Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Cảm nhận bài thơ Đồng Chí của tác giả Chính Hữu - Văn mẫu 9
Dàn ý cảm nhận của em về bài thơ đồng chí
I. Mở bài: giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng chí.
II. Thân bài: phân tích chi tiết tác phẩm và nêu cảm nhận về bài thơ
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính
a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hồn cảnh xuất thân
- Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí
thắm thiết, sâu nặng của anh và tơi – của những người lính cách mạng:
“Q hương tơi nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện
=> Các anh ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung
du đồi núi, và gặp gỡ nhau ở tình yêu Tổ quốc lớn lao. Các anh là những người
nông dân mặc áo lính – đó là sự đồng cảm về giai cấp.
- Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, mộc
mạc:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
=> Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp
trong một đội ngũ và trở nên thân quen.
b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Điệp từ, hình ảnh sóng đơi mang ý nghĩa tượng trưng => Tình đồng chí, đồng đội
được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng
gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng
kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời
đại.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn
- Mối tính tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng một hình ảnh cụ
thể, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
=> Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau,để cùng
chung nhau cái giá lạnh mùa đơng, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy
gian nan.
- Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo
qua ngịi bút của Chính Hữu:
+ Dịng thơ được tách riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng
dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi tha thiết, tạo một nút nhấn, lắng lại.
+ Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp đẽ, là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình
cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.
=> Dịng thơ thứ bảy có ý nghĩa như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai
của bài thơ, là điểm nhấn, là mạch cảm xúc chung cho tồn bài. Có thể nói, hai tiếng
“Đồng chí” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng trong thơ ca
kháng chiến.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí
a. Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những
tâm tư, nỗi lòng của nhau:
- Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng
mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở.
- Hai chữ “mặc kệ” => Thái độ dứt khốt của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng,
mục đích đã chọn lựa:“Anh trai làng quyết đi giết giặc lập cơng”.
- Hình ảnh “gian nhà khơng” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam
lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại.
- “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương
nhớ người đi lính hay chính những người ra đi ln nhớ về q hương. Thủ pháp
nhân hóa và hai hình ảnh hốn dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những
người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình,
vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
b. Là đồng chí của nhau, họ cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời
qn ngũ
“Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”.
=> Những chi tiết tả thực, hình ảnh sóng đơi đã góp phần tái hiện chân thực những
khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã
cùng nhau gánh vác, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng đội đã giúp họ lên cái
“buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi tỏa sáng nụ cười và càng thương nhau
hơn.
- Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ
chảy dài. Đây là cách thể hiện tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền
cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng chí.
Cái nắm tay ấy cịn là lời hứa hẹn lập cơng.
3. Biểu tượng của tình đồng chí
- Tình đồng đội trong bài “Đồng chí” được Chính Hữu thể hiện thật đẹp qua những
câu thơ cuối bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
- Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng cao cả về cuộc đời người
chiến sĩ.
- Rừng hoang sương muối: gợi sự khốc liệt, khắc nghiệt của thiên nhiên, của chiến
tranh.
- “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:
+“Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện
– là cứng rắn và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mơ mộng – là chất chiến đấu
và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
+ Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng
trăng treo” của Chính Hữu.
+ Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm
hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ và trở thành
nhan đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
III. Kết bài: khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật qua đó nếu cảm nhận
của em về tác phẩm.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 1
"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nơng dân mặc áo lính
trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ
được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đơng 1947, nó đã đi qua
một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dịng thơ, với ngơn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn
nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn
đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ, vào sinh tử có nhau của các anh
bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những
năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người
chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Mở đầu bài thơ với giọng điệu tâm tình
của một tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở
"đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chơn nhau cắt
rốn thân u của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc,
đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và
hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một q trình thương mến: từ "đơi người xa lạ" rồi
"thành đơi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại,
nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
dưới lá qn kì: "Anh với tơi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen
nhau". Đơi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu;
"anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do
và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của
đơi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và
cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ".
"Đôi tri ki" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về
sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm
diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một
tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng
chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra
trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung,
thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn
mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính,
khơng bao giờ có thể qn:
"Ơi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc..."
("Chiều mưa đường số 5" - Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng
nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng
thắm thiết một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca
dao xưa: "Cây đa cũ, bến đị xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính
Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà,
giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày
ra trận?
Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ơm ấp hình bóng q hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở
cả hai phía chân trời, tình u q hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm
nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời
máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ "Bao giờ trở lại", Hồng Trung
Thơng viết:
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình."
