BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Bộ môn kinh tế thương mại
***
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG
1
Hà nội tháng 2/2006
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Bộ môn kinh tế thương mại
***
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG
Chủ biên: TS. Ngô Xuân Bình
Những người tham gia biên soạn: TS. Ngô Xuân Bình
TS. Thân Danh Phúc
TS. Hà Văn Sự
2
Hà nội tháng 2/2006
CHƯƠNG 1: CHƯƠNG MỞ ĐẦU
1.1. BẢN CHẤT KINH TẾ CỦA THƯƠNG MẠI
1.1.1. Lịch sử về sự ra đời của thương mại
Thương mại là một phạm trù kinh tế ra đời và tồn tại gắn liền với sự ra đời và tồn
tại của Kinh tế hàng hóa.
Về mặt lịch sử, kinh tế loài người đã trải qua hai quá trình là Kinh tế tự nhiên và
kinh tế hàng hóa. Xã hội loài người bắt đầu bằng kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế
tự nhiên con người sản xuất ra các sản phẩm với mục đích phục vụ cho nhu cầu của
bản thân họ,vì thế chưa có trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Trao đổi hàng hóa chỉ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa khi phân công lao
động xã hội đã tương đối phát triển và chế độ tư hữu hình thành. Trong lịch sử phát
triển loài người trao đổi hàng hóa xuất hiện vào giai đoạn cuối của xã hội cộng đồng
nguyên thủy và thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Lúc đầu trao đổi mang tính
ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp theo hình thức hàng đổi hàng (H-H’).
Khi xã hội xuất hiện tiền tệ thì từ đó trao đổi được tiến hành thông qua môi giới
của tiến tệ (H - T - H’) và lưu thông hàng hóa ra đời.
Lưu thông hàng hóa là hình thái phát triển của trao đổi hàng hóa, đó là sự trao
đổi hàng hóa thông qua môi giới của tiền tệ.
Lưu thông hàng hóa ra đời làm cho quá trình mua bán trao đổi dễ dàng hơn,
thuận tiện , mở rộng hơn về không gian và thời gian. Nó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển của trao đổi và đưa đến sự phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp.
Tuy nhiên sự tách rời giữa quá trình mua bán cũng làm xuất hiện mầm mống của
mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Do vậy cũng làm nảy sinh những điều kiện dẫn
tới khủng hoảng sản xuất và tiêu thụ.
Trong trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, chủ thể của hoạt động
trao đổi là những người sản xuất và những người tiêu dùng, không có sự tham gia của
những người trung gian (thương nhân) . Mục đích của hoạt động trao đổi là giá trị sử
dụng.
Sự phát triển ngày càng cao của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một
tầng lớp xã hội mới, đó là những người thương gia. Khác với những người sản xuất
trực tiếp và những người tiêu dùng trực tiếp, thương gia bỏ tiền ra mua hàng hóa của
những người sản xuất, sau đó bán lại để kiếm lời trong hoạt động buôn bán. Hoạt
3
động kinh tế của những người thương gia thông qua mua bán để kiếm lời chính là
hoạt động thương mại (T - H - T').
Khác với trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, hoạt động thương
mại bắt đầu bằng tiền với hành vi mua và kết thúc cũng bằng tiền với hành vi bán.
mục đích của hoạt động thương mại không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị cụ thể
là nhằm vào lợi nhuận.
Lưu thông hàng hóa ra đời đã phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp, ngược lại
thương mại ra đời không đưa đến sự phủ định lưu thông mà trái lại nó làm cho lưu
thông hàng hóa phát triển ở một trình độ cao hơn.
Như vậy, sự xuất hiện của hoạt động thương mại gắn liền với sự xuất hiện của
thương gia. Về lịch sử, những người thương gia xuất hiện vào cuối chế độ công xã
nguyên thủy và đầu chế độ phong kiến
Những hoạt động thương mại lúc đầu chỉ giới hạn chủ yếu trong lĩnh vực trao đổi
các sản phẩm hữu hình (thương mại hàng hóa ), sau đó được mở rộng sang các sản
phẩm vô hình (thương mại dịch vụ), và trong nền kinh tế hiện đại, thương mại còn
liên quan rất chặt chẽ với các hoạt động đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Những người thương gia ngày càng đông trong xã hội như là kết quả tất yếu của
quá trình phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng và chuyên sâu . Khi đó, một
bộ phận lao động xã hội tách khỏi sản xuất, độc lập với sản xuất, chuyên làm chức
năng lưu thông làm xuất hiện một ngành kinh tế mới đó là ngành Thương mại.
Ngành thương mại ra đời như là kết quả tất yếu của sự phát triển trao đổi và phân
công lao động xã hội. Phân công lao động lần thứ nhất bằng việc tách chăn nuôi ra
khỏi trồng trọt đã thúc đẩy sự phát triển của trao đổi và tiền tệ xuất hiện trong giai
đoạn này. Phân công lao động lần thứ hai bằng việc tách thủ công nghiệp khỏi nông
nghiệp, sản xuất hàng hóa hình thành. Phân công lao động lần thứ ba với việc tách
riêng chức năng tiêu thụ khỏi chức năng sản xuất, đã làm xuất hiện một ngành kinh tế
chuyên làm chức năng trao đổi, mua bán nhằm vào mục đích kiếm lời trong nền kinh
tế đó là ngành thương mại.
Phân công lao động xã hội vẫn tiếp tục phát triển và tạo ra nhiều ngành mới.
Trong lĩnh vực thương mại, ngoài ngành phân phối là ngành chuyên cung cấp các
dịch vụ mua bán hàng hóa hữu hình gồm bán buôn và bán lẻ, còn có các ngành
thương mại dịch vụ chuyên đảm nhận việc cung ứng dịch vụ cho thị trường thông qua
các hoạt động thương mại vì mục đích lợi nhuận (hiện nay theo phân loại của WTO,
lĩnh vực thương mại dịch vụ được phân thành 12 ngành, trong đó có 155 tiểu ngành
dịch vụ khác nhau).
4
Ngành thương mại ra đời vừa là sự tiến bộ của lịch sử, vừa là điều kiện thúc đẩy
sự phát triển một bước cao hơn nữa của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa và lưu
thông hàng hóa là 2 yếu tố cơ bản hợp thành Kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa tất nhiên sản sinh và hình thành thị trường. Vì thế, nói tới
thương mại, nói đến kinh tế hàng hóa, không thể tách rời phạm trù thị trương và kinh
tế thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường, cũng như thương mại và thị
trường đó là những mặt không thể tách rời nhau của cùng một sự vật.
