Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích các trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh giá tính hợp lí của các quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.56 KB, 12 trang )

I-MỞ ĐẦU
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để u cầu Tịa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, cá nhân, tổ chức có quyền
khởi kiện khi họ bị tác động bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính,…
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ (trừ một số trường hợp). Ngoài
ra, nếu cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất khả năng nhận thức làm chủ
hành vi thì họ có thể thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp
luật. Tuy nhiên, khơng phải cứ có u cầu khởi kiện thì Tịa án buộc phải thụ lí mà
Tịa án phải xem xét tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện và sự phù hợp với thẩm
quyền của mình để quyết định thụ lí hay từ chối. Nếu thuộc các trường hợp phải trả
lại đơn khởi kiện thì thẩm phán phải trả lại đơn khởi kiện. Vì vậy, để làm rõ hơn
các trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện, em xin lựa chọn đề tài số 7: “ Phân
tích các trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính theo quy định
của Luật tố tụng hành chính năm 2015 và đánh giá tính hợp lí của các quy định
này”.
II-NỘI DUNG
1.Khởi kiện vụ án hành chính
Khởi kiện vụ án hành chính là quyền tự định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ cho rằng quyền
và lợi ích đó bị xâm phạm bởi việc thực thi quyền hành pháp. Đối với cá nhân là
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự hoặc mất khả năng nhận thức làm chủ hành vi thì họ có thể thực
hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp luật.


Như vậy, ta có thể thấy nội dung cơ bản của khởi kiện vụ án hành chính là u
cầu tịa án có thẩm quyền xem xét thụ lí vụ án. Về bản chất thì vụ án hành chính
chỉ có thể phát sinh khi được tịa án có thẩm quyền thụ lí và việc thụ lí phải căn cứ
vào những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hành chính. Nếu tịa án khơng thụ
lí thì mục đích chính của việc khởi kiện là được giải quyết những tranh chấp hành


chính khơng thể thực hiện được. Hơn nữa, việc khởi kiện vụ án hành chính chỉ có
thể được thực hiện khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc quy
định một cách cụ thể các điều kiện khởi kiện sẽ giúp hạn chế tình trạng khởi kiện
một cách tùy tiện và gây cản trở không cần thiết trong quá trình thực thi quyền
hành pháp.
2. Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính
Thứ nhất, về đối tượng khởi kiện.
*Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính. Các quyết định hành chính là văn bản áp dụng pháp luật
trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, cịn hành vi hành chính là hành vi
gắn với công vụ, nhiệm vụ, chức vụ, chức danh của cán bộ, công chức, viên chức,
cá nhân tổ chức được giao hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Các quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị kiện phải ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và không thuộc các trường hợp khơng được kiện
như thuộc bí mật nhà nước trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao;
quyết định hành vi của tòa án trong việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính,
xử lí hành vi cản trở hoạt động tố tụng hay các quyết định, hành vi hành chính
mang tính chất nội bộ.


*Quyết định kỉ luật buộc thôi việc công chức: Là những quyết định kỉ luật buộc
thôi việc đối với phần lớn công chức trong bộ máy nhà nước từ Tổng cục trưởng
trở xuống và tương đương.
*Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh: Quyết
định này khơng bị khiếu nại mà chỉ có thể giải quyết theo con đường kiện ra Tòa
án.
*Danh sách cử tri: gồm danh sách bầu cử đại biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân,
trưng cầu ý dân và phải được khiếu nại trước khi kiện ra tòa án.
Thứ hai, về chủ thể khởi kiện: Chủ thể khởi kiện phải là người có quyền khởi kiện
và phải có năng lực hành vi tố tụng hành chính.