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng
chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi
đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải
chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến,
qn và dân ta trải qua mn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu
lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải chân khơng đi lùng giặc chinh",
áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run người vừng trán ướt mồ
hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hơi.
Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày..."
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách.
Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết
dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc
tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến
sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng
ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội được hiểu hiện
bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi
nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh,
để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến dấu. Họ
cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang
sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu.
Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh
bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ
đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo".
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người
lính đi phục kích giặc giữa một đêm đơng "rừng hoang sương muối" thì có "đầu
súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên
không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước
thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. "Đấu súng trăng
treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn
u đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước
thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng
mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - Đóa
hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên
bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng
của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng
thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ
mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng
chí, tình chiến đấu.
Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất
của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu
kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm
tình. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên
chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc
lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
"Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nơng dân mặc áo
lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài
chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng. Năm tháng cuộc đời cứ
trơi, cịn hình ảnh người lính trong những tác phẩm văn chương vẫn vẹn nguyên và
tỏa sáng mãi.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 2
“Đồng chí”! Ơi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết q. Nó biểu hiện thật đầy đủ
tình đồng đội của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kì kháng Pháp.
Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến
đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài
thơ Đồng chí. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc
trong lòng người đọc.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân
đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến chín năm.
Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày" ở
những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lịng u nước, họ đã gặp
nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy
bằng những lời thơ thật cảm động:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ.
Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người
rất “xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để gợi tả
về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khơ cằn,
nghèo khó “nước mặn đồng chua", “đất cày lên sỏi đá". Và họ đã gặp nhau từ “xa
lạ". Thật là thú vị, nhà thơ khơng nói hai người xa lạ mà là “đơi người xa lạ". “Đôi"
là chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau. "Đôi người xa lạ" nghĩa là hai người cùng đi
với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những
phương trời xa cách, những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên cả một sự xa lạ
trong khơng gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người
xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên
nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng
chí":
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ.
Đồng chí!
Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên đầu".
Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình ảnh ấy
cịn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lí tưởng cách mạng chung của quân
đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người xa lạ" ấy đã nảy nở một tình cảm mới
khi họ cùng chiến đấu, cùng một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân thương,
thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp đột ngột.
Từ “đồng chí" lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ
khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật
lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí" - một
tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí", một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong
quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí!".
Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận
bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện "ruộng nương anh gởi bạn
thân cày”, “gian nhà không, mặc kệ gió lung lay” cả chuyện “giếng nước, gốc đa
nhớ người ra lính...''. Từ những lời tâm tình ấy, ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi
người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với q nhà và khi
ra đi hình bóng q hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt
xẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui,
niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
lúc cùng chịu với nhau "từng cơn ớn lạnh", những lúc “rét run người vừng trán ướt
mồ hôi". Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu “áo anh''
có "rách vai”, “quần tơi" có “vài mảnh vá", dẫu trời có "buốt giá" thì miệng vẫn
cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến
đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết
ấy khơng diễn tả bằng lời mà lại thể hiện hằng cách "nắm lấy bàn tay", “thương
nhau tay nắm lấy bàn tay". Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất
của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương, những người chiến sĩ hiểu hiện
tình đồng chí là “bàn tay nắm lấy bàn tay”. Chính đơi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất
cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều
nét tả thực chi tiết mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhớ hình ảnh “anh với tơi" gắn
bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau" nhưng không biết làm sao, chỉ
biết lặng lẽ "tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí
tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng q như thế.
Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài
thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính
canh giăc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng
lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh "Đầu súng trăng
treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và
lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa
mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đầy là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình
cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí, đang nẩy nở, vươn cao, tỏa
sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị
cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu
và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Tồn bộ bài thơ bằng ngơn ngữ cơ đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái qt
cao. Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng
trong quân đội. Ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
cuộc sống trong đời thường những người chiến sĩ, khơng phơ trương, khơng lãng
mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự thành công cho tác
phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách
xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.
Đồng chí! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào.
Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ
nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp
đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng
mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của ảnh bộ đội Cụ Hồ hiện
lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 3
Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng
những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái
quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người
nơng dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.
Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật
tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình cũng là những đồng
đội thân thiết với mình để nói lên những hồn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình
cảm của họ.
Q hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người
nơng dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những
con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm
thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa
những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn
nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một, hai
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Súng bắn chưa quen
Qn sự mươi bài
Lịng vẫn cười vui kháng chiến…
Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét
chung chăn” đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên
và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả.
Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đơi tri kỉ
Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ
“tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối
tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách
riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản
lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.
Có thể xem dịng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ
đáy lịng những người nơng dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một
quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của
tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành cơng ở
thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập
tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan khi toàn dân đang nhất tề đứng
lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh” ở những năm tháng, những thời điểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí
thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ
hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp
bội đối với những người nông dân vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể,
nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại
mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là
Đồng chí mà khơng lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ
“đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là
cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối
cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm,
cụ thể thêm tình đồng đội:
Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…
(Giá từng thước đất)
Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) ở buổi đầu kháng
chiến cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian
nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý
nghĩa ấy.
Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng
vai trị mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tơi và anh) từ
“đồng chí” cịn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự
vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng
chí ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn
độc lập tự do của đất nước. Đồng chí ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận
“sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí ấy là sự sẻ chia và động viên nhau
trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:
Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi
tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về
bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí,
trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi
(Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui
luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình
cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn
với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm
sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.
Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng
thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp
ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết
sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc
sâu ấn tượng rồi để mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải
dài hơn:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương
nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô
cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh
của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa
đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dị nhau. Tình cảm
khơng bồng bột mà đằm sâu.
Chính q trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình
yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hồn cảnh chuẩn bị chiến đấu đặc
điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng
chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của
cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.
Khơng phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là
Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức
họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà
thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng thể
hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo hình ảnh của thiên nhiên trong mát,
của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát
lên tâm hồn trong sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính,
cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh
chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ
lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ
nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó tốt lên chất
lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.
Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính
Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về
người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm,
anh bộ đội kháng chiến cịn bước vào thơ Chính Hữu với “đơi giầy vạn dặm”, chiếc
“áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc
quần có vài mảnh vá, với đơi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm,
đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo
của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngịi bút biết tinh lọc, cơ đúc trong từng chi
tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên
ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 4
Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là một bài thơ hay viết về người lính.Với giọng
thơ bình dị, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu được phác họa đầy tính chân
thực giản dị, nhưng vẫn tốt lên vẻ bi tráng, hào hùng của những người anh hùng
của dân tộc.
Bài thơ ca ngợi tình cảm đồng chí, đồng đội trong gian khổ có nhau chia sẻ với nhau
từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm sóc nhau trong những trận sốt rét rừng. Mọi khó
khăn thử thách có thể xảy ra nhưng nhờ có tình cảm đồng chí mà họ không cảm
thấy cô đơn trống trải.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Trong hai câu thơ này hình ảnh những người lính được tới từ những vùng quê nghèo
khác nhau, bốn phương trời chẳng hẹn mà quen. Họ cùng hội tụ ở đây dưới ngọn cờ
của cách mạng, bởi tình yêu quê hương đất nước. Họ có chung một lý tưởng vĩ đại
muốn giải phóng quê hương khỏi bóng qn thù.
Từ những con người hồn tồn xa lạ nhưng họ đã về đây bên nhau cùng nhau đứng
dưới lá cờ của tổ quốc. Họ tới nơi đây cùng chung một ước mơ, một ý chí, tinh thần,
một mục tiêu phấn đấu. Đó chính là hướng nịng súng của mình tới những kẻ thù để
bảo vệ quê hương và những người thân yêu nơi quê nhà đang chìm trong gian khổ,
lam lũ bởi sự chà đạp của những bọn người mắt xanh mũi lõ từ đâu tới, bóc lột
thống trị đất nước ta. Bọn chúng bắt dân ta phải làm nô lệ, bắt đất nước ta phải sống
cảnh thuộc địa lầm than.
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ
Đồng chí!"
Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, thể hiện họ có chung một mục tiêu chiến đấu,
có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có một kẻ thù chung của tồn dân tộc.
Những người lính thân u của chúng ta ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong
trái tim mình những hồi bão lớn lao, tình yêu quê hương to lớn. Họ sẵn sàng hiến
dâng trái tim và thể xác để bảo vệ dân tộc.
Tình yêu quê hương đất nước lớn hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều
chưa làm xong, những điều còn lo toan trăn trở, nhưng họ quyết tâm ra đi vì lý
tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vì tình yêu quê hương đất nước.
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày..."
Những người nông dân từ khắp các vùng miền của tổ quốc, tiếng nói khác nhau,
phong tục tập quán khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau. Nhưng tất cả đã cống
hiến tuổi trẻ, sức lực trí tuệ của mình để bảo vệ cho được mảnh đất quê hương.
