Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh giá về tính hợp lí của các quy định này.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.28 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
LTTHC: Luật Tố Tụng Hành Chính

1


Đề bài: Phân tích các trường hợp Tịa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành
chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh giá về tính hợp
lí của các quy định này.
MỞ ĐẦU
Trong pháp luật tố tụng hành chính, cá nhân, cơ quan, tổ chức khi thấy rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại thì có quyền khởi kiện lên Tòa án.
Nhưng trong một số trường hợp, thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện
sẽ ban hành văn bản trả lại đơn khởi kiện. Để làm rõ hơn về vấn đề này, em xin
được chọn đề số 05: Phân tích các trường hợp Tịa án trả lại đơn khởi kiện vụ án
hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh giá về
tính hợp lý của các quy định này. Trong quá trình làm bài có thể có những sai sót,
em rất mong các thầy cơ có thể bỏ qua cho em và em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của thầy cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hồn thiện tốt
hơn về nhận thức của mình đối với mơn Luật Tố Tụng Hành Chính. Em xin chân
thành cảm ơn.
NỘI DUNG
I.
1.

Cơ sở lí luận:
Khái niệm “Khởi kiện vụ án hành chính”:
Khởi kiện vụ án hành chính được hiểu là hành vi tố tụng của cơ quan, tổ
chức, cá nhân yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có


căn cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp đó đang bị xâm phạm bởi quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, danh sách cử tri
2


bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
danh sách cử tri trưng cầu ý dân, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh.

2.

Quy định của LTTHC 2015 về trả lại đơn khởi kiện:
Việc trả lại đơn khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng

hành chính, Tịa án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
1. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện;
b) Người khởi kiện khơng có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ;
c) Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người
khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
d) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật;
đ) Sự việc khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
e) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu
nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này;
g) Đơn khởi kiện khơng có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của
Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều
122 của Luật này;
h) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này
mà người khởi kiện khơng xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tịa án,


3


trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, khơng phải nộp
tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.

II.

Phân tích các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính theo
quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015:
Khi không đồng ý với một quyết định hành chính hay hành vi hành chính của
cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thì cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu giải quyết. Tuy
nhiên trong quá trình xem xét đơn khởi kiện, thẩm phán có quyền trả lại đơn khởi
kiện, các trường hợp đó được quy định tại Khoản 1 Điều 123 LTTHC 2015.

1.

Người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện phải là người có quyền
khởi kiện. Quyền khởi kiện vụ án hành chính phải được trao cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trực tiếp từ quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, danh sách cử tri, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Vì thế, khi chủ thể khởi
kiện không bị xâm phạm trực tiếp bởi đối tượng khởi kiện, Tịa án sẽ trả lại đơn
khởi kiện vì họ khơng có quyền khởi kiện.
Ví dụ: ơng S phát hiện UBND quận A ra quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà M, trong đó có 30m2 thuộc đất cơng nên đã khởi kiện ra tịa án yêu
cầu hủy quyết định trên. Có thể thấy quyết định trên khơng xâm phạm đến quyền

và lợi ích hợp pháp của ơng S nên ơng khơng có quyền khởi kiện.

2.

Người khởi kiện khơng có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ:

4


Khởi kiện là một hành vi tố tụng nên yêu cầu đặt ra với chủ thể thực hiện
hành vi này là phải có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ. Trong một số
trường hợp, người bị xâm phạm từ các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính có thể
khơng có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ như người chưa thành niên,
người bị mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc cơ quan, tổ chức. Theo
quy định, việc khởi kiện của các chủ thể này được thực hiện thông qua người đại
diện theo pháp luật. Do đó, nếu người khởi kiện thuộc các trường hợp trên nhưng
tự mình khởi kiện thì Tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện.
3.

Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi
kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó:
Để có thể thực hiện quyền khởi kiện, pháp luật quy định cơ quan, tổ chức, cá
nhân phải đáp ứng các điều kiện nhất định, vì thế, nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân
khởi kiện khi chưa đáp ứng các điều kiện này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính trong các trường hợp
quy định tại Điều 115 Luật TTHC.
Điều kiện để cá nhân khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri phải
khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Nếu cá nhân chưa khiếu
nại đã khởi kiện vụ án hành chính ra Tịa án là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Đối với

khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật, cơ quan,
tổ chức cá nhân được khởi kiện khi khơng đồng ý với quyết định, hành vi đó mà
không phải khiếu nại trước khi khởi kiện. Tuy nhiên, trong trường hợp đã khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ có thể
khởi kiện khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc khi khơng đồng ý với việc giải quyết khiếu nại. Vì thế, nếu khiếu nại chưa

5


được giải quyết và chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà đã khởi kiện, Tòa án
sẽ trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Ví dụ: ngày 10/10/2018 bà A khiếu nại Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện X. Đơn được thụ lý vào
ngày 15/20/2018, đến ngày 20/20/2018 bà A khởi kiện ra Tòa án yêu cầu hủy quyết
định trên. Tịa án có thẩm quyền phải trả lại đơn khởi kiện cho bà A vì bà A chưa đủ
điều kiện khởi kiện vụ án hành chính do chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo
quy định và khiếu nại chưa được giải quyết.
4.

Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật:
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Nhằm đảm bảo tính có hiệu lực của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân khơng
thể khởi kiện trong trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết
định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.

5.


Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Tòa án trong phạm vi quyền hạn của mình chỉ có thể khiếu kiện hành chính
được pháp luật quy định. Các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án được quy định tại Điều 30 Luật TTHC. Thế nhưng, khởi kiện là hành vi
pháp lý đơn phương của cơ quan, tổ chức, cá nhân, vì thế trong nhiều trường hợp
cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện các sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tịa án như quyết định hành chính mang tính quy phạm, hành vi hành chính
mang tính nội bộ, quyết định kỷ luật cách chức đối với công chức... Khi nhận đơn

6


khởi kiện đối với các đối tượng này Tòa án phải trả lại đơn vị sự việc không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
6.

Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại
trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này:
Theo quy định hiện hành, khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm từ quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn con đường khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án
hành chính ra Tịa án có thẩm quyền. Một vụ việc khơng thể song song cùng được
giải quyết bởi hai cơ quan khác nhau nên cơ quan, tổ chức, cá nhân phải lựa chọn
một trong hai phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có trường hợp cơ quan, tổ chức,
cá nhân đồng thời vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, vừa
khởi kiện vụ án hành chính ra Tịa án có thẩm quyền. Điều 33 LTTHC 2015 quy
định cụ thể cách thức xử lý đối với vấn đề này, theo đó, Tịa án phải u cầu người
khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết và có văn bản thơng báo cho Tịa án. Trong

trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải
quyết khiếu nại, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.

7.

Đơn khởi kiện khơng có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật
này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều
122 của Luật này:
Khi thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính, đơn khởi kiện phải được
người khởi kiện đúng quy định về nội dung và hình thức. Khi xem xét đơn khởi
kiện nếu thấy đơn khởi kiện khơng có đủ các nội dung quy định tại Khoản 1 Điều
118 của Luật này thì Thẩm phán thơng báo bằng văn bản và nêu rõ những vấn đề
cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thời
7


hạn 10 ngày kể từ ngày người khởi kiện nhận được thơng báo của Tịa án. Hết thời
hạn này mà họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán
trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.

8.

Hết thời hạn được thông báo quy định tại Khoản 1 Điều 125 của Luật này mà
người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí cho Tịa án,
trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, khơng
phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng:
Bên cạnh đáp ứng các điều kiện khởi kiện, việc hoàn thành, nghĩa vụ nộp tiền
tạm ứng án phí là điều kiện đủ để Tòa án thụ lý giải quyết vụ án. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 125 về thụ lý vụ án, sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo, nếu xét thấy thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án thì Thẩm phán phải

thơng báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn
10 ngày kể từ ngày nhận được thơng báo nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện
phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai cho Tòa án. Như vậy, nếu quá thời hạn
này mà người khởi kiện khơng xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tịa
án, Tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trừ trường hợp người khởi
kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.1
Ví dụ: ngày 10/10/2018, ông A nhận được thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án
phí hành chính nhưng đến 29/10/2018 ơng A vẫn khơng xuất trình biên lai nộp tiền
tạm ứng án phí cho Tịa án, Tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho ông A.

1 Nguyễn Cảnh Hợp (2019), Giáo trình Luật tố tụng Hành Chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.

8




Tuy nhiên, khơng phải bao giờ việc Tịa án trả lại đơn khởi kiện cũng là đúng. Trên
thực tế có rất nhiều trường hợp tòa án đã trả lại đơn khởi kiện trái với quy định của
pháp luật. Chính vì vậy, Luật cũng quy định đương sự có quyền khiếu nại về việc
trả lại đơn khiếu nại. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được văn bản trả lại đơn khởi kiện do Tòa án trả lại, người khởi kiện có quyền

III.

khiếu nại với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn kiện.
Đánh giá về tính hợp lí của các quy định pháp luật trong trường hợp Tịa án




trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính:
Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 123 LTTHC: “Sự việc đã được giải quyết
bằng bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bản án, quyết
định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành. Theo quy định của pháp luật, nếu sự việc đã được giải quyết bằng bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án rồi thì các đương sự chỉ có
thể u cầu tịa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm chứ khơng được tiếp tục khởi kiện vụ



