Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SO SÁNH SO SÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CÔNG TY TNHH 250 THÀNH VIÊN. BÌNH LUẬN VỀ THỰC TRẠNG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ CỔ PHẦN HÓA DNNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.63 KB, 22 trang )

Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Viện Đào tạo Sau Đại học
Đề tài :
SO SÁNH SO SÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CÔNG TY
TNHH 2-50 THÀNH VIÊN. BÌNH LUẬN VỀ THỰC
TRẠNG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƯỢC HÌNH THÀNH
TỪ CỔ PHẦN HÓA DNNN
GVHD : PGS. TS. Bùi Xuân Hải
Lớp : Cao học Ngân hàng Đêm 4
Khóa : 22
TP HCM, Ngày 15 tháng 4 năm 2013
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
PHẦN 1: SO SÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CÔNG TY TNHH 2-50 THÀNH VIÊN 3
PHẦN 2: BÌNH LUẬN VỀ THỰC TRẠNG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƯỢC HÌNH
THÀNH TỪ CỔ PHẦN HÓA DNNN 7
KẾT LUẬN 19
LỜI NÓI ĐẦU

Trong những năm qua, với sự chuyển dịch từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các công ty thương mại đã được Nhà nước ta thừa nhận
và bảo vệ bằng pháp luật. Xu hướng này mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Nhiều hình thức doanh nghiêp như: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH (trách
nhiệm hữu hạn), Công ty Cổ phần và Công ty hợp danh đã hình thành và phát triển. Tuy nhiên,
quyết định lựa chọn loại hình nào trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là một vấn đề phải xem
xét, đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về các loại hình doanh nghiệp.
Hiện nay, Công ty TNHH và Công ty Cổ phần là hai loại hình doanh nghiệp đang khá phổ
biến. Hai loại hình doanh nghiệp này có sự giống nhau và khác nhau như thế nào? Có những
thuận lợi và khó khăn khi hoạt động ra sao? Rõ ràng ngoài việc nắm rõ pháp luật chung để làm
đúng pháp luật, thì việc phân tích ưu thế trong hoạt động kinh doanh của hai loại hình doanh


nghiệp sẽ giúp cho những chủ doanh nghiệp tương lai đưa ra quyết định lựa chọn loại hình khả
thi, phù hợp và hiệu quả nhất .Bài tiểu luận của chúng tôi sẽ giải đáp những vấn đề này, qua đó
cung cấp cho người đọc có cái nhìn rõ nét hơn về Công ty TNHH và Công ty Cổ phần.
Đồng thời, từ thực trạng kinh doanh kém hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước và để
kinh tế quốc doanh giữ được vai trò chủ đạo, cần phải đổi mới một cách căn bản hoạt động của
loại hình doanh nghiệp này. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp quan trọng để
đổi mới quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác, cổ phần hoá là một giải pháp
quan trọng góp phần hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta - một công cụ quan trọng,
thiết yếu cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Nên việc vận dụng những kết quả nghiên
cứu thực trạng của các công ty cổ phần được hình thành thành từ cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà
nước để tổng kết những mặt được và những mặt còn tồn tại nhằm đưa ra những giải pháp đẩy
nhanh hơn, hoàn thiện hơn quá trình này là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng, cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 2
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm em xin đi đến đề tài : “ So sánh công ty cổ phần và
công ty TNHH 2-50 thành viên .Bình luận về thực trạng hoạt động của các công ty cổ phần
đuwọc hình thành từ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước ”
Trong quá trình thực hiện , những ngiên cứu của chúng tôi chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót cũng như những ý kiến trái chiều từ người đọc, vì thế chúng tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của giáo viên bộ môn để có thể sửa chữa, khắc phục, củng cố lại vốn kiến
thức của mình và để tiểu luận của chúng tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn Thầy!
PHẦN 1: SO SÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CÔNG TY TNHH 2-
50 THÀNH VIÊN
I. Khái niệm :
- Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông,
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở
hữu.
- Công ty TNHH 2 thành viên trở lên là loại hình công ty gồm tối thiểu 2 thành viên và tối