Họ ra đi khi tuổi đời còn đang xuân xanh phơi phới, tâm hồn còn đang tràn đầy
nhiệt huyết, dịng máu đang chảy trong người họ ấm nóng những ước mơ khát khao
của tuổi trẻ.Các anh ra đi có những người con chưa một lần cầm tay cô gái mình u
thích, chưa một lần rung động. Nhưng khi tổ quốc cần thì tất cả sẵn sàng lên đường
chiến đấu.
Họ ra đi như vậy, khơng tiếc tuổi xn của mình chỉ với một mong ước, một nguyện
vọng bảo vệ cho được tổ quốc thiêng liêng, với tinh thần "quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh". Những hy sinh gian khổ của các anh, người đời sau vẫn cịn ghi nhớ
mãi, cơng lao trời biển của các anh không phút giây nào tổ quốc quên ơn.
Đên nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo".
Những câu thơ này thể hiện sự tinh tế của Chính Hữu khi tác giả đã sử dụng hình
ảnh vơ cùng nghệ thuật "đầu súng trăng treo". Chính Hữu đã tinh tế khi vẽ lên một
bức tranh giữa một cái vô cùng lãng mạn đậm chất thơ đó chính là ánh trăng, với
một thứ tượng trưng cho chiến tranh chết chóc, hình ảnh đầu súng trăng treo là hình
ảnh vơ cùng sinh động, tươi đẹp thể hiện tâm hồn lãng mạn của những người chiến
sĩ. Đó là hình ảnh thơ mộng nói lên tinh thần quả cảm của người lính, trong gian
khổ nhưng họ vẫn yêu đời, vẫn lãng mạn
Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp bi tráng, anh hùng vừa thể hiện sự giản dị,
mộc mạc của người chiến sĩ trong chiến tranh. Tác giả Chính Hữu đã phác họa lên
hình ảnh người lính với thâm hồn thanh cao, lãng mạn, nhưng cũng đày chất anh
hùng, bi tráng.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 5
Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần
dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp,
chống Mĩ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến cịn góp phần đắp
xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên khơng có gì khó hiểu
khi vào năm 1948, tác phẩm " Đồng Chí" của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự
bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình
đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những
người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời
chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động
mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.
Trong bài thơ "Đồng Chí", Chính Hữu đã khắc hoạ thành cơng cái chất hiền lành,
tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao
cả của những người lính nơng dân áo vải. Từ moi miền quê trên dải đất quê hương,
những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ Quốc, cùng họp lại với
nhau, trở thành một con người mới: Người Lính. Họ là những người nơng dân từ
những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các
anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất
nước. Từ những người "xa lạ" rồi thành "đơi tri kỉ", về sau thành "đồng chí". Câu
thơ biến hoá 7,8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén
chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ-Tự
phương trời chẳng hen quen nhau". Đơi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ
Đồng chí!"
Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ,
nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trỏ thành biểu
tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con
người xa lại thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái
gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Tấm lịng của họ đối với đất nước thật cảm động khi giặc đến các anh đã gửi lại
người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay
để ra đi kháng chiến. Bình thường vậy thơi, nhưng nếu khơng có một tình u đất
nước sâu nặng khơng thể có một thái độ ra đi như vậy.
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay"
Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nước Tình yêu đất nước, ý thức
dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ, bởi vậy, nông dân hay trí thức chỉ mới nghe
tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Chỉ
đến khi ở nơi kháng chiến người lính nơng dân áo vải lại trở mình, lịng lại bận tâm
lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là
thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính ln hiểu rằng nơi quê nhà người
mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con thơ đang trơng ngóng anh trở về:
"Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính."
Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật,
nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn
với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 6
Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp khơng thể khơng nói đến
Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị,
mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày
kháng chiến gian lao.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: "Trong bài thơ Đồng chí, tơi
muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa
dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng
chí ở đây là tình đồng đội. Khơng có đồng đội, tơi khơng thể nào hồn thành được
trách nhiệm, khơng có đồng đội, có thể nói, tơi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời
tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nơng dân của mình."
Thật vậy, khơng gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà khơng lạnh lẽo. Hơi ấm
tỏa ra từ tỉnh người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người
chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia,
đồng tâm hiệp lực. Họ sống trong tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội.
