Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Tiểu luận cuối kỳ giáo dục so sánh ( so sánh giáo dục việt nam nhật bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 51 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

MÔN HỌC: GIÁO DỤC SO SÁNH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
GVHD : TS. Tăng Thị Thùy
SVTH : Phùng Mai Lan
MSSV : 19010381

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2021


PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH
1. Sự xuất hiện của Giáo dục so sánh
Lịch sử phát triển của giáo dục so sánh có thể được chia thành ba giai đoạn. Đó là: giai
đoạn mơ tả, giai đoạn dự đoán và giai đoạn khoa học.
1.1 Bối cảnh lịch sử
Ban đầu, Giáo dục So sánh không thực sự là So sánh mà mang tính mơ tả vì mọi người
chủ yếu quan tâm đến việc mô tả hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia mà không nhất
thiết phải so sánh hệ thống giáo dục này với hệ thống giáo dục khác. Tuy nhiên, thế kỷ
19 chứng kiến sự quan tâm ngày càng tăng trong nghiên cứu về Giáo dục so sánh khi
giáo dục bắt đầu được nghiên cứu ở dạng So sánh. đầu thế kỷ 19 sau cuộc chiến tranh
Napoléon. Vì khơng có chiến tranh giữa những người Châu Âu, nên có hịa bình giữa
họ và họ cần một thứ gì đó có thể tăng cường sự tương tác giữa họ với nhau. Do đó,
việc nghiên cứu giáo dục so sánh được coi là một kênh mạnh mẽ mà qua đó thanh niên
của các quốc gia châu Âu khác nhau có thể đồn kết hơn. Để đạt được mục đích này,
John Griscom đã đi đến châu Âu và khi trở về, ông đã công bố những phát hiện của
mình trên các cơ sở giáo dục ở các quốc gia đã đến thăm như Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Ý
cũng như Hà Lan từ năm 1818 đến năm 1819.
Tương tự như vậy, Victor Cousin, đại diện của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Pháp đã đến


thăm Phổ vào năm 1931 và cũng khi trở về nước, đã công bố những phát hiện của
mình về các cơ sở giáo dục và thực tiễn của Phổ, những phát hiện của ơng sau đó đã
được dịch sang tiếng Anh và nâng cao sự phát triển giáo dục ở Pháp, Anh cũng như ở
Mỹ.
Một nhà tiên phong khác trong lĩnh vực Giáo dục so sánh là Horace Mann người Mỹ,
người sau chuyến thăm sáu tháng đến châu Âu cũng đã công bố những phát hiện của
mình vào năm 1843 về các cơ sở giáo dục và thực hành ở Anh, Scotland, Ireland, Pháp,
Đức cũng như Hà Lan. Báo cáo của ơng hồn tồn dựa trên sự so sánh giữa tổ chức
trường học và các phương pháp giảng dạy.
Matthew Arnold của Anh đã đến thăm cả Pháp và Đức ở 1859 và 1865. Khi trở về
nước, ông đã đưa ra một số nhận xét đặc biệt về các cơ sở giáo dục và thực hành ở cả


Pháp và Đức. Giống như những người khác, ông khuyên rằng một số khía cạnh hữu
ích của hệ thống giáo dục của Pháp và Đức nên được tích hợp vào hệ thống giáo dục ở
Anh.
Những gì có thể được xem là thế hệ thứ hai trong nghiên cứu về Giáo dục so sánh có
thể được bắt nguồn từ Sir Michael Sadler, người trong một trong những ấn phẩm của
ông: chúng ta có thể học được bất cứ điều gì có giá trị thực tiễn từ nghiên cứu Hệ
thống giáo dục nước ngoài được xuất bản vào năm 1900, đi xa hơn những người tiên
phong khác trước ông, người thực dụng hơn. và đi thẳng vào phần mô tả các hệ thống
giáo dục nước ngồi mà họ nghiên cứu.
Trong khi đóng góp vào sự phát triển của nghiên cứu Giáo dục so sánh, Kandel được
trích dẫn bởi Hans (1958) đã nhận xét rằng: Giá trị chính của Phương pháp tiếp cận so
sánh đối với các vấn đề giáo dục nằm ở việc phân tích các nguyên nhân đã tạo ra
chúng, so sánh sự khác biệt giữa các hệ thống khác nhau và các nguyên nhân cơ bản
chúng và cuối cùng, trong một nghiên cứu về các giải pháp đã được thực hiện. Nói
cách khác, cách tiếp cận so sánh trước hết địi hỏi và đánh giá cao các lực lượng văn
hóa và tinh thần vơ hình, khơng thể đo lường, làm nền tảng cho một hệ thống giáo dục,
các yếu tố và lực lượng bên ngoài nhà trường quan trọng hơn cả những gì bên trong

nó.
Tương tự như vậy, Friedrich Schneider, một người nói tiếng Đức và là Giám đốc của
Viện Giáo dục So sánh, Salzburg đã bắt đầu biên tập Tạp chí Giáo dục Quốc tế bằng
bốn thứ tiếng vào năm 1930.
Trong ấn phẩm năm 1947 của mình, ơng đã đưa ra những yếu tố sau đây có thể ảnh
hưởng đến lý thuyết và thực tiễn giáo dục của bất kỳ quốc gia nào:
(a) Tính cách quốc gia
(b) Khơng gian địa lý
(c) Văn hóa
(d) Khoa học
(e) Triết học


(f) Đời sống kinh tế và chính trị
(g) Tơn giáo
(h) Lịch sử
(i) Ảnh hưởng nước ngoài và
(j) Sự phát triển của các phương pháp sư phạm
Giống như những người khác, ông áp dụng cách tiếp cận lịch sử đối với các vấn đề
giáo dục của tất cả các quốc gia mà ơng đến thăm.
Với đóng góp của riêng mình cho sự phát triển của So sánh Giáo dục, Sergius Hessen,
một Triết gia người Nga đã xem xét Giáo dục so sánh theo quan điểm Giáo dục triết
học Trong cuốn sách xuất bản năm 1928, ông đã chọn bốn vấn đề làm trọng tâm chính
sách giáo dục. Các vấn đề là (a) giáo dục bắt buộc (b) Nhà trường và Nhà nước (c) Nhà
trường và nhà thờ và (d) Trường học và đời sống kinh tế. Hessen có lẽ là nhà triết học
giáo dục đầu tiên áp dụng cách tiếp cận triết học.
Ngoài ra, Hiệp hội Giáo dục So sánh, do Brickman giới thiệu, đã ra đời tại một hội
nghị ở New York vào năm 1956. Tổ chức xã hội học này đã xuất bản tạp chí có tên
"Tạp chí Giáo dục So sánh". Ngồi ra, nó cịn tổ chức các hội nghị và hội thảo quốc gia
cũng như khu vực.

Năm 1961, một xã hội tương tự được thành lập ở châu Âu sau khi ra mắt xã hội mới ở
London. Tư cách thành viên của Hiệp hội được mở rộng cho các chuyên gia trong lĩnh
vực Giáo dục So sánh hoặc Giáo dục Quốc tế trong các Học viện cấp ba hoặc các tổ
chức Quốc tế. Trong khi đó, các xã hội tương tự đã được thành lập ở Canada, Hàn
Quốc cũng như Nhật Bản. Có lẽ ngày nay trên tồn thế giới, kỷ luật là một trong
những mơn học được cung cấp trong tất cả các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm.
Hiệp hội Giáo dục So sánh được thành lập ở Nigeria vào năm 1983 trong khi Đại hội
Thế giới về môn học này ra đời vào năm 1982 nhằm mục đích Hợp tác giữa những
người tham gia nghiên cứu môn học này cũng như sự phát triển chung của Giáo dục so
sánh.