Thứ ba, về phương thức khởi kiện: Đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính thì người khởi kiện có thể chọn một trong ba cách sau: Khởi kiện mà không
khiếu nại; Khởi kiện sau khi khiếu nại lần 1, sau khi nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại lần 1 hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần 1; Khởi kiện sau
khi khiếu nại lần 2, sau khi nhân được quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 hoặc
sau khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần 2. Đối với quyết định giải quyết khiếu
nại về xử lí vụ việc cạnh tranh thì khơng được khiếu nại mà khởi kiện ra tịa án,
Đối với danh sách cử tri thì buộc phải khiếu nại trước khi khởi kiện.
Thứ tư, về thời hiệu khởi kiện (điều 116 LTTHC 2015): thời hiệu là 1 năm kể từ
ngày nhận được hoặc biết về quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
định kỉ luật buộc thôi việc; 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết
khiếu nại về xử lí vụ việc cạnh tranh; từ ngày nhận được thông báo kết quả giải
quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết
khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan
lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. Trong trường hợp đương sự


khiếu nại theo quy định pháp luật thì thời hiệu là 1 năm kể từ ngày nhận được
quyết định giải quyết khiếu nại lần 1, lần 2 hoặc khi hết thời hạn giải quyết khiếu
nại lần 1, lần 2.
Thứ năm, vụ việc được khởi kiện thuộc thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của
tịa án.
Thứ sáu, người khởi kiện khơng đồng thời là người khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại.
3. Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Luật tố
tụng hành chính 2015
Vụ án hành chính chỉ có thể phát sinh sau khi được Tịa án thụ lí. Việc thụ lí vụ
án được hiểu là hành vi tố tụng do Tịa án có thẩm quyền thực hiện theo những căn
cứ, hình thức được pháp luật tố tụng hành chính quy định nhằm chính thức chấp
nhận giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính của cá

nhân, tổ chức. Tuy nhiên, nếu rơi vào các trường hợp quy định tại khoản 1điều 123
Luật tố tụng hành chính 2015 thì tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện mà khơng thụ lí, cụ
thể:
Thứ nhất, người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện. Có thể nói, có quyền
khởi kiện là một trong những điều kiện đầu tiên phải đáp ứng nếu người đó muốn
khởi kiện một vụ án hành chính. Nếu người đó khơng có quyền khởi kiện thì ngay
từ đầu, họ đã khơng được khởi kiện. Căn cứ theo quy định tại điều 115 Luật tố tụng
hành chính 2015 thì người có quyền khởi kiện bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân
khi mà họ khơng đồng ý hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại nhưng đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại hoặc khơng đồng tình với kết
quả giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính,
quyết định kỉ luật buộc thơi việc (trừ một số trường hợp); các tổ chức, cá nhân


không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lí vụ việc cạnh
tranh; cá nhân có quyền khởi kiện về danh sách cử tri trong trường hợp đã khiếu
nại những đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại hoặc không đồng ý với việc giải
quyết khiếu nại đó. Tổ chức ở đây có thể là tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc tổ
chức khơng có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân hoặc cộng đồng dân
cư,… cá nhân có thể là cơng dân Việt Nam, cơng dân nước ngồi, người khơng
quốc tịch.
Như vậy, để có thể đảm bảo được việc khởi kiện sẽ được tịa án thụ lí thì trước
tiên cần phải xem xét xem có quyền khởi kiện hay khơng. Và đương nhiên, khi
xem xét để quyết định có thụ lí vụ án hành chính hay khơng thì trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện
và ra các quyết định, trong đó có quyết định trả lại đơn khởi kiện nếu thuộc một
trong các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 123 Luật TTHC 2015. Khi xem xét
mà thấy rằng, người khởi kiện là người khơng có quyền khởi kiện thì tịa án sẽ ra
quyết định trả lại đơn khởi kiện bởi khơng có quyền khởi kiện đã vi phạm vào một
trong các điều kiện khởi kiện.

Thứ hai, người khởi kiện khơng có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy
đủ. Người khởi kiện theo pháp luật tố tụng hành chính phải là người có quyền khởi
kiện và việc định đoạt việc khởi kiện phải là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng
hành chính đầy đủ. Theo quy định tại điều 54 Luật TTHC 2015 thì năng lực pháp
luật tố tụng hành chính là khả năng có quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
và năng lực tố tụng hành chính của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân là như nhau. Còn
năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ trong tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố
tụng hành chính.