Những người đồng đội ấy thường là những người "nơng dân mặc áo lính". Điểm
giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với
nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai,
đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất cao
"cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai. phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính
cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính Cụ Hồ". Sự nghiệp
chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách xa lạ về khơng gian nơi sinh sống của
mỗi người. "Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất
nhiều: khơng chỉ là gần nhau về khơng gian mà cịn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng"
(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, Sdđ). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét
thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ
nửa, chăn sui đắp cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự
gần gũi, sẻ chia về cái thân tình ấm áp khơng gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung.
Như thế, tình đồng chí đặt bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái
chung giữa "anh" và "tử".
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: Đồng chí. Nếu khơng kể nhan đề thì đây là lần
duy nhất hai tiếng Đồng chí xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ.
Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của tồn bài. Nó đánh dấu một mốc mới
trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng
đội, tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tỉnh đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa
là khơng chỉ có sự gắn bó thân tình mà cịn là cùng chung chí hướng cao cả. Những
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
người đồng chí - chiến sĩ hịa mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi
nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là
những cá thể, họ cịn có tư cách qn nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết
của "rừng cây", nghĩa là từng người khơng chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chỉ vừa
giản dị, thân mặt lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.
Ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện
tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ
quê hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ q hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng
nước, gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngơi nhà nhớ người
trong lúc gió lung lay và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi
nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói. "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là
thổ lộ nỗi nhớ cồn các về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực,
đậm sâu trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng
đội.
Người lính hiện ra cứng cỏi, dứt khốt lên đường theo tiếng gọi non sơng song tình
q hương trong mỗi người khơng khi "nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê
hương, điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hơi
Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ
đang làm nhiệm vụ chiến đấu:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca
kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút
pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn.
Trên sắc xám lạnh của nên cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh
người lính - khẩu súng - vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực
tiếp đang cầm súng, trong một sự kết hợp bất ngờ, đấu súng và vầng trăng như
khơng cịn khoảng cách xa về khơng gian, để thành: "Đầu súng trăng treo".
Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh
súng tượng trưng cho hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng
tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" mang ý
nghĩa khái. quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu. Nói rộng ra, hai hình ảnh
tương phản sóng đơi với nhau tạo nên biểu tượng về tình thân, ý chí sắt đá mà bay
bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam, chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng,
chung nhau cái rét, cái khổ,... những người lính - những người đồng chí sống, chiến
đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc, Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của
những con người sống và chiến đấu cho hạnh phúc và tự do.
Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí mẫu 7
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, ơng tham gia qn đội năm 1947 và bắt
đầu làm thơ, Chính Hữu viết khơng nhiều nhưng có vị trí rất xứng đáng trong nền
thơ hiện đại Việt Nam, tiêu biểu là bài thơ " Đồng chí" ra đời năm 1948 sau khi
Chính Hữu cùng đồng đội vừa trải qua chiến dịch Việt Bắc thu- đông năm 1947. Bài
thơ đã đề cập tới một thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính,
anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đó là tình
đồng chí.
Bài thơ gồm hai mươi dịng thơ với ngơn ngữ bình dị giọng điệu thủ thỉ tâm tình
cảm xúc dồn nén, " Đồng chí" ca ngợi tình đồng chí gian khổ có nhau, vào sinh ra
tử có nhau của người lính anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi
đánh giặc trong những năm đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Đến với bảy câu thơ đầu tác giả lý giải về cơ sở hình thành tình đồng chí, trước hết
tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngơ xuất thân nghèo khó.
"Q hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Hai câu thơ có cấu trúc sóng đơi đối ứng nhau như lời tâm tình, thủ thỉ về quê
hương anh bộ đội. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó là nơi "nước mặn đồng
chua", "đất cày lên sỏi đá", mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê nơi chôn
rau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị chất thơ mộc
mạc đáng yêu như tâm hồn người trai cày đánh giặc.
Chung cảnh ngộ xuất thân những người lính còn chung lý tưởng chiến đấu và độc
lập tự do của Tổ Quốc:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
Chính điều đó đã khiến họ từ những người xa lạ trở nên thân quen với nhau và tập
hợp trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
"Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Đặc biệt tình đồng chí được nảy nở và kết thành bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ
gian lao cũng như niềm vui trong cuộc đời người lính.
"Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ"
Trong những đêm trường gió lạnh, những người lính cùng đắp chung chăn, có thể
tâm sự cùng nhau lỗi nhớ nhà, nhớ q hương, chính vì vậy từ những người xa lạ họ
đã trở thành tri kỉ.