đa không quá 50 thành viên góp vốn thành lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình.
II. So sánh công ty cổ phần và công ty TNHH 2-50 thành viên:
 Giống nhau:
- Thành viên có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
- Đều chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp
- Đều là loại hình công ty đối vốn
- Chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của công ty
- Đều có được quyền chuyển nhượng vốn theo quy định của pháp luật
- Đều được phát hành trái phiếu
- Đều sẽ có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
- Vốn điều lệ là vốn do các thành viên góp hoặc cam kết góp trong một khoảng thời gian
nhất định và được quy định trong điều lệ CTTNHH2 hoặc CTCP.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 3
- Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử
dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi
trong Điều lệ công ty hoặc do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty.
- Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên đó
bỏ phiếu không tán thành đối với quyết định của HĐTV hoặc ĐHĐCĐ về các vấn đề sau
đây: (a) Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của thành viên, HĐTV hoặc ĐHĐCĐ; (b) Tổ chức lại công ty; hoặc (c) Các
trường hợp khác quy định tại Điều lệ của công ty.
 Khác nhau:
Nội dung chính CTCP
CTTNHH hai thành
viên trở lên
Số lượng thành
viên
Lượng thành viên tối thiểu là 3,
không giới hạn số lượng thành viên

tham gia.
Lượng thành viên tối thiểu là 2, tối
đa là 50 thành viên.
Vốn Vốn được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần.
Vốn không được chia thành nhiều
phần bằng nhau.
Huy động vốn Được phát hành cổ phiếu để huy
động vốn.
Không được phát hành cổ phiếu để
huy động vốn.
Chuyển nhượng
vốn
Được tự do chuyển nhượng vốn theo
quy đinh của pháp luật.
Quy định chặt chẽ hơn,phải chào bán
cho thành viên trong công ty trước.
Trong thời gian 30 ngày nếu thành
viên trong công ty không mua hoặc
mua không hết. lúc này mới được
chuyển nhượng cho người ngoài
công ty.
Tổ chức quản lí Cơ cấu tổ chức phức tạp gồm
- Đại hội đồng cổ đông.
- Hội đồng quản trị.
- Giám đốc hoặc tổng giám đốc.
- Công ty cổ phần có trên 11 cổ
đông phải có ban kiểm soát gồm từ 3
đến 5 thành viên.
Cơ cấu tổ chức đơn giản hơn gồm

- Hội đồng thành viên.
- Chủ tịch hội đồng thành viên.
- Giám đốc hoặc tổng giám
đốc.
- Công ty TNHH trên 11 thành
viên phải có ban kiểm soát.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 4
Pháp lý Công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh
của pháp luật nhiều hơn: Những điều
kiện ràng buộc khi phát hành cổ
phiếu; Sự công khai, minh bạch trên
báo cáo tài chính của công ty; những
quy định bắt buộc về thời gian nắm
giữ cổ phiếu đối với cổ đông sáng lập
Công ty TNHH ít chịu sự điều chỉnh
của pháp luật hơn công ty cổ phần
Thuận lợi Trách nhiệm pháp lý có giới
hạn: trách nhiệm của các cổ đông
chỉ giới hạn ở số tiền đầu tư của họ.
Công ty cổ phần có thể tồn tại
ổn định và lâu bền
Tính chất ổn định, lâu bền, sự
thừa nhận hợp pháp, khả năng
chuyển nhượng các cổ phần và trách
nhiệm hữu hạn, tất cả cộng lại, có
nghĩa là nhà đầu tư có thể đầu tư mà
không sợ gây nguy hiểm cho những
tài sản cá nhân khác và có sự đảm
bảo trong một chừng mực nào đo giá
trị vốn đầu tư sẽ tăng lên sau mỗi