Như vậy, nếu năng lực tố tụng hành chính của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân là
như nhau thì năng lực hành vi tố tụng hành chính là khơng giống nhau. Cụ thể sẽ
có những trường hợp có năng lực hành vi tố tụng hành chính khơng đầy đủ và
trường hợp khơng có năng lực hành vi tố tụng hành chính. Theo quy định thì người
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính bao gồm cá nhân từ đủ 18 tuổi và có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ; đối với người chưa thành niên, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc mất khả năng nhận thức làm chủ hành vi hoặc đương
sự là cơ quan, tổ chức thì thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng
hành chính được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật. Nếu người
khởi kiện là người khơng có hoặc khơng có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành
chính thì họ khơng thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong tố tụng hành chính, vì thế nếu rơi vào trường hợp người khởi kiện khơng có
năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ thì tịa án sẽ ra quyết định trả lại đơn
khởi kiện.
Thứ ba, trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người
khởi kiện đã khởi kiện đến tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Trong trường hợp này được hiểu là người khởi kiện đã tiến hành việc khởi kiện đến
tòa án khi chưa đủ các điều kiện khởi kiện. Ví dụ như trong trường hợp khởi kiện
một quyết định hành chính nhưng trước đó người này đã thực hiện việc khiếu nại

đến người có thẩm quyền nhưng chưa nhận được quyết định giải quyết khiếu nại
hoặc chưa hết thời hạn khiếu nại, hoặc trong trường hợp pháp luật bắt buộc phải
thực hiện thủ tục khiếu nại trước khi tiến hành khởi kiện đến tòa án như trường hợp
khởi kiện đối với danh sách cử tri, tuy nhiên người khởi kiện chưa thực hiện thủ
tục khiếu nại mà đã khởi kiện đến tòa án, trường hợp này cũng sẽ bị tòa án trả lại
đơn khởi kiện để thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật.


Thứ tư, sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của tịa án đã
có hiệu lực pháp luật. Về nguyên tắc, bản án hay quyết định của tịa án đã có hiệu
lực pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tơn trọng và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của tòa án phải
chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Như vậy, khi đã có bản án hoặc quyết định của
tịa án có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khơng
được khởi kiện u cầu tịa án giải quyết lại vụ việc đó. Tuy nhiên, theo quy định
tại điều 144 Luật TTHC 2015 thì khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án,
đương sự khơng có quyền khởi kiện tịa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi
kiện này khơng có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị
kiện và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp bị đình chỉ theo quy
định tại các điểm b, c và e khoản 1 Điều 123, điểm b và điểm đ khoản 1 Điều 143
của Luật này và trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, không phải
mọi trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của tịa án đã
có hiệu lực pháp luật thì đều khơng được khởi kiện lại mà vẫn có những trường
hợp được quyền u cầu tịa án giải quyết lại. Ngồi những trường hợp đó, nếu
khơng đồng ý với bản án, quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật thì có thể
tiến hành khiếu nại theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm.
Thứ năm, sự việc khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án. Việc xác
định tịa án có thẩm quyền phụ thuộc vào nhiều căn cứ, bao gồm thẩm quyền theo
vụ việc, thẩm quyền lãnh thổ, thẩm quyền theo cấp. Đối với thẩm quyền theo vụ

việc, khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án được quy định tại điều 30 Luật
TTHC 2015 bao gồm các quyết định hành chính, hành vi hành chính khơng thuộc
các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 điều 30 Luật TTHC 2015 và
không phải quyết định của chính phủ, thủ tướng chính phủ; quyết định kỉ luật buộc


thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống;
Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
Khiếu kiện danh sách cử tri. Khi sự việc khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của
tịa án nói chung thì tịa án đã nhận đơn khởi kiện tiến hành trả lại đơn khởi kiện
theo quy định tại điểm đ khoản 1 điều 123 Luật TTHC 2015. Còn đối với trường
hợp sự việc vẫn thuộc thẩm quyền của tòa án nói chung nhưng tịa án nhận đơn
khơng có thẩm quyền mà thẩm quyền thuộc về tịa án khác thì tịa án nhận đơn cần
tiến hành việc chuyển đơn đến tòa án có thẩm quyền để giải quyết. Đối với trường
hợp sự việc vẫn thuộc thẩm quyền của tịa án nói chung nhưng khơng phải vụ án
hành chính thì tịa án nhận đơn hướng dẫn người khởi kiện thực hiện lại việc khởi
kiện.
Thứ sáu, người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết
khiếu nại trong trường hợp quy định tại điều 33 Luật TTHC 2015. Trường hợp
này là trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại tịa án có
thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại. Trong trường hợp này, người khởi kiện phải lựa chọn cơ quan giải quyết và
phải thông báo bằng văn bản cho tòa án. Nếu người khởi kiện lựa chọn người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết thì tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và các
điều kiện kèm cho người khởi kiện. Khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại hoặc
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có thể khởi kiện vụ án hành
chính vụ án tới tịa án có thẩm quyền.
Thứ bảy, đơn khởi kiện khơng có đủ nội dung quy định tại khoản 1 điều 118
Luật TTHC 2015 mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy
định tại điều 122 của Luật TTHC 2015. Yêu cầu về nội dung và hình thức của

đơn khởi kiện mà một trong những yêu cầu quan trọng. Bởi lẽ thơng qua đó, các cơ
quan, tổ chức, cá nhân biểu đạt chính thức những u cầu của mình trước tòa án và


cung cấp những thông tin cần thiết. Nếu đơn khởi kiện khơng có đầy đủ nội dung
chính như ngày tháng năm làm đơn, tòa án được yêu cầu, tên, địa chỉ của người
khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nội dung của
các đối tượng khởi kiện, nội dung giải quyết khiếu nại (nếu có), u cầu đề nghị
tịa án giải quyết, cam đoan về việc khơng đồng thời khiếu nại thì tịa án sẽ khơng
có đủ những thơng tin để thụ lí giải quyết vụ án.
Thứ tám, hết thời hạn được thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 125 của
Luật này mà người khởi kiện khơng xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí
cho Tịa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án
phí, khơng phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng . Việc thực
hiện nghĩa vụ nộp án phí là một trong nghĩa vụ đầu tiên, mặc dù nó khơng chi phối
đến việc thụ lí vụ án hành chính nhưng việc nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là cần
thiết. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng phải nộp tiền tạm ứng án phí mà
có những trường hợp được miễn, không phải nộp tiền tạm ứng án phí như người
khởi kiện là người có cơng với cách mạng, cha mẹ của liệt sĩ,…
4. Đánh giá các quy định về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện và kiến nghị
hoàn thiện
Mặc dù pháp luật hiện hành có quy định các trường hợp trả lại đơn khởi kiện
được trình bày theo phương pháp liệt kê các trường hợp, điều này có một ưu điểm
lớn đó là dễ áp dụng trên thực tế. Tuy nhiên, việc liệt kê như vậy đã dẫn đến một
thực trạng đó là có sự chồng chéo giữa các quy định, hơn nữa, có những quy định
cịn chưa thực sự hợp lí với thực tiễn áp dụng, khơng có một cách hiểu đồng nhất
dẫn đến khó áp dụng một cách thống nhất.