1.1.2. Bản chất kinh tế của thương mại
1.1.2.1. Một số cách tiếp cận khi nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại
Nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Trong giáo trình này chúng tôi sẽ đề cập tới 3 cách tiếp cận cơ bản nhất:
a. Thương mại - hoạt động kinh tế.
Nếu nhìn dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là một trong những
hoạt động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua hàng và kết thúc bằng
hoạt động bán.Mục đích của hoạt động thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Có
thể tóm tắt hoạt động thương mại bằng công thức sau: T - H - T' .
Đối tượng của các hoạt động thương mại là các hàng hóa vá dịch vụ. Chủ thể của
hoạt động thưong mại gồm những người bán (người sản xuất hàng hóa, người cung
ứng dịch vụ, thương gia ) và những người mua( người sản xuất, thương gia, những
người tiêu dùng).Tuy nhiên tham gia vào hoạt động thương mại còn có một số người
khác như : người môi giới, người đại lý thương mại Hoạt động thương mại xảy ra
trong khâu lưu thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hôi, luật pháp,
chính tri, và môi trường vật chất cụ thể.
Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hình
thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này là sự chuyển đổi về sở
hữu, người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy
mà có được quyền sử dụng sản phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán
hàng, quá trình diễn ra hoàn toàn ngược lại.
Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ bản là mua và
bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ trợ cho các hoạt động mua
bán, người ta gọi chung các hoạt động này là dịch vụ thương mại.
5
Dịch vụ thương mại gồm tất cả những hoạt động thương mại ngoài hoạt động
thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán ), chúng phát sinh gắn với mua bán, hỗ
trợ cho mua bán được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả.
Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận
và cùng có lợi. Vì thế quá trình mua bán vừa là quá trình cạnh tranh vừa là quá trình
hợp tác giữa người bán và người mua.
Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị nhằm mục đích
lợi nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác
nhau. Chính nhờ hoạt động thương mại mà sản xuất và tiêu dùng nối liền với nhau
trong điều kiện của kinh tế hàng hóa.
b. Thương mại - khâu trao đổi (lưu thông) của quá trình tái sản xuất xã hội
Tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu cơ bản: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng. Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối
quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất.
Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương mại được coi
là một khâu cơ bản của tái sản xuất. Thương mại chính là khâu trao đổi nằm trung
gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện xã hội hóa sản xuất và lưu thông
hàng hóa ngày một phát triển, hàng hóa được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được
chuyển sang khâu lưu thông qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua,
vận chuyển, dự trữ, bán. Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh
vực tiêu dùng.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, đại bộ phận các sản phẩm và dịch vụ được sản
xuất ra đều phải trải qua khâu lưu thông, thông qua hoạt động mua bán bằng tiền mới
có thể chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. Vì
thế khâu lưu thông rất quan trọng. Nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh
tế hàng hóa giống như một cơ thể sống. Trong đó, lưu thông hàng hóa, thương mại
được xem như hệ tuần hoàn. Thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông suốt là
biểu hiện của nền kinh tế lành mạnh, thịnh vượng.
c. Thương mại - ngành kinh tế
Nếu nhìn dưới giác độ phân công lao động xã hội thì thương mại được coi là một
ngành kinh tế độc lập của nền kinh tế. Ngành thương mại chuyên đảm nhận chức
năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các dịch vụ cho xã hội thông qua việc
thực hiện mua bán nhằm sinh lợi.
6
1.1.2.2. Bản chất kinh tế của Thương mại
Nghiên cứu Thương mại dưới các góc độ cơ bản: Hoạt động kinh tế, khâu của
quá trình tái sản xuất xã hội cũng như góc độ ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân,
chúng ta đều nhận thấy đặc trưng chung nhất của Thương mại là buôn bán, trao đổi
hàng hóa và cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận.
Từ đó có thể rút ra bản chất kinh tế chung của Thương mại là:
Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế
gắn và phát sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằmi mục đích
lợi nhuận.
Thương mại, tiếng Anh là “Commerce” , ngoài ra còn có thuật ngữ khác là
Trade, tiếng Pháp “Commerce”, tiếng Latinh “Commercium”, về cơ bản các từ này
đều được hiểu là buôn bán hàng hóa với mục đích sinh lợi.
Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi:
Hoạt động Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi
khác.
1.1.3. Phân loại Thương mại
1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động thương mại
Người ta phân thành Thương mại nội địa (nội thương) và Thương mại Quốc tế
(ngoại thương)
Thương mại nội địa có thể được phân thành: Thương mại thành thị và Thương
mại nông thôn, Thương mại vùng đặc biệt,thương mại biên giới, thương mại vùng
sâu, vùng xa,
Thương mại nội địa phản ánh những quan hệ kinh tế thị trường của các chủ thể
kinh tế của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong
phạm vi biên giới của một quốc gia.
Thương mại Quốc tế bao gồm việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới
quốc gia có thể ở phạm vi toàn cầu (WTO), có thể ở phạm vi khu vực (EU,
ASEAN ) hoặc thương mại song phương giữa 2 quốc gia. Thương mại quốc tế phản
ánh những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia
với nhau. Chúng tuân thủ những luật lệ và những thông lệ buôn bán toàn cầu, khu vực
và các hiệp định thương mại ký kết song phương giữa các quốc gia.
7
Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho
nước ngoài và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài.
Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ rất lâu, nhưng ngoại thương chỉ thực
sự phát triển trong thời đại Tư bản chủ nghĩa. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế thế giới
và tự do hóa thương mại là một xu hướng phổ biến, thì sự phát triển ngoại thương hết
sức mạnh mẽ. Ngoại thương không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự trao đổi buôn bán
với bên ngoài mà thực chất cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác ngoại thương
tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Thương mại nội địa diễn ra trên thị trường nội địa, ngoại thương là hoạt động
thương mại diễn ra trên thị trường quốc tế. Thị trường thế giới và thị trường nội địa là
những thị trường khác nhau vì vậy thương mại nội địa và ngoại thương được thực
hiện theo những hình thức và phương pháp hoàn toàn không giống nhau.
1.1.3.2. Theo các khâu của quá trình lưu thông
Người ta phân thành Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ.
