực cho giảm nghèo. Với việc giảm 1/2 hộ nghèo vào năm 2002, và 2011 đã giảm được
3/4 số hộ nghèo (so với đầu thập niên 90 thế kỷ XX), hoàn thành trước mục tiêu thiên
niên kỷ về giảm nghèo, Việt Nam chuyển vị trí từ nước nghèo sang nhóm nước có mức
thu nhập trung bình thấp.
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước vào năm 2005 đã giảm nhanh xuống cịn 22%.
Năm 2006, Việt Nam đã tun bố hồn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs)
về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10 năm so với thời
hạn (năm 2015).
Đến năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm xuống cịn 11,3% và cịn 9,45% vào
năm 2010. Bình qn mỗi năm giảm 2% - 3% tỷ lệ nghèo; người nghèo đã được tiếp
cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế (vốn, đất đai, công nghệ, thị trường...) và các dịch vụ
xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý...; kết cấu hạ tầng của các
huyện, xã nghèo được tăng cường; đời sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt.
14



Có thể coi năm 2010 là bước ngoặt mới trong xóa đói, giảm nghèo ở nước ta. Tuy tỷ lệ
nghèo còn cao ở các vùng núi và đồng bào dân tộc nhưng tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh
chóng ở khu vực thành thị và đồng bằng sông Hồng và miền Đơng Nam Bộ.

Quyết tâm vươn lên thốt khỏi đói nghèo khơng chỉ là ý chí của các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương mà đã trở thành suy nghĩ của từng hộ nghèo. Tỷ lệ nghèo trên đầu
người (tính theo chi tiêu thu nhập) đã giảm mạnh từ 57% năm 1990 xuống còn 13,5%
năm 2014.
Tỷ lệ nghèo của các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm xuống là kết quả rất đáng khích lệ,
trong giai đoạn 2014 - 2016, tỷ lệ nghèo của nhóm này đã giảm tới 13%, giảm mạnh
nhất trong một thập niên vừa qua. Những nỗ lực tập trung vào việc tăng cường thu nhập
cho các dân tộc thiểu số có thể gia tăng cơ hội cho những nhóm người này và giảm sự
bất bình đẳng kéo dài.

15


Trong hai năm 2015, 2016, tỷ lệ nghèo bình quân của cả nước đã giảm 1,8%, cao hơn
chỉ tiêu Quốc hội đề ra từ 1-1,5%. Năm 2016, tốc độ giảm nghèo của Việt Nam được
kiểm soát, đặc biệt, đời sống người dân được ổn định, cơ sở hạ tầng tại vùng sâu, vùng
xa, vùng cao đã được cải thiện.
=> Thành tựu xố đói giảm nghèo giảm nghèo đã góp phần quan trọng trong việc phát
triển bền vững của đất nước, là một bước tiến lớn trong công cuộc 30 năm đổi mới của
nước ta.
2. Vốn đầu tư và hội nhập kinh tế thế giới
2.1. Đầu tư trong nước
Giai đoạn 1986-2016, để tạo nguồn lực tài chính cho phát triển, Đảng và Nhà nước ta
đã khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội, các thành phần kinh tế bỏ vốn
đầu tư phát triển kinh tế. Kết quả là tổng vốn đầu tư toàn xã hội của nước ta ngày càng
tăng. Nếu như giai đoạn 1998-2000, tổng vốn đầu tư tồn xã hội đạt 117,9 nghìn tỷ đồng,

đến năm 2017 đạt 1667,4 nghìn tỷ đồng, tăng gấp hơn 14 lần so với giai đoạn 19982000. Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế cũng có sự dịch chuyển theo hướng
tích cực, thể hiện ở chỗ: vốn đầu tư phát triển của khu vực nhà nước đã giảm xuống; khu
vực ngồi nhà nước và khu vực có vốn ĐTNN tăng lên. Nếu như giai đoạn 1986-2000,
vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 54,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; khu
vực kinh tế là 24,1%; khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là 21,6% thì đến năm 2016, cơ cấu
vốn đầu tư theo thành phần lần lượt là: 35,6%; 40,6% và 23,8%.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước từ
năm 1986 đến 2016 đạt hơn 3,2 nghìn tỷ USD, bằng 51,1% kế hoạch phát triển kinh tế
trong nước và ngân sách quốc gia và đạt số lượng dự kiến với sai số 15,3%.
16