1.2 Các yếu tố gây ra sự quan tâm gia tăng đối với nghiên cứu Giáo dục so sánh
Osokoya, PG (1992) đưa ra những điều sau đây là các yếu tố khác gây ra sự quan tâm
đến nghiên cứu Giáo dục so sánh.
(a) Tình trạng khẩn cấp của các quốc gia mới độc lập và các quốc gia đang phát triển
muốn có một hệ thống giáo dục tốt càng sớm càng tốt. Ví dụ, hệ thống giáo dục mới
được giới thiệu ở Nigeria 6-3-3-4 được vay mượn từ Mỹ đã đưa phái đồn Nigeria đến
các trường học và cơng ty sản xuất thiết bị giáo dục ở Thụy Điển.
(b) Tần suất đi dự hội nghị, hội thảo, hội thảo ở nước ngoài nhiều hơn.
(c) Sự cải thiện của các phương tiện giao thông hiện đại cũng như thông tin liên lạc.
(d) Nhận thức về thành tựu khoa học và công nghệ ở các nước tiên tiến như Nga và
Sputnik.
(e) Các vấn đề kinh tế - xã hội và chính trị mà các quốc gia khác phải đối mặt.
1.3 Các giai đoạn phát triển giáo dục so sánh
Các giai đoạn trong lịch sử phát triển của Giáo dục so sánh có thể được chia thành ba,
cụ thể là: (a) Giai đoạn mơ tả và vay mượn (b) Giai đoạn dự đốn (c) Giai đoạn khoa
học.
 Giai đoạn đầu
Trong giai đoạn đầu tiên của sự phát triển của Giáo dục so sánh, các nhà so sánh giáo

dục tham gia vào giai đoạn này bao gồm:
Marc-Anthony Jullien de Paris, 1817, Mathew Arnold của Anh, anh họ Victor của
Pháp, Leo Tolstoy và K.D. Aushinsky của Nga, Domingo Sermiento của Argentina,
Horace Mann và Henry Barbard của Mỹ. Ở giai đoạn vay mượn, dữ liệu giáo dục thu
thập được sẽ được so sánh để sử dụng nó cho thực tiễn giáo dục tốt nhất của quốc gia
được nghiên cứu nhằm mục đích cấy ghép nó với các quốc gia khác.
 Giai đoạn thứ hai
Giai đoạn thứ hai trong việc nghiên cứu giáo dục so sánh diễn ra vào nửa đầu thế kỷ
20. Giai đoạn này có thể được coi là một giai đoạn dự đốn vì ở giai đoạn này, việc


nghiên cứu giáo dục so sánh đã vượt ra khỏi giai đoạn vay mượn. Ở giai đoạn này, các
nhà so sánh giáo dục nghiên cứu các cơ sở giáo dục và thực tiễn của một quốc gia khác
sẽ ở vị trí dự đốn khả năng thành cơng hay thất bại của việc áp dụng các phương thức
giáo dục của quốc gia do chính quốc gia đó nghiên cứu. Cả sinh viên và giáo viên dạy
giáo dục so sánh đều nên nhớ rằng sinh viên và giáo viên giáo dục so sánh rằng cơ sở
để dựa vào thực tiễn giáo dục của một quốc gia có thể khơng giống với cơ sở của giáo
dục so sánh nghiên cứu hệ thống giáo dục. của các quốc gia khác.
Các nhà so sánh giáo dục tham gia vào giai đoạn này bao gồm:Friedrich Schneider và
Franz Hilker của Đức, Isaac Kandel cũng như Robert Ulich của Mỹ., Nicholas Hans
cũng như Joseph Lanwerys của Anh bao gồm cả Pedro Rosselo của Thụy Sĩ. Họ cố
gắng tìm ra những lý do đằng sau các hoạt động giáo dục của quốc gia mà họ đến thăm
và họ trở nên cẩn thận hơn trong việc ghép các thực hành giáo dục của một quốc gia
khác vào của mình.
 Giai đoạn thứ ba
Giai đoạn thứ ba có thể được coi là thời kỳ khoa học hoặc thời kỳ phân tích. Giai đoạn
này diễn ra vào nửa sau thế kỷ 20. Thời kỳ này chứng kiến những phân tích khắt khe
cũng như khách quan trong việc nghiên cứu thực tiễn giáo dục của các quốc gia khác.
Ở giai đoạn này, trước khi ghép các thực hành giáo dục của một quốc gia khác vào
quốc gia của mình, các thực hành giáo dục đó phải được phân tích phê bình khơng

giống như giai đoạn đầu khi các thực tiễn giáo dục của quốc gia được đến thăm có thể
được vay mượn hoặc giai đoạn thứ hai khi hàm ý của có thể dễ dàng dự đoán việc cấy
ghép các thực hành giáo dục của một quốc gia khác.
Những người so sánh tham gia vào giai đoạn này bao gồm: Schneider, Kandel cũng
như Uich.
2.Các đặc điểm của Giáo dục so sánh
 Tập trung vào tiến trình Giáo dục hơn là Nền tảng Nghiên cứu
Chúng ta có thể thấy rằng các học giả thời đó tập trung vào hệ thống giáo dục của một
quốc gia hoặc nhiều quốc gia bằng cách nghiên cứu về các phương pháp nghiên cứu
của họ. Họ thường chú ý đến nền tảng nghiên cứu của nền giáo dục


hệ thống, nêu bật các yếu tố tự nhiên, yếu tố chính trị, yếu tố xã hội và yếu tố dân tộc.
Tất cả họ đều bỏ qua khả năng thích ứng và khuyến cáo một cách mù quáng. Và sau đó
họ bắt đầu chú ý đến những tư tưởng giáo dục tiên tiến của các quốc gia khác. Hiện
nay, quá trình giảng dạy dựa trên quan điểm tồn cầu là trọng tâm chính của các học
giả và chuyên gia. Ví dụ, một số học giả đề nghị áp dụng phương pháp so sánh nội
dung để nghiên cứu về quá trình giáo dục.
 Kết hợp giữa nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
Kiểm tra định tính thường áp dụng phương pháp quy nạp với tiền đề chú ý đến nền
tảng, vốn đã được áp dụng trong giai đoạn đầu. Nó chủ yếu chú ý đến mối quan hệ
tương hỗ của tất cả các quốc gia hoặc quá trình phát triển của một quốc gia về triết
học, nguyên tắc đạo đức, lịch sử, kinh tế, nhân văn, ngôn ngữ và xã hội. Ngồi ra, nó
cịn kết hợp các nội dung v.v ... để tạo thành tính tổng thể để nghiên cứu thực chất.
Nghiên cứu định lượng thường được sử dụng sau khi khoa học và công nghệ phát triển
khi các quốc gia trao đổi ý kiến thường xuyên hơn và khi các tổ chức chuyên nghiệp về
giáo dục so sánh ra đời. Do đó, việc thu thập dữ liệu về độ tuổi, tỷ lệ nhập học, tổng
mức đầu tư trở nên thuận tiện hơn, đồng thời để nâng cao tính khoa học của kết quả
nghiên cứu, việc kiểm tra định tính cũng rất cần thiết. Tuy nhiên, hầu hết các yếu tố
giáo dục không thể định lượng được vì tính phức tạp của nó.