Thương mại bán buôn chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực buôn bán các sản phẩm vật
thể. Chủ thể của hoạt động thương mại bán buôn là những nhà sản xuất và thương gia.
Chúng phản ánh các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa những nhà sản xuất, giữa
nhà sản xuất với thương gia và giữa những người thương gia với nhau. Khi hoàn
thành các hoạt động mua bán buôn, hàng hóa vẫn chưa kết thúc quá trình lưu thông,
chúng nằm lại trong khâu sản xuất để sau khi kết thúc sản xuất lại tiếp tục quay trở lại
lưu thông hoặc vẫn nằm trong lưu thông để chờ bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thương mại bán lẻ: phản ánh mối quan hệ buôn bán hàng hóa và các dịch vụ
giữa những nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ hoặc các thương gia với bên kia là
những người tiêu dùng cuối cùng. Khi hoàn thành các hoạt động mua, bán lẻ hàng hóa
sẽ kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn những nhu
cầu khác nhau của xã hội.
Sự phân biệt giữa thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ dựa chủ yếu về sự
khác biệt theo các khâu của quá trình lưu thông của sản phẩm. Bất kỳ mối quan hệ
thương mại nào mà một bên có sự tham gia của người tiêu dùng cuối cùng quan hệ
thương mại đó thuộc về thương mại bán lẻ và ngược lại thì đó là thương mại bán
buôn.
Các hoạt động bán buôn diễn ra ở các chợ đầu mối, thị trường với trung tâm buôn bán
trong nước và quốc tế… Ngược lại, hoạt động bán lẻ diễn ra ở các chợ, các cửa hàng
chuyên doanh, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ thương mại…
1.1.3.3. Theo đối tượng của hoạt động thương mại
8
Ngưới ta phân thành thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ.
Thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ là những khái niệm phân biệt với
nhau chủ yếu dựa vào sự khác biệt về đối tượng của hoạt động trao đổi trong thương
mại. Nếu thương mại hàng hóa về cơ bản là trao đổi các sản phẩm hữu hình thì
Thương mại dịch vụ là lĩnh vực trao đổi, mua bán các sản phẩm “vô hình” .
Thương mại dịch vụ là lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong nền kinh tế hiện đại,
thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thương mại dịch vụ tồn tại song
song cùng thương mại hàng hóa và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống
kinh tế của xã hội hiện đại.
Thương mại hàng hóa gồm thương mại hàng tư liệu sản xuất và thương mại hàng
tiêu dùng.
Người ta có thể phân chia thương mại theo từng nhóm hàng. Ví dụ: Thương mại
về hàng công nghiệp, hàng nông sản, thực phẩm, thủy sản,hay theo mặt hàng Ví dụ
như: gạo, cà phê, chè hay sắt thép, máy nông nghiệp
1.1.3.4. Theo kỹ thuật trao đổi, buôn bán
Người ta phân thành thương mại truyền thống và thương mại điện tử.
Sự phân biệt giữa hai khái niệm này dựa trên sự khác biệt về các phương thức
mua bán trong thương mại. Các phương thức mua bán trong thương mại truyền thống
được xẩy ra trong môi trường tự nhiên ở đó người mua, người bán thường tiếp xúc
trực tiếp trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.Trong thương mại truyền
thống người mua người bán gặp gỡ trực tiếp, tiến hành các giao dịch mua bán ở các
chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm thương mại truyền thống đã
có từ rất lâu cùng với sự ra đời của trao đổi .
Ngược lại, thương mại điện tử là một phương thức trao đổi mua bán bằng
phương pháp điện tử trong môi trường điện tử. Thương mại điện tử chỉ xuất hiện
trong xã hội hiện đại. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh chóng
trên toàn thế giới và đó là xu hướng phát triển tất yếu vừa là yếu tố hợp thành của nền
kinh tế số hóa.
Theo định nghĩa phổ biến hiện nay, thương mại điện tử là phương thức hoạt
động thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương
mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không cần phải in ra giấy trong
bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch.
9
Các phương tiện điện tử được sử dụng trong phương thức mua bán này rất đa
dạng: điện thoại, máy fax, truyền hình,các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện
tử, các mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet), mạng toàn cầu internet…
Cần lưu ý rằng “Thương mại điện tử” còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với
cách hiểu thông thường chỉ là buôn bán các hàng hóa và dịch vụ. Trong thực tế, áp
dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các
hoạt động kinh tế.
Thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức thương mại phổ biến trong xã hội
tương lai, tuy nhiên thương mại truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị về kinh tế và văn
hóa, nó vẫn tồn tại song song cùng với thương mại điện tử mặc dù kinh tế thị trường
và thương mại thế giới không ngừng mở rộng và phát triển.
1.1.3.5. Phân loại theo mức độ cản trở thương mại
Người ta phân thành thương mại có bảo hộ và thương mại tự do hóa.
Thương mại bảo hộ thường được các quốc gia áp dụng trong một số lĩnh vực
nhạy cảm để bảo vệ các lợi ích quốc gia hoặc để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là
đối với những ngành công nghiệp non trẻ, mới hình thành. Các biện pháp thường
được sử dụng trong thương mại bảo hộ là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan
như: các biện pháp hành chính, cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, các quy định
kỹ thuật, các tiêu chuẩn đồng thời các quốc gia còn có thể áp dụng nhiều chính sách
ưu đãi đối với sản xuất trong nước.
Thương mại tự do hóa được thể hiện qua việc xóa bỏ và giảm thiểu hàng rào thuế
quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các
thương nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước và quốc tế lưu thông
thông suốt. Thương mại tự do hóa có nhiều cấp độ và hình thức khác nhau.
1.2. NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VÀ LỢI THẾ SO SÁNH TRONG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Lý thuyết của Adam Smith
Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ
XIX. Người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723-
1790) và sau đó được tiếp tục phát triển bởi những người kế tục của ông.
Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất,
khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau.
10
Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự
nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề.
Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hóa sản
xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa này sang
quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. Bằng việc
chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có
lợi khi quan hệ thương mại với nhau.
Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mì. Ngược
lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vải vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên
môn hóa sản xuất lúa mì còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải vóc. Nước
Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa
mì hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự túc tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành
trao đổi một phần lúa mì để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng
chứng minh được rằng cả 2 nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ
thương mại với nhau.
1.2.2.Lý thuyết của D. Recardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh
Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của A. Smith là không lý
giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối sản xuất
tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn
về thương mại so với lý thuyết của A. Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lí thuyết
này được trình bày trong tác phẩm “những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”.