án hành chính.
Nội dung quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 123 LTTHC: “Người khởi kiện lựa
chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định
tại Điều 33 của Luật này” là hợp lí vì việc quy định thẩm quyền giải quyết theo sự
lựa chọn của người khởi kiện đã tạo điều kiện cho người khởi kiện tự do lựa chọn
cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhằm bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp



của họ.
“Đơn khởi kiện khơng có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này
mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của
Luật này” theo điểm g Khoản 1 Điều 123 LTTHC. Việc quy định để Tịa án thụ lý
vụ án thì đơn kiện phải đảm bảo các nội dung theo quy định tại Điều 118 LTTHC là
phù hợp vì nếu nội dung của đơn khởi kiện khơng đủ thì việc giải quyết vụ án của
9



Tịa sẽ khơng đạt được hiệu quả, dẫn đến phán quyết khơng đảm bảo sự chính xác,


khách quan.
Điểm h Khoản 1 Điều 123 LTTHC quy định: “Hết thời hạn được thông báo quy
định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người khởi kiện khơng xuất trình biên
lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tịa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn
nộp tiền tạm ứng án phí, khơng phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính
đáng”. Quy định sự kiện nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm của người khởi kiện là
căn cứ thụ lý vụ án hành chính là cần thiết để đề cao trách nhiệm của người khởi
kiện, hạn chế việc lạm dụng quyền khởi kiện vụ án hành chính.

IV.

Một số điểm bất cập và kiến nghị hồn thiện quy định pháp luật trong trường
hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính:
Mặc dù LTTHC đã có những hồn thiện rõ rệt, song các quy định về trường
hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính vẫn cịn tồn tại một số bất cập.
Sau đây, em xin trình bày các hạn chế đó và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy
định pháp luật hiện hành như sau:



Quy định sự việc khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án là một trường hợp
phức tạp, vì vậy pháp luật cần quy định cụ thể hơn nhằm bảo đảm sự thuận tiện
trong việc áp dụng pháp luật và sự thống nhất giữa các quy định về quyền khởi kiện




của cá nhân, tổ chức với thẩm quyền của tồ án.
Hết thời hạn được thơng báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật TTHC mà
người khởi kiện khơng xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tịa án, trừ
trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, khơng phải nộp
tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng là hợp lí, song khơng nên quy định sự
kiện người khởi kiện khơng xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho tồ án
trong thời hạn pháp luật quy định là căn cứ để toà án trả lại đơn khởi kiện vụ án
10


hành chính vì sự kiện này khơng đủ để khẳng định rằng người khởi kiện đã không
nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm trong thời hạn luật định. Do đó, pháp luật cần quy
định theo hướng: Tồ án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp
người khởi kiện khơng nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm trong thời hạn pháp luật
quy định; và toà án có trách nhiệm thu tiền tạm ứng án phí sơ thẩm. Quy định như
vậy cũng để giảm bớt thủ tục xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho người
khởi kiện và giúp tồ án có thể thụ lí vụ án hành chính nhanh hơn.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về các quy định của Luật tố tụng hành chính 2015 về trường
hợp Tồ án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính, có thể thấy Luật đã bổ sung,
hồn thiện thêm một số trường hợp tịa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính.
Điều đó giúp cho các quy định của pháp luật được phù hợp hơn trên thực tế. Song,
Luật vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Do đó, cần tiếp tục hồn thiện các quy định
của pháp luật hiện hành về trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính
là việc cần tính đến trong thời gian tới của các nhà lập pháp Việt Nam.

11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Quốc hội (2015), Luật tố tụng Hành Chính.
Quốc hội (2010), Luật tố tụng Hành Chính.
Nguyễn Cảnh Hợp (2019), Giáo trình Luật tố tụng Hành Chính Việt Nam,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật

4.

gia Việt Nam.
Nguyễn Cảnh Hợp (2018), Giải thích và bình luận Luật tố tụng Hành chính

5.

năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
Vũ Thư, Lê Thương Huyền (2016), Bình luận khoa học Luật tố tụng Hành

6.

Chính năm 2015, Nxb. Hồng Đức.
Dương Phúc Hiếu (2016), So sánh Luật tố tụng Hành chính năm 2015 với

7.

Luật tố tụng hành chính năm 2010, Nxb. Tư pháp.
Nguyễn Ngọc Điệp (2016), Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hành
chính và áp dụng Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (Biên soạn theo Luật

Tố tụng hành chính năm 2015 và văn bản mới đến năm 2016), Nxb. Lao

8.

động.
mở ngày 24/11/2020.

12



×