Hơn nữa, cấu trúc giáo dục trên tồn thế giới có sự khác biệt lớn và người ta bắt đầu
nghi ngờ kết quả chỉ được kiểm tra bằng phương pháp nghiên cứu định lượng. Sau
cuộc kiểm tra nội quan và nợ năm 1980, giáo dục so sánh bắt đầu tích hợp phương
pháp kiểm tra định tính cũng như phương pháp nghiên cứu định lượng.
 Tìm hiểu nội tâm và tái tạo lại các phương pháp lý thuyết dựa trên cấu trúc
ban đầu của nó
Kể từ khi Julian sử dụng phương pháp tham chiếu để nghiên cứu giáo dục so sánh, các
phương pháp lý thuyết và cách tiếp cận của giáo dục so sánh đã được xây dựng cho
đến nay. Trong giai đoạn đầu, giáo dục so sánh nghiên cứu các yếu tố bên ngoài của nó
và sau đó chuyển sang các yếu tố bên trong cũng như phân tích các yếu tố một cách
tồn diện và có hệ thống. Hơn nữa, phạm vi nghiên cứu của nó cũng thay đổi từ cấp vi
mơ sang cấp vĩ mô. Sau khi bước vào những năm 1980, giáo dục so sánh bắt đầu xem


xét nội tâm và tái cấu trúc trong khi các phương pháp nghiên cứu áp dụng các phương
pháp tiếp cận khoa học để mơ tả và giải thích chủ nghĩa văn hóa, nhân học phê bình,
phương pháp khác biệt và kế hoạch trật tự thế giới, v.v. Sự xuất hiện của những
phương pháp nghiên cứu đó bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa hậu hiện đại và hậu -chủ
nghĩa thực dân, ở một mức độ nào đó, thể hiện kết quả của tư duy phản biện về giáo
dục và nó sẽ tiếp tục thúc đẩy một cuộc cải cách lớn hơn.
3.Vai trò của Giáo dục so sánh

 Để đưa ra quyết định
Con người là người suy nghĩ và quan sát thế giới xung quanh, bao gồm các đặc điểm
vật lý và phi vật lý. Nhà triết học người Pháp Rene Descartes (1644) đã nắm bắt được
suy nghĩ này thông qua cách diễn đạt, “Gogito ergo sum” (“Tơi nghĩ, do đó tơi là như
vậy”). Như con người nghĩ, họ không ngừng quan sát, đo lường, so sánh và đối chiếu.
Phillips và Schweisfurth (2007) tuyên bố rằng “so sánh là không thể thiếu trong quá
trình suy nghĩ của chúng ta” (tr.13) và liên tục so sánh và đối chiếu là một phần quan
trọng của những gì các nhà giáo dục So sánh và Quốc tế làm.

Để so sánh đầy đủ, các nhà nghiên cứu phải nhận thức được những khác biệt như văn
hóa, ngôn ngữ và môi trường pháp lý. Những yếu tố này và các yếu tố khác tạo nên bối
cảnh của những gì đang được nghiên cứu và rất quan trọng đối với việc giải thích
chính xác dữ liệu (Phillips & Schweisfurth, 2007). Ví dụ, trong khi quan sát các
phương pháp giảng dạy và ảnh hưởng của nó tại Đại học Sao Paulo ở Brazil, các nhà
nghiên cứu sẽ cần phải xem xét lịch sử giáo dục đại học của đất nước, nền tảng học
thuật của các giáo sư đại học, di sản tiếng Pháp của trường đại học, ngôn ngữ Bồ Đào
Nha. và ảnh hưởng văn hóa của nó, và nhiều yếu tố khác để hiểu tại sao việc dạy và
học lại diễn ra theo cách của nó (Chu, 2011).
So sánh và đối chiếu có thể là vơ ích trừ khi các quyết định được đưa ra dựa trên kết
luận của các quá trình suy nghĩ như vậy. Giáo dục so sánh cung cấp cho các nhà
nghiên cứu các công cụ và phương pháp để quan sát, đo lường, so sánh và đối chiếu
nhằm tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin cho việc ra quyết định trong lĩnh
vực Giáo dục, thậm chí có thể mở rộng các khuyến nghị cho các nhà lập pháp và cơ


quan quản lý địa phương. Những quyết định này chỉ có thể được đưa ra một cách có
hiểu biết nếu các bài học đã được học từ những người khác.

 Học hỏi từ những người khác
Học hỏi từ những người khác là một lý do khác để học Giáo dục so sánh. Khi con
người quan sát và tương tác, so sánh và đối chiếu, họ đưa ra kết luận và có thể điều
chỉnh hành vi của mình khi cần thiết. Mục tiêu cuối cùng của quá trình này, cũng như
của Giáo dục so sánh, có thể được tóm tắt là cuộc đấu tranh để làm cho mọi thứ trở nên
tốt hơn, hoặc “vì mục đích chống lại những kẻ chun trị” (Halls, 1990).
Nhiều lợi ích nảy sinh trong q trình học hỏi từ những người khác, và một trong
những lợi ích chính là hiểu biết tốt hơn về xã hội (Durkheim, 1982). Khi các nhà
nghiên cứu Giáo dục so sánh phân tích văn hóa, ngơn ngữ, lịch sử, truyền thống, luật
pháp và các yếu tố khác ở các địa điểm khác nhau, họ cũng có được sự hiểu biết tồn
cầu tốt hơn về các bối cảnh đó và có thể rút ra những điểm tương đồng và khác biệt

giữa chúng với cái gì / ở đâu / chúng là ai so sánh chúng với.
Khi các nhà nghiên cứu học hỏi từ các bối cảnh và thực tiễn khác, họ sẽ được cung cấp
thơng tin tốt hơn và có nhiều khả năng hơn trong việc đề xuất các thay đổi và ảnh
hưởng đến các quyết định trong môi trường giáo dục của riêng họ, có thể bao gồm một
quốc gia, một bang, một quận hoặc một hệ thống trường học.
4.Phạm vi của Giáo dục so sánh
Phạm vi nghiên cứu của Giáo dục so sánh rất rộng lớn,gắn với hộp nhập quốc tế trong
giáo dục.
Có năm quan điểm nắm bắt phạm vi của giáo dục so sánh. Đó là:
 Chủ đề và nội dung; điều này bao gồm các thành phần thiết yếu của hệ thống
giáo dục như cấu trúc, mục tiêu, nội dung hoặc chương trình giảng dạy, quản lý,
tài chính, giáo dục giáo viên.
 Đơn vị địa lý nghiên cứu; những nghiên cứu này bao gồm các nghiên cứu và
phân tích hệ thống trong nước, quốc tế, khu vực, lục địa và toàn cầu hoặc thế
giới.


 Phạm vi tư tưởng; điều này so sánh hệ thống giáo dục của các quốc gia trên cơ
sở các hệ tư tưởng chính trị, xã hội và kinh tế khác nhau. Ví dụ, dân chủ, cộng
sản, xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa, thị trường tự do và các nền kinh tế hỗn
hợp.
 Phạm vi chuyên đề; phạm vi này tập trung vào các chủ đề giáo dục, các vấn đề
thời sự hoặc các vấn đề và so sánh chúng trong một hoặc nhiều đơn vị địa lý. Ví
dụ giáo dục tiểu học và trung học miễn phí, phổ cập giáo dục tiểu học, giáo dục
cho tất cả mọi người và phổ cập giáo dục đại học.
 Phạm vi lịch sử hoặc không gian; điều này liên quan đến việc nghiên cứu sự
phát triển lịch sử của ngành học từ giai đoạn sớm nhất (trước lịch sử) được gọi
là giai đoạn Truyện du hành đến giai đoạn hiện đại được gọi là giai đoạn của
các quan điểm khoa học xã hội.
5.Phân tích các cách tiếp cận trong Giáo dục so sánh.Giáo dục so sánh có duy trì

cách tiếp cận liên ngành không?
 Tiếp cận lịch sử
Theo cách tiếp cận này, người nghiên cứu sẽ chỉ lấy một làng, thị trấn hoặc quốc gia để
kiểm tra sự phát triển lịch sử giáo dục của nó ngay từ ngày đầu tiên khi nền giáo dục
được đưa vào địa điểm và thời gian nghiên cứu. Cách tiếp cận này sẽ cho phép nhà
nghiên cứu xác định các yếu tố chịu trách nhiệm cho hệ thống giáo dục hiện tại của
quốc gia được nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề của cách tiếp cận này là sự chú trọng lớn
hơn luôn được đặt vào q khứ. Thơng qua phân tích lịch sử để đi tới hiểu biết và phát
hiện các nguyên tắc về giáo dục.Cách tiếp cận lịch sử rất thích hợp nhất ở các đề tài so
sánh lớn quốc tế nhưng cũng vẫn có thể vận dụng cho đề tài có phạm vi so sánh nhỏ
hợp hơn nhưng có nhân tố ảnh hưởng ít hơn, chủ yếu là nhân tố tự nhiên.Cách tiếp cận
này phát huy tác dụng rõ rệt khi các đề tài nghiên cứu giáo dục mang tính tầm cỡ quốc
gia.Phương pháp tiếp cận lịch sử có tác dụng đối với mọi đề tài nghiên cứu.Tuy nhiên
cách tiếp cận lịch sử dễ vất phải sai lệch thơng tin do khó kiểm định các giả thuyết lịch
sử lâu đời và cần đến một số lượng lớn thông tin và tư liệu, dễ biến môn Giáo dục so
sánh thành môn Sử ký