Theo D. Ricardo thương mại giữa 2 nước dựa trên lợi thế tương đối.
Lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh đề cập tới việc các quốc gia có
thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như
nhau nhưng với chi phí khác nhau.
Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào
sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn và dùng một phần để trao đổi với nước
khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả 2 nước sẽ cùng thu được lợi
ích thông qua thương mại.
Ví dụ: Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mì.
a =
Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X
Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước Y
11
b =
Chi phí sản xuất lúa mì của nước X
Chi phí sản xuất lúa mì của nước Y
Nếu a < b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
may và ngược lại nước Y chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu lúa mì. Sau quá
trình chuyên môn hóa và thương mại, tổng sản phẩm hàng dệt may và lúa mì mà 2
nước sản xuất đều tăng lên và số lượng hàng hóa mà người dân của mỗi nước có thể
tiêu dùng đều được cải thiện.
1.2.3.Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh
Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của
David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý
thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler
đã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội.
Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác phải
cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm 1 đơn vị hàng hóa
thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước
khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác.
Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đi 2/3 số
đơn vị của vải để sản xuất thêm 1 đơn vị của thép. Như thế chi phí cơ hội sản xuất
thép ở X là 1 thép = 2/3 đơn vị vải vóc. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước
Y là 1 thép = 2 vải. Vậy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế
tương đối trong sản xuất vải.
Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh so với
một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất
sản phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác. Và theo đó, mỗi quốc gia
nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh
để đổi lấy các sản phẩm mà nước khác sản xuất rẻ hơn một cách tương đối. Người ta
cũng chứng minh được rằng trong quan hệ thương mại này cả 2 quốc gia đều cùng có
lợi.
1.2.4.Lý thuyết của Heckscher – Ohlin
Hai nhà kinh tế học Thụy Điển Eli Heckscher (1919) và Recto Ohlin (1933) đưa
ra một cách giải thích khác về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so
12
sánh của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản
xuất. Các yếu tố sản xuất mà lý thuyết này đề cập là: đất đai, lao động và tư bản.
Trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tương đối, Heckscher và Ohlin đã phân tích ảnh
hưởng của các yếu tố sản xuất tiềm tàng đến thương mại và giải thích các động thái
thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất.
Một quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc
sản xuất chúng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối dư thừa và rẻ,
đồng thời sẽ nhập khẩu những mặt hàng khi sản xuất chúng đòi hỏi sử dụng nhiều yếu
tố sản xuất mà nước đó tương đối khan hiếm và đắt. Cụ thể một quốc gia tương đối dư
thừa lao động, nhưng lại thiếu vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cần
nhiều lao động và nhập khẩu những mặt hàng cần nhiều vốn. Heckscher và Ohlin
cũng cho rằng trong trường hợp này, quan hệ thương mại làm lợi cho cả 2 quốc gia
tham gia vào trao đổi
2.3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
KINH TẾ THƯƠNG MẠI
2.3.1. Đối tượng, nội dung và kết cấu của môn học kinh tế thương mại
Kinh tế thương mại là môn học kinh tế, môn kinh tế ngành.
Giống như kinh tế chính trị học và kinh tế học là những môn khoa học nghiên
cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế chi phối và vận động nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế thương mại dựa trên những nguyên lý mà kinh tế chính trị học, kinh tế học đã
phát hiện để đi sâu nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế nhằm bổ sung và cụ
thể hóa chúng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế thương mại là tất cả các hiện tượng, các hoạt
động và các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực buôn bán trong một quốc gia và của
quốc gia đó với bên ngoài.
Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong buôn bán nội địa
và buôn bán quốc tế luôn vận động theo những quy luật và tính quy luật nhất định.
Kinh tế thương mại nghiên cứu chúng nhằm tìm ra bản chất kinh tế của chúng, cũng
như tìm ra các quy luật chung hoặc tính quy luật vận động của chúng. Trên cơ sở đó
xây dựng cơ sở khoa học cho việc tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ thương mại một mặt vận động
theo những quy luật chung, phổ biến, tuy nhiên những biểu hiện của chúng trong
13
những điều kiện cụ thể, những quốc gia khác nhau và ở mỗi thời kỳ khác nhau của
lịch sử đều có những nét riêng, đặc thù. Kinh tế thương mại không chỉ nghiên cứu
những vấn đề chung, những nguyên lý chung và các quy luật chung trong lĩnh vực
buôn bán mà nó còn nghiên cứu những vấn đề đặc thù trong những hoàn cảnh cụ thể,
các quốc gia cụ thể và các giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc nghiên cứu những biểu hiện
cụ thể của các nguyên lý, các quy luật chung trong lĩnh vực thương mại trong điều
kiện của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa (tập trung,
quan liêu, bao cấp) sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam hiện nay cũng là một nội dung nghiên cứu quan trọng của kinh tế thương mại.
2.3.2. Kết cấu của môn học kinh tế thương mại
Kinh tế thương mại được chia làm 2 học phần:
Học phần thứ nhất: Kinh tế thương mại đại cương.
Học phần này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức căn bản nhất về Kinh
tế thương mại. Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý và những quy luật trình bày
trong học phần này là những vấn đề chung và có tính phổ biến cho mọi nước, mọi nền
kinh tế.
Học phần này bắt đầu nghiên cứu các khái niệm, phạm trù nhằm chỉ rõ bản chất
kinh tế của thương mại. Tiếp đó là các vấn đề liên quan tới chức năng và các tác động
của thương mại trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những vấn đề tiếp sau là
những vấn đề cốt lõi nhất của kinh tế thương mại hàng hóa, kinh tế thương mại dịch
vụ và các khía cạnh thương mại có liên quan tới đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ theo
cách tiếp cận của WTO. Từ đó tiếp tục nghiên cứu các vấn đề nguồn lực phát triển
thương mại và hiệu quả thương mại theo cách tiếp cận phát triển bền vững.
Học phần 2: Kinh tế thương mại.
