Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích chính sách phát triển kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.63 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khép lại năm 2007, cả nước hồ hởi đón xn mới với những thành tích phát triển
kinh tế xã hội vượt bậc: tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,48%, mức cao nhất trong vòng 10
năm trở lại đây, xuất khẩu đạt mức 43,64 tỷ USD – tăng 21,5%, 1.283 dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép với tổng vốn đăng ký 13,4 tỷ USD, đó là chưa kể số
dự án đang chờ phê duyệt lên tới 50 tỷ USD. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế chúng ta
cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và hội
nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, bước vào những tháng đầu năm 2008, tình hình kinh tế đã xuất hiện
nhiều vấn đề đáng lo ngại. Số liệu thống kê quí I – 2008 cho thấy: tăng trưởng GDp chỉ đạt
mức 7,4%, kim ngạch nhập khẩu tăng 62,4%, gấp 3 lần mức tăng tổng kim ngạch xuất
khẩu (22,7%); trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng quý I – 2008 so với cùng kỳ năm 2007 đã
vượt ngưỡng 2 con số - 16,37%, gấp 2,21 lần mức tăng GDP. Thị trường chứng khốn, sau
một năm sơi động đã liên tục sụt giảm, VN - Index đã đâm thủng đáy 500 điểm vào trung
tuần tháng 3. Nhưng đáng lo ngại nhát là tâm lý bất an của người dân trước cơn bão giá,
hiện đang thực sự ảnh hưởng đến bữa cơm hàng ngày của chính họ.
Nếu xét trên bình diện quốc tế thì trong năm 2007 vừa qua Việt Nam không phải là
nước duy nhất phải đối mặt với tình trạng lạm phát, nhưng tỷ lệ này là cao hơn hẳn mặt
bằng chung ở các nền kinh tế mới nổi khác ở châu Á cũng như các nước trong khu vực.
Lạm phát ở Trung Quốc ở mức 6,5%, Indonesia là 7,4%, Thái Lan là 2,9%.
Tác động của lạm phát tới đời sống thì hẳn ai cũng đã thấy rõ. Để hiểu kỹ hơn về
lạm phát, mà tác động của nó đang diễn ra từng ngày và khơng loại trừ bất cứ ai, và làm tốt
bài tập nhóm mơn Phân tích chính sách phát triển kinh tế xã hội là mục đích của chúng tơi.
Nhóm chúng tơi xem xét lạm phát với những khía cạnh cụ thể sau:
-

Vấn đề chính sách
Các biểu hiên của vấn đề
Nguyên nhân của vấn đề
Các giải pháp chính sách hiện hành


Do thời gian có hạn nên bài làm cịn nhiều thiếu xót mong thầy cơ và các bạn thong
cảm và góp ý thêm.

1


NỘI DUNG CHÍNH
1. Vấn đề chính sách
Kiểm sốt tăng giá, bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát.

2. Biểu hiện của lạm phát
Chỉ số tiêu dùng tăng nhanh là tâm điểm của báo chí trong suốt một năm qua.
Giá tiêu dùng năm 2007 diễn biến phức tạp và có xu hướng tăng cao ở các tháng
cuối năm. Giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng 2,91% so với tháng trước và tăng 12,63% so
với tháng 12/2006. Trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%; nhà ở và vật
liệu xây dựng tăng 17,12%; các nhóm hàng hố và dịch vụ khác tăng từ 1,69 – 7,27%.
Mức lạm phát qua các năm tính theo chỉ số giá tiêu dung tháng 12 mỗi năm:

Giá tiêu dùng bình quân năm 2007 so với năm 2006 tăng 8,3%, trong đó nhóm hàng
ăn uống và dịch vụ tăng 11,16%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,01%; các nhóm hàng
hố và dịch vụ khác tăng từ 3,18 – 6,15%.

2


Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng 2/2008:

Các mặt hàng

Mức tăng CPI


Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
- Giá thực phẩm

6,18%
7,53%

- Chi phí ăn uống ngồi gia đình
- Lương thực
Nhóm đồ dùng và các dịch vụ khác
Nhóm dịch vụ liên quan đến vui chơi VH-TT-Giải trí
Nhóm đồ uống và thuốc lá
Nhóm phương tiện đi lại, bưu điện
Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng

5,7%
3,25%
3,4%
2,34%
1,89%
1,51%
1,36%
1,39%

3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
3.1.