 Tiếp cận liên mơn
Từ khu vực ở đây có thể đề cập đến một ngôi làng, một thị trấn hoặc quốc gia tùy
thuộc vào nhà so sánh giáo dục muốn thực hiện nghiên cứu. Theo cách tiếp cận này,
nhà so sánh giáo dục sẽ tham gia vào các hoạt động giáo dục của chỉ một quốc gia, nếu
đó là quốc gia mà anh ta đã chọn. Điều tra viên sẽ tự tham gia vào một số hoạt động vì
kết quả là anh ta sẽ đi đến một cơ quan tổng quát về hệ thống giáo dục mà anh ta đang
nghiên cứu. Nghiên cứu theo cách tiếp cận này luôn dựa trên ranh giới địa lý, ngôn
ngữ hoặc chủng tộc.
Tuy nhiên, Bereday (1958) cho rằng "một trong những cách lâu đời nhất và rõ ràng
nhất để giới thiệu môn học (Giáo dục so sánh) là nghiên cứu từng khu vực địa lý tại
một thời điểm". Do đó, ơng đã xác định các giai đoạn sau trong cách tiếp cận nghiên
cứu khu vực:

(a) Giai đoạn Mô tả - Ở giai đoạn này, một Nhà So sánh Giáo dục có thể đưa ra mô tả
về hệ thống giáo dục cũng như các hoạt động thực hành của chính mình. Nhà nghiên
cứu phải bắt đầu bằng cách đọc nhiều. Anh ta sẽ bắt đầu bằng việc xem xét các tài liệu
hiện có về hệ thống giáo dục của đất nước đang được nghiên cứu. Để giúp điều tra viên
có thể đánh giá ngay tại chỗ, anh ta có thể đích thân đến thăm quốc gia có hệ thống
giáo dục đang theo học.
(b) Giai đoạn Diễn giải - Ở giai đoạn này của nghiên cứu, điều tra viên sẽ đối chiếu và
phân tích dữ liệu thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau để giúp anh ta thực thi công
lý đối với hệ thống giáo dục của khu vực được nghiên cứu.
(c) Giai đoạn kết luận - Ở giai đoạn này của nghiên cứu, điều tra viên sẽ đặt cạnh nhau
kết quả thu được từ giai đoạn giải thích với hệ thống giáo dục của quốc gia mình.
(d) Giai đoạn so sánh - Ở giai đoạn điều tra này, nhà nghiên cứu sẽ so sánh và đối
chiếu một cách khách quan các thực tiễn giáo dục của quốc gia được nghiên cứu với
thực tiễn của quốc gia đó. Ở giai đoạn này của nghiên cứu, bất kỳ giả thuyết nào có thể
đã được nhà nghiên cứu đưa ra sẽ bị bác bỏ hoặc chấp nhận.
Cách tiếp cận của GDSS không phải là của môn lịch sử hoặc của một môn nào khác,
mà vận dụng cách tiếp cận của nhiều môn quan trọng gọi là tiếp cận liên môn. Cách


tiếp cận này tiến bộ một bước so với cách tiếp cận lịch sử, tồn diện hơn,bởi nó tiếp
cận qua nhiều mơn quan trọng như triết học,giáo dục,văn hóa vật chất,khoa học xã hội,
mỹ học, thế giới quan và ngôn ngữ.Các môn để tiếp cận tùy thuộc nội dung vấn đề cần
nghiên cứu so sánh.Cách tiếp cận này có mục đích giảng dạy và sự thay đổi trong
phương pháp rõ ràng hơn mang lại những đóng góp của các lĩnh vực khác của kiến
thức nhân loại đề diễn tả các hệ thống giáo dục một các đầy đủ hơn như lĩnh vực Khoa
học xã hội, Văn hóa vật chất, Thế giới quan, môn Triết học.Tuy nhiên nghiên cứu phải
theo khuôn mẫu gồm 4 giai đoạn: mơ tả, giải thích, đối chiếu nhau và so sánh nhau gây
nên hình thức theo quy củ, triển khai khó khăn và cách tiếp cận này còn xảy ra nhiều
vấn đề trong thực tiễn như mối quan hệ giữa hai giai đoạn nghiên cứu từng khu vực và
nghiên cứu giáo dục.

 Tiếp cận vấn đề
Ở đây, nghiên cứu viên trước hết sẽ xác định một vấn đề cụ thể ở đất nước của mình.
Sau đó, anh ta sẽ bắt đầu tìm kiếm một quốc gia khác có cùng vấn đề. Nhà nghiên cứu
cũng sẽ nghiên cứu vấn đề giáo dục của một quốc gia khác trong mối quan hệ với nền
văn hóa của họ. Nhà nghiên cứu sẽ không chỉ nghiên cứu vấn đề giáo dục của một
quốc gia khác mà còn xem xét giải pháp áp dụng cho vấn đề đó của quốc gia bị ảnh
hưởng. Từ đó, sẽ có thể giải quyết vấn đề giáo dục của riêng họ. Cần lưu ý rằng các
yếu tố văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội khác nhau giữa các quốc gia do đó các vấn đề
và giải pháp giáo dục có thể khơng nhất thiết phải giống nhau. Tiếp cận vấn đề là một
phương pháp khoa học để cải cách Dựa vào các khoa học giáo dục,các dự báo,tiên
đoán và quy luật,dùng phương pháp quy nạp và diễn dịch,lấy sự hữu ích khi giải quyết
vấn đề làm trọng tâm.Cách tiếp cận là phương pháp để cải cách giáo dục.Phân tích so
sánh vượt ra ngồi phạm vi quốc gia và khu vực và làm sáng tỏ các vấn đề chưa được
giải quyết.Tiếp cận thông qua việc dùng phương pháp quy nạp và diễn dịch, lấy sự hữu
ích khi giải quyết vấn đề làm trọng tâm.Tuy nhiên,các vấn đề thường cịn lộn xộn, tình
huống rắc rối.Cách tiếp cận gồm nhiều bước khá phức tạp.Vấn đề thường là giải pháp
giữa 2 thái cực.
 Tiếp cận mục đích
Cách tiếp cận dẫn đến việc ra quyết định trong giáo dục.Các nghiên cứu hướng vào
việc hình thành chính sách ra quyết,hành động và phụ thuộc vào mục đích và những cố


gắng nhằm xác định một cách tiếp cận đặc biệt.Sự cam kết nghiên cứu hướng vào việc
hình thành chính sách quyết định và hành động đỉnh điểm của các mức độ tiến bộ của
giáo dục so sánh.Giúp các nhà hoạch định chính sách có thể có các cơng cụ để đưa ra
các quyết định hiệu quả và phù hợp về giáo dục trẻ em và người lớn.Ảnh hưởng đến
các nhà hoạch định chính sách,và đẩy mạnh và sử dụng nghiên cứu của họ để thay đổi
và cải cách. Cách tiếp cận khơng thuộc loại lý luận sng, vì nó được phát triển để
cung cấp câu trả lời về các vấn dề đang xảy ra khi so sánh giữa các hệ thơng giáo dục.
Tuy nhiên các tiêu chí để lựa chọn nội dung là khơng có các cơ sở rõ ràng và chắc