2.2. Đầu tư nước ngoài ( ODA, FDI)
2.2.1. Nguồn vốn ODA.
Tính đến tháng 12/2016, đã có 23 Hội nghị CG thường niên và 19 Hội nghị CG giữa kỳ
(tổ chức đầu tháng 6 hàng năm) được tổ chức. Thông qua các hội nghị này, 78,195 tỷ
USD vốn ODA đã được các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam. Tổng vốn ODA
cam kết thường gia tăng, năm sau cao hơn năm trước, kể cả những năm kinh tế thế giới
khủng hoảng (như trong năm 2008) hoặc khi kinh tế của một số nước tài trợ gặp khó
khăn.
Tính đến năm 2016 , Việt Nam đã tiếp nhận trên 79,82 tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu
đãi. Trong đó, 7 tỷ USD là vốn viện trợ khơng hồn lại (chiếm 8% tổng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi), trên 60 tỷ USD là vốn vay với lãi suất dưới 2% (tương đương 90% tổng
vốn ODA và vốn vay ưu đãi) và 1,7 tỷ USD vốn vay kém ưu đãi nhưng lãi suất vẫn thấp
hơn vốn vay thương mại (chiếm 2%). Lượng giải ngân đạt gần 65 tỷ USD. Huy động
vốn ODA và vốn vay ưu đãi đạt 12,553 tỷ USD, trong đó vốn vay là 12,04 tỷ USD (vay
ODA: 9,169 tỷ USD, vay ưu đãi: 2,871 tỷ USD), viện trợ khơng hồn lại là 513 triệu
USD.
Trong số 51,607 tỷ USD các khoản ODA vay ưu đãi đã ký kết, phần lớn có lãi suất rất
ưu đãi, thời gian vay và ân hạn dài. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới 1%/năm,

thời hạn vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40% khoản vay có lãi
suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó có 5-10 năm ân hạn; cịn lại là
các khoản vay có điều kiện ưu đãi kém hơn.
2.2.2. Nguồn vốn FDI
Nguồn vốn FDI tăng liên tục qua các năm, từ mức 1,3 tỉ USD năm 1991 lên gần 23 tỉ
USD năm 2015. Trong giai đoạn 3 năm đầu (1988-1990) Việt Nam mới thu hút được
213 dự án FDI với tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD; năm năm sau (1991-1995) thu hút
được 3.935 dự án với tổng vốn đăng ký 20,8 tỷ USD. Riêng năm 2015, thu hút FDI tiếp
tục cải thiện cả về tổng vốn đăng ký mới và vốn mở rộng, cũng như vốn thực hiện. Tính
đến 15/12, cả nước có tổng vốn đăng ký mới và vốn bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng
12,5% so với 2014. FDI thực hiện năm 2015 ước đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với
năm trước
2.3. Thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam
Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả vững chắc.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995, gia nhập WTO vào tháng 01-2007.
17


Đến nay, Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 FTA có hiệu lực và 01
FTA đã chính thức ký kết, sắp có hiệu lực, hiện đang đàm phán 02 FTA. Trong số 14
FTA đã có hiệu lực và đang triển khai, Hiệp định Đối tác tồn diện và Tiến bộ xun
Thái Bình Dương (CPTPP) là FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo
đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA).
Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán 6 FTA khác, gồm Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với Liên minh thuế
quan Nga - Bê-la-rút - Ca-dắc-xtan, với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm
các nước Thụy Sỹ, Nauy, Liechtenstein và Iceland, FTA với Hàn Quốc và FTA giữa
khối ASEAN với Hong Kong (Trung Quốc).
Ngồi ra, ta cũng tích cực chủ động tham gia sâu vào diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á