Học phần này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất và đặc thù của kinh
tế thương mại Việt nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Học phần này bắt đầu từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển thương
mại Việt nam nhằm tổng kết và rút ra những bài học từ lịch sử. Tiếp đến là nghiên
cứu những nội dung chủ yếu của quá trình chuyển đổi thương mại từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam từ năm 1986. Phần cuối của học phần sẽ nghiên cứu những vấn đề cốt lõi và đặc
14
thù của kinh tế thương mại Việt nam như: thương mại và thị trường nông thôn, hội
nhập thương mại Việt nam với thế giới và khu vực, kế hoạch hóa thương mại vĩ mô
Khi đề cập đến nội dung của môn học, có thể có rất nhiều những ý kiến khác
nhau. Những nội dung đề cập đến trong giáo trình này trước hết dựa vào chương trình
môn học đã được hội đồng khoa học trường Đại học Thương mại thông qua. Ngoài ra
những người biên soạn cố gắng chú trọng trình bày những vấn đề có tính chất phổ
biến, và những vấn đề đặc trưng nhất, thiết yếu nhất của kinh tế thương mại Việt nam
trong giai đoạn hiện nay.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu môn học và vị trí của môn học Kinh tế thương
mại
Kinh tế thương mại là môn học kinh tế ngành. Là môn khoa học xã hội nên các
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng nghiên cứu kinh tế
thương mại.
Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi phải nghiên cứu các sự vật và các hiện
tượng trong sự vận động và trong mối quan hệ tác động qua lại với các hiện tượng và
sự vật khác. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập, và quá trình phát triển không ngừng của các hiện
tượng và sự vật là sự tích lũy những biến đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất.
Trong khi đó, phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi nghiên cứu sự vật, hiện tượng
ở thực tại nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ, lịch sử của sự vật và hiện tượng
đó. Nhờ vậy mà có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật và
hiện tượng trong tương lai.
Thương mại là một hệ thống kinh tế với sự tham gia của nhiều yếu tố cấu thành.
Vì vậy phương pháp tiếp cận hệ thống cũng cần thiết sử dụng làm phương pháp
nghiên cứu môn học.
Ngoài ra môn học còn sử dụng nhiều phương pháp khác như điều tra xã hội,
phân tích thống kê và mô hình hóa nhằm phân tích tổng hợp, diễn dịch và quy
nạp nhằm làm rõ nội dung và đặc thù của môn học.
Trong kinh tế thương mại cũng như các môn khoa học xã hội nói chung, phương
pháp trừu tượng hóa khoa học có ý nghĩa rất to lớn. Trừu tượng hóa cho phép gạt bỏ
những yếu tố cụ thể, ngẫu nhiên, rời rạc, để tìm thấy những cái điển hình, bền vững,
ổn định, có tính phổ biến, trên cơ sở đó chỉ ra bản chất của các hiện tượng, phát hiện
15
ra các quy luật và tính quy luật vận động của các hiện tượng các mối quan hệ kinh tế
thương mại.
Kinh tế thương mại là môn học chuyên môn chính trong chương trình đào tạo cử
nhân kinh tế thương mại của trường đại học Thương mại. Ngoài ra kinh tế thương mại
đại cương giữ vị trí của môn học cơ sở của các chuyên ngành quản trị kinh doanh,
kinh doanh quốc tế, tài chính và kế toán thương mại và các chuyên ngành khác của
trường đại học thương mại.
Kinh tế thương mại có quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học khác như kinh tế
học, kinh tế chính trị học, kinh tế phát triển, lịch sử các học thuyết kinh tế Kinh tế
thương mại sử dụng các khái niệm và phạm trù đó trong lĩnh vực lưu thông và trao
đổi buôn bán các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường.
16
CHƯƠNG 2: CHỨC NĂNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA THƯƠNG MẠI
2.1. CHỨC NĂNG CỦA THƯƠNG MẠI
2.1.1. Chức năng chung của thương mại
Được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân
công lao động xã hội nên chức năng của thương mại mang tính khách quan.
Thương mại đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Bản
chất kinh tế xã hội của các hình thái kinh tế xã hội này mặc dù có sự khác nhau nhưng
chức năng chung của thương mại là giống nhau. Con người chỉ có thể nhận thức và
vận dụng các chức năng của thương mại chứ không thể tùy tiện áp đặt hoặc thay đổi
các chức năng đó.
Trong mọi hình thái kinh tế xã hội còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hóa
chức năng của thương mại là thực hiện lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ
thông qua mua bán bằng tiền.
Tuy nhiên cũng cần phân biệt chức năng thương mại với các tư cách là khâu của
tái sản xuất, hoạt động kinh tế và ngành kinh tế.
Là hoạt động kinh tế thương mại thực hiện chức năng mua bán hàng hóa và các
dịch vụ bằng tiền.
Là một khâu của tái sản xuất thương mại thực hiện chức năng cầu nối giữa sản
xuất với tiêu dùng thông qua trao đổi, đảm bảo thực hiện tái sản xuất nhanh chóng,
hiệu quả trong điều kiện của kinh tế hàng hóa.
Là một ngành kinh tế, thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng
hóa và cung ứng dịch vụ, thông qua mua bán để gắn liền sản xuất với thị trường trong
và ngoài nước nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường về hàng hóa và dịch vụ với chi phí
thấp nhất.
2.1.2. Biểu hiện chức năng của thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
Trong thương mại hàng hóa, chức năng của thương mại có thể được chia thành 2
nhóm chức năng cơ bản sau:
2.1.2.1. Chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị
Thương mại có chức năng thay đổi hình thái giá trị từ tiền sang hình thái vật chất
trong hành vi mua (T - H) và ngược lại trong hành vi bán.
17
Cùng với việc thay đổi hình thái giá trị là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu về
hàng hóa và tiền tệ. Quyền sở hữu tiền tệ chuyển từ người mua sang người bán và
ngược lại, quyền sở hữu hàng hóa chuyển từ người bán sang người mua.
Nhờ chức năng này của thương mại mà người bán đạt được giá trị nhằm tìm
kiếm lợi nhuận, người mua có được các giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
khác nhau của họ.
Để thực hiện được chức năng này, thương mại phải tiến hành hàng loạt những
hoạt động gắn với việc thay đổi hình thái giá trị và chuyển đổi quyền sở hữu như: mua
hàng, bán hàng, xúc tiến thương mại, tiếp thị, quảng cáo
Về lý thuyết, các hoạt động này không tạo ra giá trị mới, không làm tăng giá trị
sử dụng của hàng hóa nhưng nó rất cần thiết và có ích cho xã hội.