Lạm phát do cầu kéo:


Tăng trưởng kinh tế cao đòi hỏi một lượng vốn đầu tư cao. Tỷ lệ giữa vốn đầu tư so
với GDP năm trước đã lên đến 40,4%, mục tiêu năm nay còn đưa lên đến 42% để nhằm đạt
tốc độ tăng trưởng cao hơn (9% so với 8,48%). Khi vốn đầu tư đưa ra nhiều hơn thì sức ép
lạm phát cũng tăng lên. Nhu cầu cao lên cộng hưởng với lượng tiền ra lớn sẽ làm cho cầu
tăng kép.
Nhu cầu tiêu dùng năm 2007 tăng mạnh do nhiều tác động. Mức tiêu dùng thông
qua mua bán trên thị trường (thể hiện ở tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng) năm trước tăng 23,3%, đây là tốc độ tăng rất cao (cao gấp 1,64 lần tốc độ tăng
GDP theo giá so sánh), một phần do mức tiêu dùng tăng cao và tỷ lệ tiêu dùng thông qua
mua bán trên thị trường tăng nhanh.
Ngoài ra, năm 2007 là năm Việt Nam chịu rất nhiều thiên tai, dich bệnh. Những trận
lũ lụt ở 7 tỉnh miền trung, hay đợt rét đậm vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 ở Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ đã cướp đi gân như tồn bộ vụ lúa đơng xn vừa gieo cấy, khiến tất cả
3


nơng dân lâm và tình trạng khốn cùng khi phải đầu tư để gieo cấy lại. Bên cạnh đó, trong
chăn ni chúng ta cũng gặp khơng ít khó khăn từ dịch cúm gà H5N1 trên gia cầm, hay
dịch dịch bệnh tai xanh ở lợn. Mới đây, cả nước đang phải đối mặt với tình trạng vệ sinh
an tồn thực phẩm khi đang bùng phát dịch tiên chảy cấp…. Tất cả những nguyên nhân
này đã làm cho sức sản xuất của chúng ta kém đi, tình trạng khan hiếm hàng hóa đang diễn
ra nhất là những hàng hóa nơng sản và nông nghiệp. Sự khan hiếm, kết hợp với nhu cầu
ngày càng tăng lên của dân cư ( do thu nhập tăng, lương tăng..) đã kéo giá tiêu dùng tăng
cao.
3.2.

Lạm phát do chi phí đẩy.
Chi phí là yếu tố quan tâm hàng đầu của các nhà sản suất. Chi phí đầu vào tăng lên

khiến cho các doanh nghiệp phải tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ. Điều này làm giá cả

chung cả thị trường tăng lên. Lạm phát do chi phí đẩy, tức là do giá cả trên thị trường thế
giới tăng cao, tác động đến chi phí đầu vào và tạo sức ép tăng giá cả sản phẩm đầu ra.
Trong các mặt hàng nhập khẩu mà giá cả tăng cao so với cùng kỳ, đáng lưu ý có giá sắt
thép, đặc biệt là phơi thép, phân bón, hóa chất và sản phẩm hóa chất, chất dẻo, nguyên
phụ liệu thức ăn gia súc, bột mỳ, bơng, sợi…
Cịn trong nước, năm 2007, sự tăng giá mạnh nhất ở hai yếu tố đầu vào quan
trọng, đó là: điện và xăng dầu. Đầu năm chính phủ đã cho phép ngành điện được tăng giá,
và đồng thời với đó là cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng có thêm quyền chủ động
trong việc định giá để giảm tình trạng chính phủ phải bù lỗ q nhiều cho nhập khẩu
xăng. Bên cạnh việc tăng giá của hai yếu tố đầu vào quan trọng này là sự tăng lên của
mức lương tối thiểu. Chính những động thái tăng lương đã làm cho giá cả các mặt hàng
tăng lên một cách đáng kể ngay cả khi lương còn chưa tăng.
Lạm phát do chi phí đẩy là một nhân tố được đánh giá khá lớn trong các nhân tố
làm tăng chỉ số lạm phát.
3.3.

Lạm phát do tiền tệ.
4


Lượng tiền từ ngân hàng ra lưu thông lớn thời gian qua có hai vấn đề đáng lưu ý.
Một, lượng tiền đưa ra trong các năm trước quá lớn và hiện cịn nằm ở lưu thơng. Tốc độ
tăng cung tiền M2 (bao gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng), tính chung ba năm qua
đã lên đến 122,44% (năm 2005 tăng 23,34%, năm 2006 tăng 33,59%, năm 2007 ước tăng
35%), cao gấp gần 4,5 lần tốc độ tăng 27,25% của GDP tính theo giá so sánh trong thời
gian tương ứng và các hệ số này cũng cao gấp đôi các nước trong khu vực. Cung tiền tăng
cao gấp tới 4,5 lần sản xuất thì lạm phát cao là khó tránh khỏi. Hai, một lượng tiền lớn lên
đến hàng trăm ngàn tỉ đồng đã được dồn dập đưa ra trong vịng 6-7 tháng đầu năm để mua
đơ la nhằm tăng dự trữ quốc tế và tránh cho đồng Việt Nam lên giá so với đô la nhưng việc
hút tiền chậm chạp, đã tạo sức ép cho lạm phát về hai mặt. Một mặt, do tình trạng đơ la hóa