chắn.Khi thực hiện phương pháp sẽ không chú ý đầy đủ tới các vấn đề và những sự
biến đổi về giáo dục.Phương pháp và cách tiếp cận nghiên cứu phải tuỳ thuộc mục đích
đó, khơng thể phụ thuộc một mơn học,một vấn đề nào ngồi phạm vi giáo dục.
 Cách tiếp cận của các môn KHXH
Coi giáo dục so sánh là một bộ môn của khoa học xã hội.Dùng các cách tiếp cận và
phương pháp của các môn khoa học xã hội như nghiên cứu tiếp cận hệ thống, điều
tra,khảo sát,phỏng vấn,… và định lượng để chứng minh các giả thiết.Cách tiếp cận bao
gồm những sự hiểu thấu trực giác và những ngẫm nghĩ suy đoán của người quan sát,
đưa đến sư kiểm nghiệm thực nghiệm có hệ thống sẽ cho ta hi vọng tốt nhất về sự tiến
bộ của giáo dục so sánh.Cụ thể hoá sâu hơn mối quan tâm, tới một sự phát hiện các tài
liệu tham khảo sẵn có về một mối quan hệ đặc biệt trong nhiều xã hội, tới một sự chỉnh
lý vấn đề hoặc các vấn đề ở một mức cao hơn.Khi thu thập dữ liệu gặp khó khăn về
truy cập các nguồn, các loại số liệu đặc biệt và các hình thức thu thập, cũng như các
câu hỏi về sự đại diện, sự đầy đủ và sự tin cậy của số liệu. Trong những nghiên cứu đặc
biệt có q ít trường hợp hạn chế giá trị của các kết luận khái quát hố hay dự báo, cịn
q nhiều trường hợp sẽ trở thành khơng thể quản lý được và có sự trùng lặp.
Theo em, Giáo dục so sánh có duy trì cách tiếp cận liên ngành.
6.Phân tích một vấn đề của GDSS thấy thích thú nhất trong chương trình học
Qua q trình được học , tìm hiểu và nghiên cứu trong chương trình mơn học Giáo dục
so sánh nền giáo dục của một số nước phát triển hiện nay , bàn thân em tâm đắc nhất
đó là : Nền giáo dục Nhật bản hiện đại rất phát triển , đạt được nhiều thành tựu nổi
bật , nâng cao trình độ dân trí , đào tạo nhân lực , bởi dưỡng nhân tài , góp phần quyết


định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và quả trình cơng nghiệp hố , hiện đại hóa
đất nước.
Thứ nhất là : Sự thành cơng trong việc học tập kinh nghiệm nước ngoài . sự dung
hợp , thống nhất giữa truyền thông và hiện đại với việc học tập , tiếp thu triển
những có chọn lộc các mơ hình giáo dục tiên tiền phương Tây với việc duy trì và
phát trị của giáo dục truyền thống.

Nhật Bản là quốc gia đã tiến hành các cách bằng con đường học tập chu Âu , trong đó
giáo dục là một lĩnh vực trọng yếu .Cho đến trước thế kỷ XIX , giáo dục Nhật Bản
được tiến hành theo mô hình Nho giáo , nhưng từ khi số đơng trì thức nước này có điều
kiện tiếp xúc với văn minh phương Tây , và nhất là từ sau thập niên 40 của thế kỷ
XIX , khi nước Anh tỏ rỏ sự vượt trội về khoa học và hệ thuật trước Trung Quốc ,
người Nhật đã có sự lựa chọn dứt khoát , hướng tới học tập Châu Âu . Ngay từ rất sớm
họ đã đưa ra khẩu hiệu “học phương Tây để đuổi kịp và vượt phương Tây”.Theo
phương hướng đó , người Nhật chủ trưng thực học , nghĩa là khơng phải chỉ chạy theo
phương Tây về hình thức mà muốn học thực chất.Sự kiện Fukuzawa Yukichi thành lập
trường đại học Keio là một thí dụ điển hình . Mặc dù chịu rất nhiều ảnh hưởng của Hà
Lan , nhưng người sáng lập ra trường đại học theo kiểu Châu Âu này vẫn không từ bỏ
những giá trị phương Đông. trường đại học theo kiêu Châu Âu này vẫn không từ bỏ
những giá trị phương Đông. Những lớp học đầu tiên được tổ chức trong các ngôi nhà
truyền thống,người dạy và người học vẫn giữ đạo thầy trò theo phong cách Samurai
với những lễ nghỉ Nho giáo đã ăn sâu trong tâm thức người Nhật. Cái mới mang tính
cách mạng trong trường đại học là những kiến thức và phương pháp giảng dạy hiện
đại.
Điều đáng nói là Fukuzawa đã khơng rập khn chương trình giảng dạy của một
trường đại học Châu Âu cụ thể nào mà lựa chọn những thế mạnh, những đỉnh cao của
mỗi trường, mỗi nước để đưa vào giảng dạy. Chính vì cách học có lựa chọn này mà
người Nhật chăng những đã không bị lệ thuộc vào những mơ hình có sẵn mà cịn phát
huy được "lợi thế của người đi sau”. Cũng từ phương thức này mà người Nhật đã đưa
ra được cả một triết lý cho sự nghiệp duy tân đất nước là “Hoà thần, Dương khí”. Họ
coi khoa học, kỹ thuật Châu Âu chỉ là phương tiện,còn tỉnh thần căn bản phải là tỉnh
thần Nhật Bản. Trong bối cảnh chưa có tiền lệ,mặc dù phải tự mình lần tìm lối đi trong


việc học tập phương Tây, nhưng Nhật Bản cũng không sao chép một mơ hình cụ thể
nào.
Thứ hai là: Quy mô giáo dục và đào tạo của các cấp học, trình độ đào tạo tăng

nhanh và đạt mức cao.
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,Nhật Bản tập trung giải quyết tốt nhiệm vụ
mở rộng quy mô giáo dục phổ thơng,coi đó là nền móng của việc xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa.So với dân số trong độ tuổi, tỉ
lệ học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thơng đều tăng dẫn theo nhịp độ
cơng nghiệp hố và có nước đã đạt mức 90%. Tỉ lệ dân cư Nhật Bản trong độ tuổi 25 34 đã tốt nghỉ p trung học phổ thông đạttrên 90%, Tỉ lệ dân cư từ 55 - 64 tuổi có bằng
trung học phổ thông của Nhật Bản đứng thứ 10 trọng số 30 nước thuộc Tổ chức Hợp
tác và phát triển kinh tế(OECD).
Giáo dục đại học cũng phát triển rõ rệt về quy mơ, loại hình và phương thức đào tạo,
nhờ đó, tỉ lệ sinh viên đại học và số lượng thạc sĩ, tiến sĩ đều ở mức cao,hàng năm bồ
sung cho đội ngũ trí thức một lượng lớn nhân tài về nhiều lĩnh vực.Năm 2006 Nhật
Bản có 744 trường đại học với S69 trường có đào tạo sau đại học, 469 trường cao
đẳng. Tổng số sinh viên đang theo học là 5.979.000, trong đó có 164.550 học viên cao
học và 74.907 nghiên cứu sinh. Mỗi năm các trường cao đẳng và đại học của Nhật Bản
tuyển mới khoảng I.L triệu sinh viên, trong đó có hơn 100.000 người sau đại học,Hệ
thống đào tạo đại học, nghề nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao
của thị trường lao động trong giai đoạn cơng nghiệp hố và khi bước vào nền kinh tế
trí thức. Các nước đều có các trường đại học với chất lượng nghiên cứu và đảo tạo
hàng đầu thế giới. Theo bảng "Xếp hạng các trường đại học hàng đầu trên thể giới"
năm 2018 do Đại học Giao thơng Thượng Hải lập thì Hoa Kỳ, Đức và Nhật Bản luôn
đứng đầu trong hệ thống giáo dục đại học thế giới. Đây cũng chính là các quốc gia
hàng đầu trong sáng tạo và thương mại hoá các thành tựu khoa học và cơng nghệ cũng
như có các nhà khoa học đoạt giải Nơ-ben (Việt Nam khơng có bất kỳ trường đại học
nào được đưa vào bảng xếp hạng, kế cả bảng,500 trường).
Giáo dục bắt buộc 9 năm, miễn phí trở thành nhu cầu và biện pháp cơ bản để thực hiện
xố mù chữ và nâng cao dân trí. Những thành tựu nói trên đã tạo nên mặt bằng dân trí
cao. góp phần tạo nên học vấn phỏ thơng vững chắc để tiếp thu công nghệ cao, đồng