2.1.2.2. Chức năng tổ chức quá trình phân phối hàng hóa, đưa hàng hóa từ lĩnh
vực sản xuất đến thị trường và tiếp tục hoạt động sản xuất trong lĩnh vực lưu
thông
Sản xuất với tiêu dùng thường không ăn khớp với nhau về không gian, thời gian,
số lượng, chủng loại Vì vậy, thương mại cần thực hiện việc đưa các sản phẩm được
sản xuất ra đến các thị trường nơi mà con người có nhu cầu phù hợp các đòi hỏi của
thị trường về số lượng, cơ cấu, thời gian và không gian với chi phí thấp nhất.
Nhờ có chức năng này mà thương mại có thể tiếp tục thực hiện chức năng thay
đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị hàng hóa mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Cũng
thông qua chức năng này thương mại giải quyết được những mâu thuẫn vốn có giữa
cung, cầu, sản xuất và tiêu dùng trong điều kiện kinh tế hàng hóa.
Chức năng này của thương mại được thực hiện qua hàng loạt những hoạt động
khác nhau.
Hoạt động vận tải nhằm di chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến thị trường và
những dịch vụ có liên quan đến vận tải như: làm các thủ tục vận tải, giao nhận hàng
hóa
Hoạt động giữ gìn, bảo quản hàng hóa. Những hoạt động này nhằm bảo vệ giá trị
sử dụng của hàng hóa về số lượng, chất lượng trong quá trình vận chuyển cũng như
lưu kho phát sinh do sự không ăn khớp giữa sản xuất và đòi hỏi của thị trường về
không gian và thời gian.
Các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lĩnh vực lưu thông như: phân loại, chia
nhỏ, đóng gói, bao bì sản phẩm và các hoạt động gia công, chế biến, hoàn thiện sản
phẩm trước khi bán cho người tiêu dùng
18
Các hoạt động thương mại thực hiện nhóm chức năng này là các hoạt động sản
xuất. Chúng xảy ra trong khâu lưu thông và được thực hiện bởi ngành thương mại.
Chúng góp phần làm tăng giá trị hàng hóa, bảo vệ và làm tăng giá trị sử dụng. Hoạt
động thương mại xét về góc độ này trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập quốc dân.
2.1.2.3. Sự phát triển nhận thức về chức năng thương mại hàng hóa trong xã hội
hiện đại
Trong xã hội hiện đại cùng với việc phồn thịnh về kinh tế, nhu cầu của con người
ngày càng gia tăng và đa dạng hơn. Việc thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng và
đa dạng của xã hội làm nảy sinh mâu thuẫn trong phân bổ và sử dụng quĩ thời gian
của con người. Để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của con người, đòi
hỏi một mặt phải không ngừng sản xuất ra ngày càng nhiều của cải và dịch vụ , mặt
khác phải tăng quĩ thời gian sử dụng cho cho việc tiêu dùng các của cải và các dịch
vụ. Mâu thuẫn là ở chỗ quĩ thời gian tự nhiên của mỗi con người là một hằng số trong
khi đó xã hội càng phát triển quĩ thời gian dành cho tiêu dùng trong tổng quĩ thời gian
tự nhiên đòi hỏi ngày càng gia tăng.
Để gia tăng thời gian cho tiêu dùng trong điều kiện quĩ thời gian tự nhiên không
đổi thì vấn đề tiết kiệm và sử dung hợp lý quĩ thời gian trong tiêu dùng trở nên rất bức
thiết. Việc mở rộng các dịch vụ bán hàng đặc biệt là các dịch vụ trước, trong và sau
bán hàng như: dịch vụ hoàn thiện sản phẩm , các dịch vụ chuẩn bị sẵn sàng nhất cho
người tiêu dùng và các dịch vụ liên quan đến quá trình tổ chức phục vụ quá trình tiêu
dùng cá nhân nhằm tạo sự thoải mái, thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho người tiêu
dùng đang ngày gắn với hoạt động buôn bán và trở thành các hoạt động thuộc chức
năng của thương mại trong xã hội hiện đại.
Kinh tế thị trường hiện đại với các đặc trưng không phải là “khan hiếm” mà “dư
thừa” làm cho cạnh tranh khốc liệt ngày càng buộc các doanh nghiệp thương mại cần
phải nhận thức sâu sắc hơn xu hướng thay đổi này trong chức năng của thương mại.
2.1.3. Biểu hiện các chức năng thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
Do những đặc tính riêng biệt của dịch vụ: tính vô hình, sản xuất và tiêu dùng
đồng thời, nên chức năng của thương mại cũng có sự biểu hiện khác so với thương
mại hàng hóa.
Thương mại dịch vụ thực hiện đồng thời cả chức năng sản xuất, chức năng lưu
thông và chức năng tổ chức tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ. Nghĩa là trong thương
mại dịch vụ các doanh nghiệp không chỉ thuần túy thực hiện việc mua bán, ngoài việc
thực hiện chức năng thương mại nó còn đồng thời thực hiện chức năng sản xuất ra các
19
dịch vụ và tổ chức cả quá trình tiêu dùng các dịch vụ cho khách hàng. Các chức năng
này vế cơ bản được thực hiện đồng thời ở cung một không gian và trong cùng một
thời gian.
Trong thương mại dịch vụ về cơ bản không có các hoạt động vận tải, bảo quản,
dự trữ
Việc thay đổi hình thái giá trị, quá trình chuyển đổi sở hữu tiền tệ và sở hữu sản
phẩm có những đặc thù so với thương mại hàng hóa.
Việc nhận thức đúng và vận dụng đúng các chức năng của thương mại có ý nghĩa
to lớn không chỉ trong tổ chức hoạt động cung ứng dịch vụ ở phạm vi doanh nghiệp
mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với thương mại
dịch vụ ở phạm vi vi mô.
2.2. CƠ SỞ LUẬN NGHIEN CỨU VÀ PHÂN LOẠI CÁC TÁC ĐỘNG CỦA
THƯƠNG MẠI
2.2.1. Cơ sở luận nghiên cứu tác động thương mại
Khi nghiên cứu tác động thương mại cần quán triệt các vấn đề lí luận cơ bản sau:
Thứ nhất: Thương mại là một hoạt động kinh tế cơ bản và phổ biến trong nền
kinh tế thị trường.
Là một hoạt động kinh tế cơ bản, thương mại có liên quan mật thiết và ảnh
hưởng đến những hoạt động kinh tế khác như: kinh doanh, đầu tư,
Là hoạt động kinh tế phổ biến vì thế thương mại tác động đến nhiều chủ thể kinh
tế và các quan hệ kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai: Thương mại là khâu lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và có liên hệ mật thiết với
khâu phân phối. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của sản xuất và tiêu dùng, mặt
khác thương mại cũng có những tác động đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản
xuất và tiêu dùng xã hội.