năm. Điều này đã tạo khả năng cho
hầu hết các công ty cổ phần tăng vốn
tương đối dễ dàng.
Được chuyển nhượng quyền sở
hữu: Các cổ phần hay quyền sở hữu
công ty có thể được chuyển nhượng
dễ dàng, chúng được ghi vào danh
mục chuyển nhượng tại Sở giao dịch
chứng khoán và có thể mua hay bán
trong các phiên mở cửa một cách
nhanh chóng. Vì vậy, các cổ đông có
thể duy trì tính thanh khoản của cổ
phiếu và có thể chuyển nhượng các
cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ
Có nhiều chủ sở hữu hơn doanh
nghiệp tư nhân (DNTN) nên có thể
có nhiều vốn hơn, do vậy có vị thế tài
chính tạo khả năng tăng trưởng cho
doanh nghiệp.
Khả năng quản lý toàn diện do
có nhiều người hơn để tham gia điều
hành công việc kinh doanh, các thành
viên vốn có trình độ kiến thức khác
nhau, họ có thể bổ sung cho nhau về
các kỹ năng quản trị.
Trách nhiệm pháp lý hữu hạn.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 5
cần tiền mặt.
Khó khăn Công ty cổ phần phải chấp
hành các chế độ kiểm tra và báo cáo

chặt chẽ.
Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của
các cổ đông và để thu hút các nhà
đầu tư tiềm tàng, công ty thường
phải tiết lộ những tin tức tài chính
quan trọng, những thông tin này có
thể bị đối thủ cạnh tranh khai thác.
Phía các cổ đông thường thiếu
quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ
đông chỉ lo nghĩ đến lãi cổ phần
hàng năm và ít hay không quan tâm
đến công việc của công ty. Sự quan
tâm đến lãi cổ phần này đã làm cho
một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến
mục tiêu trước mắt chứ không phải
thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu
hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn
bảo toàn hay tăng lãi cổ phần để
nâng cao uy tín của bản thân mình.
Công ty cổ phần bị đánh thuế
hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào
công ty. Sau đó, khi lợi nhuận được
chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào
thu nhập cá nhân của từng cổ đông.
Khó khăn về kiểm soát: Mỗi
thành viên đều phải chịu trách
nhiệm đối với các quyết định của
bất cứ thành viên nào trong công ty.
Tất cả các hoạt động dưới danh
nghĩa công ty của một thành viên

bất kỳ đều có sự ràng buộc với các
thành viên khác mặc dù họ không
được biết trước. Do đó, sự hiểu biết
và mối quan hệ thân thiện giữa các
thành viên là một yếu tố rất quan
trọng và cần thiết, bởi sự ủy quyền
giữa các thành viên mang tính mặc
nhiên và có phạm vi rất rộng lớn
Thiếu bền vững và ổn định, chỉ
cần một thành viên gặp rủi ro hay có
suy nghĩ không phù hợp là công ty
có thể không còn tồn tại nữa; tất cả
các hoạt động kinh doanh dễ bị đình
chỉ. Sau đó nếu muốn thì bắt đầu
công việc kinh doanh mới, có thể có
hay không cần một công ty TNHH
khác.
Còn có bất lợi hơn so với
DNTN về những điểm như phải chia
lợi nhuận, khó giữ bí mật kinh
doanh và có rủi ro chọn phải những
thành viên bất tài và không trung
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 6
thực.
PHẦN 2: BÌNH LUẬN VỀ THỰC TRẠNG CÁC CÔNG TY
CỔ PHẦN ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ CỔ PHẦN HÓA
DNNN
I. Bản chất của cổ phần hoá
1. Khái niệm :
Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thực chất là quá trình chuyển đổi các doanh

nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà
nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều cổ phần do
tối thiểu hai cổ đông sở hữu, được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân. Các cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số
vốn mà họ đã góp.
2. Tại sao phải cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà Nước
Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ra đời và hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá
tập trung với một thời gian dài. Mặt khác, do hình thành từ những nguồn gốc khác nhau và
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 7
được sản xuất trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
có những đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đó là:
- Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biêu rhiện ở số lượng lao
động và mức độ tích luỹ vốn.
- Trên thực tế doanh nghiệp Nhà nước nộp ngân sách chiếm 80-85% tổng số thu
nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng góp
được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí, tài sản cố định và đất
theo giá thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không tạo ra được tích luỹ.
Điều đó có nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước không tương xứng với phần đầu
tư của Nhà nước cho nó cũng như không tương xứng với tiềm lực của chính doanh nghiệp
Nhà nước.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, tình hình này có phần do hậu quả nặng nề của thời
kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây và ảnh hưởng nghiêm trọng của chiến tranh.
Máy móc, thiết bị đã quá lạc hậu, lỗi thời gây khó khăn cho việc tăng năng suất lao động và
nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp Nhà nước.
II. Thực trạng các công ty cổ phần sau khi được cổ phần hóa từ DNNN là :
1. Những ví dụ điển hình về các công ty cổ phần được hình thành từ cổ phần hóa
DNNN :
1.1.1. Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) :
Là một doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên nhập dây chuyền sản xuất giấy đế, Hapaco gặp