thời góp phẩn to lớn vào việc đảo tạo, bồi dưỡng lực lượng và phát triển đội ngũ trí

thức đơng đảo, không ngừng sáng tạo, phát mỉnh,sáng chế, đáp ứng các u cầu cơng
nghiệp hố và hiện đại hố đất nước.


PHẦN II: SO SÁNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM
Giáo dục so sánh (Comparative Education) là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học
đã được thiết lập nhằm xem xét và tìm hiểu giáo dục trong một (hoặc một nhóm) nước
bằng cách sử dụng những số liệu và những nhận thức rút ra từ thực tiễn trong một
nước hoặc các nước khác. Các chương trình và khóa học Giáo dục so sánh được tổ
chức ở nhiều trường đại học trên thế giới, và những nghiên cứu quan trọng của Giáo
dục so sánh được công bố đều đặn trên các tạp chí khoa học như Comparative
Education,

International

Review

of

Education,

Comparative

Education

Review và International Journal of Educational Development. Lĩnh vực của Giáo dục
so sánh được hỗ trợ bởi nhiều dự án liên quan đến tổ chức UNESCO và Bộ Giáo dục
của nhiều nước.
Giáo dục so sánh là một ngành khoa học, một khái niệm mới đối với nước ta.
Nhưng giáo dục so sánh trên thế giới là một ngành khoa học đã có lịch sử phát triển từ

rất lâu. Nó là một ngành khoa học mà đối với mỗi một nước phát triển hẳn không thể
thiếu được. Hầu hết các trường Đại học lớn ở các nước phát triển, ngay sau chiến tranh
thế giới thứ hai đã thành lập những Trung tâm hoặc viện nghiên cứu, đào tạo về ngành
giáo dục so sánh.…Ngày nay, giáo dục so sánh không thể thiếu đối với giáo dục mỗi
quốc gia và đang phát triển mạnh mẽ. Từ việc so sánh mà mỗi nước có thể đưa ra
những kinh nghiệm về giáo dục đào tạo, rút ra những ưu nhược điểm và đưa ra phương
hướng phấn đấu của nước ta.
Giáo dục so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt và hữu ích. Giáo dục so sánh ở
Việt nam đang dần tự khẳng định mình và nó đã trở thành một vấn đề trung tâm. Hiện
nay có nhiều ý kiến và sự nhấn mạnh khác nhau về các mục đích của Giáo dục so
sánh.
Do đó, việc học tập nghiên cứu môn giáo dục so sánh là một làm không thể thiếu
đối mỗi người làm công tác giáo dục và các ngành có liên quan đến giáo dục. Vì mục
đích của giáo dục so sánh mang lại cho chúng ta thật to lớn:
Giáo dục so sánh là hiểu biết tốt hơn về giáo dục địa phương của mình.Giáo dục so
sánh phát triển cải tiến hoặc cải cách giáo dục ở nơi mình và nơi khác, ở trong và
ngồi nước.Giáo dục so sánh là phát triển kiến thức, lý luận, nguyên tắc và quy luật về
giáo dục nói chung và mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội.Giáo dục so sánh là hiểu


biết và hợp tác quốc tế hoặc quốc nội, giải quyết các vấn đề quốc nội, giải quyết các
vấn đề giáo dục cũng như vấn đề khác liên quan đến hợp tác giáo dục.
Vì Giáo dục so sánh có nhiều mục đích quan quan trọng như vậy nên các nhà
quản lý giáo dục cần phải nghiên cứu, so sánh các lĩnh vực giáo dục để thấy được
điểm mạnh, điểm yếu của giáo dục nước nhà để từ đó có phương hướng phát triển giáo
dục trong giai đoạn tiếp theo. Trong phạm vi bài tiểu luận, em xin đề cập đề tài: “So
sánh giáo dục tiểu học Nhật Bản và Việt Nam”.Qua bài tiểu luận này em mong muốn
đưa ra những giải pháp cơ bản đối với giáo dục tiểu học Việt Nam.



CHƯƠNG 1
SƠ LƯỢC BỐI CẢNH, SỰ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM
1. Bối cảnh, sự phát triển giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học của Nhật Bản
nói riêng
1.1.Vài nét giới thiệu Nhật Bản
- Diện tích : Trên đất liền: 364.571 km²
- Dân số : 125.8 triệu người tính đến tháng 12 năm 2021(chiếm 1,59% dân số thế
giới)
- Thủ đơ : Tokyo
- Ngơn ngữ chính : Tiếng Nhật
- Quốc khánh : 23/12/1933 (ngày sinh của Nhật Hoàng Akihito )
- Đơn vị tiền tệ : Yên

Nhật Bản đã có người sinh sống ngay từ cuối thời kỳ đồ đá cũ. Ngay sau thời kỳ
băng hà cuối cùng, khoảng 12.000 trước công nguyên, hệ sinh thái phong phú trên
quần đảo Nhật Bản đã giúp đẩy nhanh sự phát triển lồi người, sản sinh ra nền văn hóa
đất nung nổi tiếng của thời kỳ Jomon. Lịch sử Nhật Bản với nhiều thời kỳ cô lập thay
thế nhau bị gián đoạn bởi các ảnh hưởng cấp tiến, thường là cách mạng từ thế giới bên
ngồi.
Nền chính trị Nhật Bản được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế quân
chủ lập hiến và cộng hòa đại nghị (hay chính thể qn chủ đại nghị) theo đó Thủ tướng


giữ vai trị đứng đầu nhà nước và chính đảng đa số. Quyền hành pháp thuộc về chính
phủ. Lập pháp độc lập với chính phủ và có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm với chính
phủ, trong trướng hợp xấu nhất có thể tự đứng ra lập chính phủ mới. Tư pháp giữ vai
trò tối quan trọng và đối trọng với chính phủ và hai viện quốc hội (the Diet) gồm
thượng viện và hạ viện). Hệ thống chính trị Nhật được thành lập dựa trên hình mẫu
cộng hồ đại nghị của Anh quốc và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nước dân luật ở

châu Âu, cụ thể là hình mẫu của nghị viện Đức Bundestag. Vào 1896 chính quyền
Nhật thành lập bộ luật dân sự Minpo dựa trên mơ hình của bộ luật dân sự Pháp. Mặc
dù có thay đổi sau Thế chiến II nhưng bộ luật cơ bản còn hiệu lực đến nay.
Sau khoảng 10 năm hậu chiến, Nhật Bản đã đạt được các kỳ tích về kinh tế và
đời sống của nhân dân được nâng cao. Bước phát triển kinh tế ngoạn mục đem đến cho
Nhật Bản vai trò quốc tế như một quốc gia thương mại và dần dần trở thành nước có
tiềm lực kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, sau Hoa Kỳ.
1.2 Sự phát triển giáo dục Nhật Bản

Nhật Bản rất coi trọng, quan tâm và đầu tư cho ngành giáo dục nước nhà, là một
trong những nước có nền giáo dục phát triển nhất trên thế giới.
Giáo dục ở Nhật có tính cạnh tranh rất cao, đặc biệt ở các kỳ thi tuyển sinh đại học,
điển hình là các kỳ thi tuyển của hai trường đại học cao cấp Tokyo và Kyoto. Người
Nhật Bản luôn coi trọng đến bằng cấp.