- Thái Bình Dương (APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 với hàng trăm cuộc họp từ
cấp chuyên viên đến cấp cao.
Tổng kết lại, chúng ta đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO
cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Việc gia nhập WTO vào năm
2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng của việc thực hiện chính sách đối ngoại đổi
mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia bình đẳng trong thương mại với các nước trên thế
giới.
Ngoài ra, ta đã có quan hệ thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ ở
khắp các châu lục; trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam
và doanh nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy mươi quốc gia và vùng lãnh
thổ.
Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng tham gia sâu
rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có tiếng nói quan trọng với
ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và thế giới, do đó đã góp phần mở
rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mơ
hình kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần
phục vụ chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được
hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành cơng trong q trình đổi mới.
3. Kim ngạch xuất nhập khẩu
3.1. Thành tựu chung
Từ năm 1986, nước ta thực hiện mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở
cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất trong nước được giải phóng,
các thành phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng. Nhu cầu
18


tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế khơng ngừng mở rộng. Do đó,
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa khơng ngừng gia tăng, Từ một nước nhập siêu, Việt
Nam đã chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu, thậm chí là xuất siêu. Trong giai đoạn

1986-2016, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam tăng từ 2944 triệu USD (1986) lên 350,
74 tỷ USD (2016).

Biểu đồ: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ năm 2006-2016
(Nguồn: TCHQ)
Năm 1986 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu mới đạt 2.944 triệu USD, trong đó, xuất khẩu
đạt 789 triệu USD, nhập khẩu 2.155 triệu USD thì giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên 22,2
tỷ USD. Nếu năm 1986, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam mới đạt 5%, năm 1995 đạt
26,2%, năm 2000 đạt 46,4%, năm 2005 đạt 61,1%. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập siêu qua từng
giai đoạn so với xuất khẩu giảm mạnh từ 80,4% trong giai đoạn 1986-1990 xuống 17,4%
trong giai đoạn 2001-2005. Ở giai đoạn này, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu mặt hàng dầu
thô và gạo và nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu để sản xuất, điều này phản ánh đúng
mức độ phát triển kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn đầu tư cơ sở hạ tầng, đổi mới
thiết bị, tăng năng lực sản xuất.
Từ năm 2006-2016, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh mẽ (tăng gần 4 lần từ
39,8 tỷ USD (2006) lên gần 176 tỷ USD (2016)) và có xu hướng cân bằng cán cân
thương mại và xuất siêu. Cụ thể: Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2011 ước đạt 203,66
tỷ USD, tăng 29% so với năm 2010. Và tới năm 2016, tổng kim ngạch XNK đạt 350, 74
19


tỷ USD, trong đó, XK 176,63 tỷ USD, NK 174,11 tỷ USD, thặng dư thương mại dương
2,52 tỷ USD. Thặng dư cán cân thương mại đã góp phần nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn
định tỷ giá, ổn định kinh tế vĩ mô.
30 năm đổi mới nền kinh tế, từ một nước nhập siêu thì đến năm 2016, Việt Nam đã trở
thành một nước xuất siêu (2,52 tỷ USD). Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thuộc
top đầu thế giới như: xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới; các mặt hàng xuất khẩu đa
dạng với nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như hàng dệt may, hàng nông sản, linh
kiện,....


Nguồn: Tổng cục Hải quan
Biểu đồ: Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa năm 2016
Ngồi ra, hiện nay, ngồi WTO thì Việt Nam cũng ký 11 hiệp định FTA (có 6 FTA trong
khuôn khổ hợp tác ASEAN); ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp
định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ đó, mà
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng tăng lên đáng kể.
3.2. Thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
1. Thị trường xuất khẩu

Sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế năm 1986, quan hệ song
phương giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới không ngừng phát triển, trong đó
có quan hệ về thương mại. Vào năm 1986 Việt Nam chỉ có quan hệ xuất nhập khẩu với
43 quốc gia, năm 1995 là 100 quốc gia thì đến nay con số đó tăng lên là hơn 200 nước,
trong đó có các đối tác lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN…
20


Nguồn: Tổng cục Hải quan
Biểu đồ: 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016
Năm 2016, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch hơn
38,46 tỷ USD; tăng 14,9%, chiếm tỷ trọng 21,78%; thị trường EU (28 nước) đạt gần
33,97 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 19,2%, là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam
sau Hoa Kỳ. Sau đó là Trung Quốc với kim ngạch hơn 21,97 tỷ USD, tăng 28,4% so với
cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; thị
trường thị trường Nhật Bản đạt gần 14,68 tỷ USD, tăng 3,9%, chiếm tỷ trọng 8,3%; Hàn
Quốc đạt gần 11,42 tỷ USD, tăng 28%, chiếm tỷ trọng 6,5%; …
2. Thị trường nhập khẩu

Thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016 là Trung Quốc với kim ngạch

gần 49,93 tỷ USD, tăng 0,9%, và chiếm tỷ trọng 28,7%; đứng thứ 2 là thị trường Hàn
Quốc đạt kim ngạch 32,03 tỷ USD, tăng 15,9%, chiếm tỷ trọng 18,4%; thị trường Nhật
Bản đạt kim ngạch hơn 15,03 tỷ USD, tăng 4,7%, chiếm tỷ trọng 8,6%;thị trường EU
(28 nước) đạt kim ngạch hơn 11,07 tỷ USD, tăng 6,18%, chiếm tỷ trọng 6,4% trong tổng
kim ngạch nhập khẩu của cả nước…

21


.
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Biểu đồ: 10 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016
Nhờ những nỗ lực từ cả phía chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động xuất nhập
khẩu, đặc biệt là xuất khẩu trong 30 năm qua đã có những thành tựu đáng nể. Xuất khẩu
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, cải kiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế
vĩ mơ, ổn định tỷ giá, kiểm sốt lạm phát, tạo hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy sản xuất, tạo
việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động và tạo động lực đổi mới sáng tạo trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Như vậv, có thể nói Việt Nam đã trải qua 30 năm đổi mới kinh tế vô cùng thành công.
Những thành tựu kinh tế mà Việt Nam đã đạt được trong giai đoạn 1986-2016 đã đưa
nước ta từ một nước kinh tế phụ thuộc nông nghiệp; quy mô nền kinh tế, thu nhập đầu
người thấp và lạm phát phi mã trở thành một nước cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, tốc
độ tăng trưởng GDP vượt bậc, thu nhập đầu người ở mức trung bình và lạm phát ổn
định ở mức 1 con số. Ngoài ra, Việt Nam cũng đạt nhiều thành tựu trong thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu và cả các hiệp định đối tác
chiến lược mang tầm quốc tế.
III. Nguyên nhân
1. Về phía Đảng và Nhà nước
Những thành tựu đạt được trong 30 năm đổi mới của Việt Nam (1986 - 2006) là nhờ có
nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của phát triển kinh

tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường
định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, kiên trì lãnh đạo,
22


chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế và được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực
tham gia thực hiện. Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất
quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Đó chính là bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế, trong thay đổi
mơ hình phát triển xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới; là bước tiến trong tư duy lý luận.
Quá trình đổi mới tư duy kinh tế từ cục bộ đến toàn cục, được phản ánh hoàn thiện từng
bước qua mỗi kỳ Đại hội Đảng. Cụ thể quá trình đổi mới tư duy kinh tế được ghi nhận
trên những nét chính sau:
Đại hội VI của Đảng ta đã xác định đường lối đổi mới, coi phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị… đã mở ra một thời kỳ mới cho
đất nước phát triển. Đặc biệt, Đại hội VI thừa nhận có sản xuất hàng hóa trong chủ
nghĩa xã hội;đồng thời chủ trương kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng
giao lưu hàng hố, xố bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường. Tiếp đó,
Nghị quyết Trung ương 2 (tháng 4-1987) về lưu thơng phân phối, quyết định bỏ chính
sách hai giá, thực hiện “bốn giảm” , tiếp tục xố bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”.
Nghị quyết Trung ương 3 (tháng 8-1987) quyết định chuyển hoạt động của các đơn vị
công nghiệp quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước
về kinh tế, thực hiện tự chủ trong kinh doanh. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 41988) về tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nơng nghiệp, thực hiện việc khốn đến hộ
(“khốn 10”), tạo động lực mới thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh, tồn diện.
Đại hội VII (tháng 6-1991) thơng qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000,
khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đại biểu
tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) tiếp tục phát triển và cụ thể hoá tư

tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới là phấn đấu vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội nghị cũng chỉ ra những nguy cơ
mà đất nước phải vượt qua. Đó là: tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng và quan
liêu; “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch. Hội nghị đưa ra quan điểm về cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ mới; khẳng định xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xem "phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định “Sản xuất hàng hóa khơng đối lập với
chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách
23


×