Thứ nhất, đối với quy định tại điểm c khoản 1 điều 123 Luật TTHC 2015 thì tịa

án sẽ trả lại đơn khởi kiện nếu pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng
người khởi kiện đã khởi kiện đến tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Vậy hiểu thế nào là thiếu điều kiện khởi kiện hay nói cách khác là chưa đủ điều
kiện khởi kiện? Có hai cách hiểu: thứ nhất là trường hợp người khởi kiện chưa gửi
đủ các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình theo quy định nên thẩm phán
chưa xác định được người khởi kiện có đáp ứng được đủ điều khiện khởi kiện hay
không. Nếu hiểu như vậy sẽ dẫn đến hiện tượng tùy tiện trong việc trả lại đơn khởi
kiện. Thứ hai là hiểu theo nghĩa chưa có đủ các điều kiện về chủ thể khởi kiện như
quyền khởi kiện, năng lực hành vi tố tụng hành chính; thời hiệu khởi kiện, thẩm
quyền của tịa án…1Nếu hiểu như vậy thì quy định này đã chồng chéo với một số
trường hợp trả lại đơn khởi kiện khác được quy định trong điều này. Cụ thể như
chưa có đủ các điều kiện về chủ thể khởi kiện như quyền khởi kiện, năng lực hành
vi tố tụng hành chính được quy định tại điểm a, b khoản 1 điều 123 Luật TTHC
2015 hay chưa đủ điều kiện về mặt nội dung của đơn khởi kiện nhưng lại được quy
định tại điểm g khoản 1 điều 123 hay điều kiện về thẩm quyền của tòa án lại được
quy định tiếp tại điểm đ khoản 1 điều 123; điều kiện về việc người khởi kiện không
được đồng thời là người gửi đơn khiếu nại đến chủ thể có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại,… Để có một cách hiểu thống nhất để khơng bị áp dụng một cách chồng
chéo thì nên có những văn bản pháp luật hướng dẫn, giải thích cụ thể hơn về vấn
đề này.
Thứ hai, theo quy định tại điểm đ khoản 1 điều 123 Luật TTHC 2015 thì tịa án
trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp sự việc khơng thuộc thẩm quyền của tịa án.
Việc quy định như vậy là chưa hợp lí. Bởi lẽ, tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện trong
1 Khởi

kiện và thụ lí vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành
chính Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đổng Thị Ninh


trường hợp sự việc khơng thuộc thẩm quyền của tịa án nói chung, nhưng trong

trường hợp sự việc vẫn thuộc thẩm quyền của tịa án nói chung nhưng tịa án nhận
đơn khởi kiện khơng có thẩm quyền mà tịa án khác có thẩm quyền, như thẩm
quyền theo cấp hoặc theo lãnh thổ thì tịa án nhận đơn khởi kiện sẽ chuyển đơn
khởi kiện tới tịa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện theo quy định
tại điểm c khoản 3 điều 121 Luật TTHC 2015 chứ không trả lại đơn khởi kiện. Cần
quy định cụ thể hơn vấn đề này để khơng gây ra tình trạng tùy tiện trả lại đơn khởi
kiện.
Thứ ba, theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 123 Luật TTHC 2015 tòa án sẽ trả
lại đơn khởi kiện nhưng sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, lại có trường hợp quyết định đình chỉ vụ án
hành chính theo quy định tại các điểm b, c và e khoản 1 Điều 123, điểm b và điểm
đ khoản 1 Điều 143 của Luật này và trường hợp khác theo quy định của pháp luật
mặc dù đã có hiệu lực pháp luật nhưng đương sự vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu
tịa án giải quyết lại vụ án đó. Vì thế quy định này cần bổ sung thêm trường hợp
ngoại lệ này.
III-KẾT LUẬN
Trả lại đơn khởi kiện tức là tòa án đã chính thức khơng tiếp nhận để giải quyết
các tranh chấp hành chính của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, điều này có thể ảnh
hưởng đến quyền lợi của họ nên khi quyết định trả lại đơn khởi kiện, tòa án phải
căn cứ vào những quy định của pháp luật cụ thể, tránh tình trạng tùy tiện. Mặt
khác, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng cần hiểu biết hơn các quy định của pháp
luật để có thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.


IV-DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Luật tố tụng hành chính 2015;
2, Luật khiếu nại 2011;
3, Giải đáp số 02/2016 GĐ-TANDTC;
4, Giải đáp số 02/2018 GĐ-TANDTC;
5, Giáo trình Luật tố tụng hành chính, Trường Đại học Luật Hà Nội;

6, Khởi kiện và thụ lí vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành
chính Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đổng Thị Ninh.



×