Chương trình đánh giá sinh viên của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD hiện
xếp Nhật Bản ở vị trí thứ sáu thế giới về kĩ năng và kiến thức của học sinh mười sáu
tuổi.
Tỷ lệ người mù chữ ở Nhật Bản bằng 0 và có 72,5% học sinh theo học lên bậc
Trung cấp, Cao đẳng, Đại học. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học đệ nhị cấp ở Nhật là 90%. Tỷ
lệ học cấp 3 là 96.9%, do vậy nhiều người có chủ trương đưa giáo dục cấp 3 thành
giáo dục bắt buộc.
Nhật Bản với khoảng hơn 1.000 trường Đại học và Cao đẳng, chính phủ Nhật
Bản còn chú trọng đầu tư vào hệ thống giáo dục trung học chuyên nghiệp, trung học
chuyên tu và các trường chuyên môn với mạng lưới dày đặc hơn 3.000 trường.
Hệ thống giáo dục Nhật Bản hiện nay được biết đến ở “Hệ thống 6 – 3 – 3 – 4″,
nghĩa là 6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông và 4 năm
Đại học được xây dựng trên nền tảng Luật giáo dục cơ bản xây dựng từ năm 1947.
Luật quy định giáo dục nghĩa vụ là 9 năm cho nên nhà nước miễn phí tiền học và mua

sách giáo khoa và cấp phát miễn phí cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9, giáo dục từ cấp 3
trở lên là không bắt buộc. Còn bậc Đại học, quy định chung là 4 năm, nhưng với
những ngành học như y khoa, thú y… thì hệ Đại học có thể kéo dài đến 6 năm, hệ Cao
đẳng thì từ 2 đến 3 năm.
Sau khi hết trung học cơ sở, nếu không vào trường trung học phổ thơng thì học sinh
vẫn có thể chọn lựa trường trung học chuyên tu, chuyên nghiệp để sớm có được kỹ
thuật chun mơn, đây cũng là sự lựa chọn của khơng ít giới trẻ Nhật Bản.
Để đáp ứng nhu cầu học ở bậc Đại học ngày càng tăng nhanh, kể từ những năm
50 (thế kỷ XX), Ở Nhật Bản đã hình thành các trường Đại học Dân lập. Tuy nhiên từ
những năm 1970 trở lại đây, Nhật Bản đã có những chính sách cụ thể để hạn chế sự
cạnh tranh hỗn loạn của các loại hình dân lập này, bảo đảm chất lượng của sinh viên
đại học khi ra trường.
Hiện nay Nhật Bản đang thực hiện các chính sách thu hút sinh viên nước ngoài đến
học tập. Rất nhiều trường Dự bị được mở ra nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cho sinh
viên nước ngoài như trường Kurume, Koiwa, Ngoại ngữ Osaka…Chính phủ Nhật cịn
hỗ trợ cho lưu học sinh thơng qua các chương trình học bổng như Học bổng tồn phần,
miễn học phí, hỗ trợ tiền thuê nhà, ăn ở… Ngoài ra, để hỗ trợ cho các chi phí như học
phí, phụ phí và các khoản sinh hoạt phí, sinh viên được phép làm việc bán thời gian và


vay từ Tổ chức học bổng của chính phủ, ngồi ra cịn có nhiều tổ chức khác từ chính
quyền địa phương, cơ quan phi lợi nhuận cũng góp phần khơng nhỏ về mặt tài chính
hỗ trợ cho sinh viên.
Nhật Bản là một trong những đất nước có chất lượng học tập và chất lượng
giảng dạy tốt nhất thế giới, thành tích và năng lực của sinh viên các trường khác nhau
không chênh lệch nhiều, hầu hết sinh viên đều nắm rõ và làm chủ chương trình học
tập. Chính phủ Nhật đang định hướng phương pháp giảng dạy hiệu quả, phù hợp nhất
cho các giáo viên, giảng viên. Nhật Bản đang cố gắng từng bước để tiêu chuẩn hóa
trình độ giáo viên. Người dân Nhật rất khơng thích áp dụng phương pháp giảng dạy
của nước ngoài mà muốn đưa ra phương pháp của chính mình nhằm phù hợp nhất với

lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, lối sống, con người Nhật Bản. Điều này đã tạo ra một
nền giáo dục mang đặc trưng riêng của đất nước mặt trời mọc.
Hiện nay, Chính phủ Nhật Bản đang tiếp tục đầu tư cho giáo dục nhằm đưa Nhật
Bản trở thành nước có hệ thống giáo dục phát triển nhất thế giới, tạo ra môi trường học
tập lý tưởng nhất cho sinh viên Nhật và sinh viên nước ngoài.
1.3. Giáo dục tiểu học của Nhật Bản

Trường công là dành cho tất cả mọi cơng dân đến tuổi đi học, chính quyền quy
định người sống ở địa bàn nào thì phải đi học ở trường dành cho địa bàn đó. Nếu
khơng thích học trường cơng thì có thể chọn trường tư để thi vào và thi rất khó khăn,
chi phí cao. Chuyện học trường tư hay cơng hồn tồn do điều kiện kinh tế và mục tiêu
giáo dục của mỗi gia đình quyết định.Trường tư thường xa nhà, học sinh bé đã tự mình
đi xe buýt, tàu điện đi học..cũng là một cách rèn tính độc lập.


1.3.1 Chương trình giáo dục tiểu học
Nhật Bản đã sớm có chính sách phát triển hệ thống giáo dục tiểu học bắt buộc
và bình đẳng đối với tất cả trẻ em bắt đầu từ 6 tuổi, không phân biệt nam nữ, tơn giáo,
thành phần xã hội... Chính sách giáo dục bắt buộc cũng được thực thi và điều chỉnh
theo từng giai đoạn thích hợp. Số năm học bắt buộc được nâng dần từ 3-4 năm (1886)
lên 6 năm vào năm 1908. Tỷ lệ nhập học bậc tiểu học đã đạt 99% (1899). Giáo dục bắt
buộc và miễn phí 9 năm (hết trung học cơ sở) được thực hiện từ năm 1947 với việc
ban hành Luật cơ bản về Giáo dục và Luật giáo dục nhà trường. Nhờ chính sách này
mà ngay từ đầu thế kỷ 20, Nhật Bản đã sớm thực hiện thành công phổ cập tiểu học bắt
buộc cho trẻ em trong độ tuổi .Cấp tiểu học: từ lớp 1 đến lớp 6:
Lớp
Lớp Một
Lớp Hai
Lớp Ba
Lớp Bốn