Sau sáu câu thơ đầu tác giả hạ một dịng đặc biệt: "Đồng chí!" chỉ có 2 chữ và một
dấu chấm than nhưng ý nghĩa vơ cùng hàm xúc, nó tạo thành một nốt nhấn, nó vang
lên như một tiếng gọi tha thiết, xúc động từ đáy lịng, đây là tình cảm được kết tinh
từ mọi cảm xúc, là cao độ của tình bạn, tình người, bắt nguồn từ những tình cảm
mang tính truyền thống, đồng thời cũng là sự gắn kết của bài thơ.
Mười hai câu thơ tiếp theo là những biểu hiện xúc động của tình đồng chí và sức
mạnh của tình cảm ấy ở người lính, tình đồng chí trước hết là sự cảm thơng sâu sa
tâm tư nỗi lịng của nhau:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
"ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn nhà khơng mặc kệ gió lung lay"
Khi tấm chăn chung đắp lại, có bao nhiêu tâm sự của người lính được mở ra, họ kể
cho nhau nghe chuyện ruộng nương, nhà cửa, người thân... đó là những hình ảnh vơ
cùng gắn bó với người lính.
Đằng sau thái độ dứt khốt ra đi ấy những người lính vẫn gắn bó với quê hương:
"Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính"
Giếng nước, gốc đa là hình ảnh hốn dụ chỉ những người ở hậu phương, là người
mẹ già, người vợ, con thơ đang dõi theo, đang nhớ tới người trai cày ra trận, cũng
có thể nói đây là nỗi nhớ của người lính đang ơm ấp hình bóng q hương, bởi
những gì giản dị gần gũi nhất là những thứ dễ gợi nhớ gợi thương nhất.
Những dòng thơ tiếp theo vẫn thể hiện tình đồng chí một cách cảm động, đồng chí
đó là cùng nhau chia sẻ những thiếu thốn gian lao của cuộc đời người lính:
"Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi"
Đến đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt những chi tiết chân thực, đó là
chiếc áo rách, quần vá và đơi chân khơng giày, đó cịn là căn bệnh sốt rét rừng kinh
niên mà người lính phải chịu đựng. tất cả làm nổi bật không gian thiếu thốn của
người lính. Đây cũng là những khó khăn chung của quân và dân ta trong thời kì dầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng điều chủ yếu mà Chính Hữu muốn nói ở
đây khơng phải là cái khổ mà là sự hiểu nhau trong cái khổ. Những câu thơ có cấu
trúc sóng đơi, đối ứng nhau, cộng với các từ "tơi" "anh" cùng xuất hiện đã góp phần
diễn tả sự chia sẻ, sự giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính.
Khó khăn gian khổ thế nhưng họ vẫn sáng ngời nụ cười lạc quan" miệng cười buốt
giá" và xúc động nhất họ vẫn truyền cho nhau hơi ấm của tình thương " thương
nhau... tay", hình ảnh nắm lấy bàn tay thật giản dị nhưng vơ cùng gợi cảm, nó vừa
thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của người lính, vừa gián tiếp nói lên sức mạnh
của tình cảm ấy, dường như chỉ bằng một cử chỉ "tay nắm bàn tay" mà người lính
được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ.
Ba câu thơ cuối bài thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng đẹp của
cuộc đời người lính:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
Trong bức tranh, nổi bật trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là ba hình ảnh
gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng... Ba hình ảnh này đã tạo nên
một bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước hết tính hiện thực được thể hiện
ở khơng gian và tình huống cụ thể, thời gian: đêm nay, khơng gian: rừng hoang
sương muối, cịn tình huống là hồn cảnh những người lính: đứng canh bên nhau
chờ giặc tới, tất cả đều thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh, không những phải chịu
cái rét thấu xương như hàng ngàn mũi kim trâm vào da, thịt mà cái chết cịn dình
dập bên mình bởi có thể trong chốc lát nữa thơi quân thù sẽ nổ súng và biết đâu một
trong số họ sẽ ngã xuống, nhưng tình đồng đội đã tạo lên sức mạnh giúp họ vượt
qua mọi khó khăn gian khổ.
Như vậy, bằng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau, ngơn ngữ cơ
đọng, hình ảnh thơ giản ị, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, bài thơ đồng chí
của Chính Hữu đã thể hiện một cách xúc động tình đồng chí đồng đội sâu nặng
thắm thiết của người lính anh bộ đội cụ hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp, họ chính là những con người cao đẹp nhất, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh
hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.
Mời các bạn xem tiếp tài liệu tại: />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188