Thứ ba: Thương mại là một ngành kinh tế rất quan trọng của nền kinh tế.
Theo nghĩa rộng, ngành thương mại không chỉ gồm những doanh nghiệp cung
ứng dịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa mà gồm cả những doanh nghiệp cung ứng các
dịch vụ đa dạng trong nhiều ngành dịch vụ vì mục tiêu lợi nhuận. Đó là lĩnh vực rất
rộng, bao gồm nhiều ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Ngành thương mại
20
thông qua hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ với mục đích lợi nhuận có liên
quan và tác động to lớn tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đa dạng của nền kinh tế.
Thứ tư: Thương mại còn được xem như một hệ thống kinh tế.
Thương mại là một tập hợp các yếu tố có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao
đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ thông qua tiền tệ vì lợi nhuận. Hệ thống thương
mại được hình thành bởi 2 hệ thống con là cung và cầu. Các hệ thống này hoạt động
và liên hệ với nhau qua hoạt động của người mua, người bán trên thị trường. Đó là
một hệ thống kinh tế mở với môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, công nghệ, xã
hội và môi trường tự nhiên bên ngoài.
Thương mại một mặt chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nói trên, những
yếu tố này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thương mại nhưng ngược
lại thương mại cũng tác động trở lại làm biến đổi những yếu tố môi trường.
Vì thế tác động thương mại không chỉ thuần túy mang tính chất kinh tế, thương mại
còn có tác động mang tính chất xã hội, chính trị, pháp luật, công nghệ và ảnh hưởng
mật thiết với môi trường tự nhiên.
2.2.2. Phân loại tác động của thương mại
Tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng ta có thể phân loại tác
động thương mại trên một số tiêu chí cơ bản sau:
2.2.2.1. Theo xu hướng ảnh hưởng của tác động
Tác động của thương mại được phân thành các tác động tích cực và tác động
tiêu cực.
Những tác động của thương mại mà kết quả của ảnh hưởng có thể là những lợi
ích (vật chất hoặc tinh thần) hoặc tạo ra sự thúc đẩy vận động của các quá trình kinh
tế-xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Đó là những tác động tích cực.
Ngược lại những tác động của thương mại mà kết quả mang lại là những tổn thất
(về vật chất và tinh thần) hay tạo ra xu hướng kìm hãm, đẩy lùi sự vận động của các
quá trình kinh tế - xã hội được coi là những tác động tiêu cực.
Cần lưu ý rằng: Một hoạt động thương mại cụ thể, một chính sách thương mại
nhất định có thể vừa chứa đựng trong đó những tác động tích cực và cả những tác
động tiêu cực. Rất ít trường hợp tác động thương mại chỉ thuần túy mang tính tích cực
hay tiêu cực.
2.2.2.2. Theo phạm vi ảnh hưởng
21
Tác động của thương mại được phân thành các tác động vi mô và vĩ mô.
Những tác động vi mô là ảnh hưởng của thương mại trong phạm vi doanh
nghiệp, hộ gia đình.
Những tác động thương mại vĩ mô là những tác động mà ảnh hưởng của nó vượt
ra ngoài khuôn khổ các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh, những tác động này có
thể ở phạm vi toàn cầu, hoặc một khu vực kinh tế (ASEAN, EU, ), phạm vi quốc gia
hoặc địa phương trong mỗi quốc gia.
Hoạt động kinh doanh ở đơn vị kinh tế ngoài việc xem xét tác động vi mô cần
phải tính đến các tác động vĩ mô mà nó có thể ảnh hưởng. Ngược lại, quản lý nhà
nước ở phạm vi vĩ mô với hoạt động thương mại cần xem xét toàn diện ảnh hưởng
của tác động thương mại ở cả phạm vi vi mô và vĩ mô một cách hài hòa.
2.2.2.3. Dựa theo lĩnh vực tác động
Tác động của thương mại được phân thành các tác động kinh tế, tác động xã
hội (xã hội, chính trị, văn hóa) và tác động môi trường tự nhiên.
Tác động kinh tế bao gồm những ảnh hưởng của thương mại đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế , sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hoạt động đầu tư, các cân đối kinh tế vi mô
trong nền kinh tế
Tác động xã hội bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới sự ổn định chính
trị quốc gia, tới thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước, ảnh hưởng tới hệ thống
luật pháp của quốc gia.Ngoài ra nó còn bao gồm cả những tác động thương mại tới
yếu tố dân cư, hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và trình độ giáo dục, phong
tục, tập quán, lối sống, hệ thống giá trị trong xã hội.
Tác động môi trường tự nhiên bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới
môi trường sống: bảo tồn các yếu tố tự nhiên (khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, hệ
thực vật, động vật ), các yếu tố hạ tầng (giao thông vận tải, hệ thống thông tin,
truyền thông )
Con người càng ngày càng nhận thức sự cần thiết và quan trọng của sự phát triển
bền vững. Vì vậy nghiên cứu các tác động thương mại cần xem xét toàn diện không
chỉ ảnh hưởng về kinh tế mà cả những khía cạnh tác động thương mại về xã hội, môi
trường cũng ngày càng được chú trọng trong việc hoạch định chiến lược và chính
sách thương mại phát triển của các quốc gia.
2.2.2.4. Các cách phân loại khác
22
Ngoài các cách phân loại cơ bản trên, người ta còn có thể phân loại tác động
thương mại theo nhiều tiêu thức khác như:
Tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tác động có thể lượng hóa được (đo lường
được) và những tác động khó đo lường được (nhiều tác động thương mại có thể cảm
nhận được bằng định tính song rất khó định lượng).
Một số tác động thương mại mà hậu quả của nó có thể khắc phục được dễ dàng,
nhưng cũng có nhiều tác động mà hậu quả lại có thể là vĩnh viễn không khắc phục
được hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của, sức lực và thời gian.
2.2.3. ý nghĩa của việc nghiên cứu những tác động của thương mại
Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp
cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp đạt được những mục
tiêu kinh doanh mà còn có tầm quan trọng đối với việc quản lý hoạt động thương mại
ở phạm vi vi mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế
xã hội của thương mại cũng như đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế bền
vững.