Lớp Năm
Lớp Sáu
Ở hầu hết các trường tiểu học và

Độ tuổi
6-7
7-8
8-9
10/09
10-11
11-12
trung học bậc thấp, chương trình giảng dạy

được biên soạn phù hợp với các khóa học trên phạm vi tồn quốc, vì vậy hầu như
khơng có sự khác nhau về nội dung giảng dạy. Tuy nhiên, quy mô lớp học (số học sinh
trong một lớp) lại rất khác nhau tùy thuộc vào địa điểm của trường học. Quy mơ lớp
học trung bình trong toàn quốc ở tiểu học là 31,5 và trung học bậc thấp là 38,1. Quy
mô lớp học lớn nhất đối với các trường công trong giai đoạn giáo dục bắt buộc là 45.
Năm 2017, ở các trường tiểu học, các lớp học có từ 41 đến 45 học sinh chiếm 13%
trong tổng số (cụ thể là: 44.004 lớp trong tổng số lớp của tồn quốc là 330.324), trong
khi đó các lớp có 7 học sinh hoặc ít hơn chỉ chiếm 6% (19.998). Các trường tiểu học
công ở những vùng hẻo lánh được chính quyền địa phương thiết lập là những trường
được quan tâm đặc biệt. Các trường này chiếm 19% (4.720) trong tổng số. Nhiều
trường như vậy đã tổ chức các lớp học ghép các trình độ khác nhau do có ít học sinh.
Bộ Giáo dục quy định số giờ học hàng năm cho mỗi khối lớp. Hiện nay, số giờ
học quy định cho khối lớp 1 , 2 và 3 là 850, 910 và 980. Cho các khối từ lớp 4 đên lớp
6 là 1.01 5. ở các truờng trung học bậc thấp, số giờ học hàng năm cho các khối lớp đều
là 1.015 .
Để đáp ứng yêu cầu này, tất cả các trường cơng đều có tổng số ngày giảng dạy
trên lớp ít nhất là 210 ngày, hoặc hơn 35 tuần. Có nhiều trường đề ra số ngày đến



trường hàng năm là 220 ngày hoặc hơn. Trong chương trình giảng dạy sắp tới, số ngày
đến trường hàng năm có thể là 39 tuần hoặc hơn.
Trong hầu hết các trường học, học sinh lớp trên học 6 tiết mỗi ngày từ thứ hai
đến thứ sáu, riêng ngày thứ bảy học từ 2 đến 4 tiết. Tuy số ngày đến trường học tập
cho mọi khối lớp đều như nhau nhưng các lớp thấp hơn học ít tiết hơn. Chẳng hạn, một
trường tiểu học điển hình ở Tokyo cho học sinh lớp một học 5 tiết mỗi ngày từ thứ hai
đến thứ sáu.
1.3.2 Nội dung, phương pháp giáo dục tiểu học
* Năm học ở Nhật bắt đầu từ tháng 4 khi hoa đào nở rộ các sân trường, kết thúc
vào trung tuần tháng 3. Mỗi năm có 3 học kỳ.Học kỷ 1 từ tháng 4 đến giữa tháng 7,
học kỳ 2 từ tháng 9 đến giữa tháng 12, học kỳ 3 từ trung tuần tháng 1 đến giữa tháng
3.
* Cơ cấu giáo viên: bộ máy nhà trường gọn nhẹ, mỗi giáo viên đều kiêm luôn
nhiều thứ không chỉ là dạy cho nên không cần các nhân viên theo kiểu ngồi chơi xơi
nước. Mỗi người đều bận rộn, đầy ắp với những bổn phận và trách nhiệm của mình.
Giáo viên nam và nữ khá đồng đều trong nhà trường.
* Phương pháp giảng dạy: các thầy cô giáo được chủ động phương pháp giảng
dạy của mình miễn sao học sinh hiểu nội dung cần chuyển tải. Phương pháp dạy của
mỗi giáo viên đều độc đáo, mang dấu ấn cá nhân và tạo sự khác biệt thú vị cho học
sinh. Trong suốt buổi học hầu như giáo viên gắn bó với lớp, hết mơt tiết thì ở lại
chuyện trị vui chơi hay lắng nghe một cách bí mật những gì đang diễn ra với học sinh
của mình. Trong thời gian học sinh ở trường, hầu như trong văn phịng nhà trường
khơng có bóng giáo viên. Mọi người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ học sinh khi cần thiết.
Giáo viên khi dạy thường ăn mặc quần áo dễ vận động , trừ khi cần thiết lắm mới mặc
bộ vest, nhưng sau giờ cần phải mặc bộ đó thì lập tức thay ngay để năng động và linh
hoạt. Giáo viên tiểu học hầu như bao sân ln cả thể dục, có khả năng dạy đơn sơ về
nhạc, dạy luôn cả vẽ.
*Sách giáo khoa: sách giáo khoa cho trường tư và công khác nhau. Và một số

môn thì sách giáo khoa mơn đó của mỗi địa phương có nội dung khác nhau vì học sinh
địa phương nào trước hết phải hiểu rõ nơi mình sống. Nội dung sách giáo khoa thường
dạy những điều thiết thực cho cuộc sống, những điều tưởng như khơng cần dạy: ví dụ
tiền ở đâu ra, chi tiêu cần phải có kế hoạch thế nào..


* Môn thể dục, nhạc, và họa: Ở tiểu học các môn này được dạy và học đều
đặn, quan trọng. Trẻ con bốn mùa đều chỉ mặc áo cộc tay, quần cộc khi học môn thể
dục, kể cả khi trời lạnh cắt da thì giờ thể dục cũng chỉ áo cộc, quần cộc như vậy, khi
hoạt động thì cơ thể sẽ ấm lên. Các trường đều có bể bơi để dạy cơ bản về bơi cho học
sinh, dù hiện tại chỉ mới học bơi ở trường vào mấy tháng mùa hè, hầu nhưu chỉ tháng 6
và 7. Học nhạc và họa ở lớp cao hơn thì có giáo viên riêng dạy. Thể dục thì vẫn là giáo
viên chủ nhiệm kiêm nhiệm. Mỗi năm ở trường có Lễ hội Thể dục, cuộc chạy
marathon, Biểu diễn văn nghệ, triển lãm tranh ..là những hoạt động thiết thực để việc
học thể thao, âm nhạc và hội họa có thêm những cột mốc, những động lực cho việc
học các mơn đó. Biểu diễn văn nghệ là học sinh cả trường biểu diễn, mỗi khối lớp đều
có tiết mục hát và tiết mục nhạc, các học sinh có thể sử dụng các nhạc cụ cơ bản.
Phương pháp dạy về thể dục, nhạc họa nhưu thế này góp phần tạo ra những thế hệ thể
lực tốt, khả năng cảm nhận âm nhạc, hội họa tốt cho thế hệ tương lai bởi vì được dạy
bền bỉ, kiên trì từ bé.
* Mơn tiếng Anh: mọi người chú trọng mơn tiếng Anh vì đó là ngơn ngữ giao
tiếp cho một thế hệ mà quan hệ quốc tế rất quan trọng, ở các lớp thấp thì tiếng Anh
được dạy như là một hoạt động vui chơi để trẻ con quen với tiếng Anh, lớp 5 và 6
được dạy nhiều hơn nhưng nói chung ở cấp 1 thì chưa đặt nặng kiến thức mà chỉ làm
quen, thích nghi với mơn đó mà thôi. Trong các trường tiểu học hầu như đều có giáo
viên nước ngồi tới dạy tiếng Anh. Ngồi ra các bậc phụ huynh cũng chú trọng cho
con học thêm ở các trung tâm tiếng Anh.
* Xưng hô trong trường học: Tiếng Nhật thường dùng chữ san ở sau họ của
mỗi người để dùng trong giao tiếp hàng ngày, ví dụ Suzuki san, Yamamoto San..trong
giao tiếp của người lớn với nhau cũng vậy, trừ đặc biệt là sama với những trường hợp

đặc biệt tơn kính. Trong trường học giáo viên thường gọi học sinh bằng họ với chữ san
đằng sau như vậy, nhưng cũng có lúc thân mật thì gọi tên và đệm là kun( cho con trai),
chan( cho con gái). Học sinh gọi sensei khi thưa gửi với giáo viên.
* Dạy trẻ với lao động: các em học sinh phải tất cả cùng nhau vệ sinh phòng
học, trường lớp sau mỗi giờ ăn trưa hàng ngày và vào ngày cuối của mỗi học kỳ.Các
em thay phiên nhau trực nhật đi nhận đồ ăn trưa về cho cả lớp, chia cho cả lớp và dọn
dẹp. Một số hoạt động như School festival cũng do học sinh tự làm các đồ chơi, đồ vật
sử dụng trong ngày đó.


×