ở Việt Nam vốn khá cao, việc khắc phục lại rất chậm, nên một phần của lượng ngoại tệ có
từ trước và mới vào trong năm có tác dụng thanh tốn trực tiếp. Mặt khác, để tránh cho tiền
đồng khỏi lên giá, tác động không tốt đến xuất nhập khẩu và nhập siêu, Nhà nước sẽ lại
đưa một lượng tiền lớn ra mua ngoại tệ, trong khi các biện pháp “trung hòa” sẽ chậm hơn
và đạt hiệu quả thấp hơn do sự hấp dẫn của lãi suất phát hành trái phiếu yếu, sẽ lặp lại tình
trạng có phiên đấu thầu trái phiếu khơng có người tham dự…
Trong năm 2007 và đầu năm 2008, với nhiều bước thăng trầm của thị trường chứng
khoán, ban đầu với các chính sách để tạo cho thị trường này phát triển một cách quá nóng,
một lượng tiền rất lớn từ các ngân hàng thương mại được đổ vào đây, sau đó là ra thị
trường bất động sản và các thị trường khác nữa. Tiêu dùng tăng làm giá tăng lên nhanh
chóng. Hơn nữa khi thị trường chứng khốn suy giảm một lần nửa các chính sách liên quan
đến cung tiền lại được đưa ra để cứu lấy thị trường này.
Đó là những lí do khi các nhà phân tích cho rằng chính tiền tệ là nguyên nhân lớn
nhất và chủ yếu nhất làm lạm phát tăng cao. Và muốn kìm chế được lạm phát thì biện pháp
đầu tiên và cơ bản nhất là phải có các chính sách tác động làm điều tiết lại lượng cung tiền
trong thời gian tới.

5


Bên cạnh những nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở trên, cịn có các ngun
nhân sau đây tuy sự ảnh hưởng của nó khơng lớn và trực tiếp bằng các nguyên nhân ở
trên
3.4.

Lạm phát do cơ cấu

Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền cơng danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh khơng hiệu quả, vì thế, khơng thể không tăng tiền công cho người lao
động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu

quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
3.5.

Lạm phát do xuất khẩu

Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng
cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
3.6.

Lạm phát do nhập khẩu

Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng
giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
3.7.

Lạm phát đẻ ra lạm phát

Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả
hàng hóa sẽ cịn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng
cung, gây ra lạm phát.

4. Các giải pháp chính sách hiện hành
4.1.

Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ

6



Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có ngun nhân tiền tệ. Mức
cung tiền trong lưu thơng va dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng
cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó,
Chính phủ chủ trương kiểm sốt chặt chẽ tổng phương tiện thanh tốn và tổng dư nợ tín
dụng ngay từ đầu năm. Ngân hang nhà nước thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng
hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được
yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần đảm bảo tính
thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều
kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
4.2.

Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công

Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện
chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về
cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định
cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảmvà yêu cầu các Bộ, địa phương
xác định các cơng trình kém hiệu quả, các cơng trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều
chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ
lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ u cầu các Bộ trưởng, Chủ
tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt
chẽ các hạng mục đầu tưcủa doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các cơng trình đầu
tư kém hiệu quả. Đồng thời tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hồn
thành, những cơng trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh
tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
4.3.

Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo

đảm cân đối cung cầu về hàng hoá

Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chiónh thức của WTO, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng
mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo
7


hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp
phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây
phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng,
Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
4.4.

Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
Cân đối cung cầu hang hoá, nhất là các mặt hang thiết yếu cho sản xuất và đời

sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ làm việc với các Hiệp hội ngành hàng, các
doanh nghiệp kinh doanh các mựt hang thiết yếu như: Lương thực thưc phẩm, thuốc chữa
bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón,… giao nhiệm vụ cho các đơn vị này
phải đảm bảo nguồn hang, đồng thời có trách nhiệm cùng với Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp
qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dù giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết
định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định
giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà
sốt để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân…
Để đảm bảo nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và
kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hang này, Chính phủ quy định lượng gạo xuất

khẩu năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 khơng q 3,2 triệu tấn. Chính phủ
cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên
cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá hối đối linh hoạt với biên độ thích hợp,
phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không
làm ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra
thuận lợi.
8


Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng, phải áp dụng các biện
pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng nhập siêu trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm sốt
nhập khẩu. Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hang Nhà
nước đảm bảo đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý
ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công
tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu, cải cách mạnh thủ tục hành chính…
4.5.

Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng

Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các
cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính
phủ u cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp
phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thong. Chính phủ kêu gọi
mọi người, mọi nhà tiết kiệm triệt để tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải
pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả
của cả nền kinh tế và xã hội.
4.6.

Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận

thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá

Kiên quyết khơng để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để
đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng như: xăng dầu,
sắt thép, thuốc bệnh, xi măng, lương thực thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng bn lậu qua
biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra gia bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán
lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo cho các Tổng công ty nhà nước phải
gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ
về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu
cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và bình ổn thị
trường giá cả.

9


4.7.

Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân
dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội

Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng
nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã mở
rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động
thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội từ ngày 1/1/2008. Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng
tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi,
cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế… Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có cơng đã

được điều chỉnh trợ cấp lên 20%.
Quyết định 289/QĐ – TTg vừa được ban hành về một số chính sách hỗ trợ đồng
bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo va ngư dân. Theo đó, thực hiện
cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ
thuộc diện chính sách và hộ nghèo tai những nơi chưa có điện thắp sáng; điều chỉnh mức
hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000 đồng/người/năm lên 130.000
đồng/người/năm, hỗ trợ 50% giá thẻ bảo hiểm y tế…; hỗ trợ ngư dân về dầu, mua mới,
đóng mới tàu thuyền, hỗ trợ kinh phí bảo hiểm thân tàu…
Chính phủ đã quyết định giư ổn định mức học phí, viên phí và tiếp tục cho vay ưu
đãi học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp miễn phí cho hộ đồng bào bị thiên tai,
thiếu đói. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia,
các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vìng bị thiên tai.
4.8.

Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền

Tổ chức chỉ đạo công tác thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận cao trong
tất cả các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp, trong các tầng lớp nhân dân để thực
10


hiện các mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn phát triển
ổn định. Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin chính xác, ủng hộ các chủ trương,
chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh những thơng tin sai sự thật có
tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội.
4.9.

Nhận xét chung

Các nhóm giải pháp trên vừa được Chính phủ ban hành sau hàng loạt các biện pháp

chỉ mang tính tạm thời, kết quả khơng cao. Để xem xét liệu các chính sách này đã giải
quyết được chưa có lẽ phải chờ thêm một thời gian nữa. Nhưng theo nhiều chuyên gia thì
các giải pháp này có tính đồng bộ cao và đang đi đúng hướng, phù hợp với tình hình hiện
nay của Việt Nam. Một số biện pháp thực hiện trước khi ban hành các giải pháp này do
triển khai chậm, riêng lẻ, khơng đồng bộ nên tình hiệu qủa khơng cao như chính sách tiền
tệ thắt chặt. Khi sử dụng biện pháp này trên lý thuyết là rất hợp lý để liềm chế lạm phát,
nhưng đối với Việt Nam khi thực hiện gây xa nhiều hiệu ứng khơng tốt như việc thanh
tốn của các ngân hang gặp khó khăn, gây ra cuộc đua nâng lãi suất, kéo theo đó là cuộc
đua rút chuyển tiền từ ngân hang có lãi suất thấp sang ngân hàng có lãi suất cao. Khi lãi
suất huy động tăng làm cho lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên, gây trở ngại cho các doanh
nghiệp xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại
cần rà sốt, củng cố cơng tác quản trị ngân hàng , lựa chọn lĩnh vực cho va sản xuất hang
hố và xuất khẩu trực tiếp để khơng ảnh hưởng đến lĩnh vực này cũng như đảm bảo tính
bền vững của tín dụng

11


12


KẾT LUẬN

Lạm phát là một vấn đề kinh tế có ảnh hưởng quan trọng tới đời sống của dân
chúng, đến guồng máy xã hội và chính trị.
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống
lạm phát đạt kết quả, để sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp
đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện
nghiêm túc của các cấp chính quyền. Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải
theo dõi sát tình hình, cập nhật đầy đủ thong tin để có giải pháp phản ứng kịp thời, chính

xác, nhằm một mặt, hạn chế các tác động xấu do những khó khăn khách quan nẩy sinh, mặt
khác, tận dụng được thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của đất
nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao hơn khi có điều kiện thuận lợi.
Ngồi ra, cần nhấn mạnh các giải pháp phải có thời gian để kiểm chứng hiệu lực và
việc chống lạm phát cần có sự góp sức chung tay của tồn thể nhân dân.

13



×