2.3. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA THƯƠNG MẠI VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ MÔI
TRƯỜNG
2.3.1. Những tác động kinh tế của thương mại
2.3.1.1. Thương mại với tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là mức tăng lượng của cải vật chất của cải của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định. Mức gia tăng của cải có thể được tính bằng hiện vật hoặc
tiền (giá trị).
Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: lao động, vốn đầu tư, khoa học công
nghệ, thông tin, cơ chế chính sách Các yếu tố này có vai trò không giống nhau đối
với tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ.
Thương mại có thể tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong
một giai đoạn nhất định trên các mặt: số lượng và chất lượng của tăng trưởng.
Tác động của thương mại đến tăng trưởng thể hiện ở chỗ: Thương mại tạo khả
năng huy động các nguồn lực sẵn có của quốc gia cũng như tác động tới việc di
chuyển các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Nhờ vậy mà góp phần to lớn vào mở
rộng quy mô sản xuất của mỗi quốc gia
Thương mại còn tác động đến tăng khả năng tiêu dùng của một nước và gián tiếp
sản xuất ra các sản phẩm có hiểu quả hơn là tự sản xuất (điều này đã được chứng
23
minh trong các lý thuyết của A. Smith, D. Recardo và các lý thuyết khác của
Heckscher Ohlin).
Thương mại tác động đến chất lượng của tăng trưởng ở phương diện nâng cao
hiệu quả sản xuất. Thứ nhất, nhờ lợi thế về quy mô do các công ty có thể tiếp cận với
các thị trường rộng lớn hơn ở nước ngoài. Thương mại cho phép các công ty tiếp cận
được với các công nghệ hiện đại hóa, do vậy năng suất lao động được cải thiện. Ngoài
ra việc mở cửa thị trường trong nước cho các công ty nước ngoài làm cho cạnh tranh
gia tăng trên thị trường nội địa và nhờ vậy có tác dụng kích thích các công ty trong
nước nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Thương mại một mặt trực tiếp làm gia tăng GDP nhờ chính hoạt động của mình,
mặt khác gián tiếp tác động đến việc gia tăng GDP của các ngành khác nhờ ảnh
hưởng có tính chất lan truyền như đã phân tích trong các lí thuyết của kinh tế học hiện
đại.
2.3.1.2. Thương mại với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hiểu là cách thức liên kết, phối hợp giữa các phân tử cấu
thành hệ thống kinh tế biểu hiện quan hệ tỷ lệ cả về mặt lượng và chất của các phần tử
hợp thành của hệ thống kinh tế. Cơ cấu kinh tế thường được xem xét trên các phương
diện: cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần của nền kinh tế.
Thương mại có thể tác động làm thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng
đa dạng hóa thành phần kinh tế, thay đổi vai trò của các thành phần kinh tế xu hướng
biến đổi có thể không giống nhau trong các nền kinh tế. ở Việt nam sự biến đổi theo
xu hướng xuất hiện nhiều thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân, kinh tế vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng gia tăng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc
dân.
Thương mại có thể tác động làm biến đổi cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế theo xu
hướng làm xuất hiện những vùng kinh tế trọng điểm, các vùng kinh tế đặc biệt có tác
động lớn tới nền kinh tế, làm thay đổi cơ cấu kinh tế thành thị, nông thôn, kích thích
phát triển kinh tế của các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế biên giới
Thương mại có thể tác động làm biến đổi cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế.
Xu hướng chung tác động thương mại là kích thích phát triển những ngành kinh tế có
lợi thế so sánh, kích thích phát triển các ngành dịch vụ đặc biệt là các ngành dịch vụ
hạ tầng của nền kinh tế như: vận tải, viễn thông, ngân hàng và các ngành dịch vụ
đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống: y tế, giáo dục, thể thao, giải trí, du
lịch Nhờ vậy mà làm biến đổi cơ cấu khu vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ theo
24
hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp.
2.3.1.3. Thương mại với cán cân thanh toán quốc gia
Cán cân thanh toán quốc gia là một bảng cân đối hay một bản báo cáo thống kê
tổng kết tất cả các giao dịch tài chính với nước ngoài mà một quốc gia tham gia trong
1 thời gian nào đó. Cán cân thanh toán quốc gia mô tả mối quan hệ giữa 2 luồng thanh
toán vận hành liên tục một vào và một ra mà một đất nước phải có.
Cán cân thương mại là một bộ phận rất quan trọng của cán cân thanh toán quốc
gia. Đó là mức chênh lệch của giá trị xuất khẩu và nhập khẩu các hàng hóa và các
dịch vụ và giá trị nhập khẩu của chúng trong một thời kỳ nhất định.
Nếu giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của 1 quốc gia lớn hơn so với giá trị
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thì cán cân thương mại dương (hay thặng dư). Điều đó
sẽ làm cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia và ngược lại.
Thương mại quốc tế là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ
của một quốc gia. Thiếu ngoại tệ gây ra những hạn chế về nguồn tài chính cho sự phát
triển kinh tế của một đất nước. Vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng đối với những
nền kinh tế của các nước đang phát triển.
Thông thường chính sách của các quôc gia đều cố gắng khai thác tối đa các lợi
thế so sánh của đất nước mình nhằm đẩy mạnh xuất khẩu không chỉ hàng hóa mà cả
các dịch vụ kể cả trên thị trường quốc tế và xuất khẩu tại chỗ nhằm tăng nguồn thu về
ngoại tệ. Với nguồn ngoại tệ này có thể bù đắp được những nhu cầu nhập khẩu của
quốc gia mình. Và nếu thặng dư thì nguồn ngoại tệ dư thừa có thể bù đắp về thâm hụt
ngoại tệ do những nhu cầu khác hoặc tăng cường dự trữ quốc gia.
Việc đánh giá tác động của thương mại đối với việc cải thiện cán cân thanh toán
của một quốc gia không giống với các quốc gia khác và ngay cả các thời kỳ khác
nhau của một quốc gia cũng cần phải được đánh giá một cách thận trọng.
2.3.1.4. Những tác động kinh tế khác của thương mại
Ngoài những tác động nói trên, thương mại còn có những tác động kinh tế khác
như: thúc đẩy phân công lao động quốc tế, thúc đẩy quá trình mở cửa hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
Tác động của thương mại hết sức to lớn tới quá trình phân công lao động không
chỉ ở phạm vi từng quốc gia mà ảnh hưởng tới quá trình phân công lại lao động sâu
25