ngay phải một rắc rối là Quốc hội vừa thông qua Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt, trong đó quy
định giấy vàng mã không khuyến khích tiêu thụ. Phải trải qua rất nhiều khó khăn cuối cùng
Hapaco đã được Thủ tướng Chính phủ ký và đề nghị các cơ quan giải quyết và tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nhập hàng. Đó là nền tảng đầu tiên giúp Hapaco trở thành đơn vị
xuất khẩu giấy đế lớn nhất Việt Nam. Không những thế, đó còn là động lực cho Hapaco
thực sự chuyển mình sau cổ phần hóa. Ngay từ khi mới cổ phần hóa 1 bộ phận lấy tên là
công ty Cổ phần Hải Âu (năm 1998), quyền làm chủ của người lao động đã thực sự phát
huy, chi phí đầu vào giảm tới trên 10% và sau 16 tháng sau khi chuyển đổi, vốn điều lệ của
công ty đã tăng trên 3 lần. Sau đó bộ phận còn lại của công ty Giấy Hải Phòng cũng được
cổ phần hóa và hợp nhất với công ty cổ phần Hải Âu trở thành công ty cổ phần Giấy Hải
Phòng (năm 1999). Sự hợp nhất sau cổ phần hóa giữa 2 bộ phận này đã tạo động lực mới
cho Hapaco, đưa doanh nghiệp này bước lên thị trường chứng khoán với giá cổ phiếu luôn
dẫn đầu tỷ suất lợi nhuận trên vốn mấy năm gần đây đều đạt trên 40%/năm.
Từ một doanh nghiệp trước bờ vực phá sản, Hapaco đã vươn lên trở thành một công ty
có tiếng trên thị trường chứng khoán. Với Hapaco, cổ phần hóa chính là con đường đúng
đắn để đi đến được thành công ngày hôm nay.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 8
1.2. Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Đà Nẵng ( vốn Nhà Nước chi phối là
41,54 %)
Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Đà Nẵng CPH theo theo Nghị định 64 của Chính phủ và
được thành lập theo Quyết định số 27/2004/QĐ-UB ngày 24 tháng 2 năm 2004 của UBND thành
phố Đà Nẵng về việc phê duyệt phương án CPH DNNN chuyển Công ty thương mại - dịch vụ
Đà Nẵng thành Công ty CP thương mại - dịch vụ Đà Nẵng, tiến hành Đại hội cổ đông ngày 31
tháng 3 năm 2004 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2004.
Sau khi chuyển sang CTCP đơn vị hoạt động tương đối ổn định.
+ Tình hình doanh thu: doanh thu của công ty tăng, năm 2005 doanh thu đạt 81,224 tỷ đồng cao
hơn doanh thu năm 2004 (61,776 tỷ đồng) là 19,448 tỷ đồng và mức tăng là 31,48%.
+ Tình hình lợi nhuận, kim ngạch XNK: kinh doanh có lãi nhưng không tăng, KNXK tăng.
+ Tình hình thu nhập: Sau khi CPH lợi nhuận tuy không tăng nhưng số lao động giảm nên tình
hình thu nhập tăng lên so với trước, từ thu nhập bình quân năm 2004 là 1.062.000 đồng năm

2005 lên 1.523.000 đồng với mức tăng là 43,41%.
+ Về cổ tức: Cổ tức chia cho cổ đông cũng tăng năm 2004 là 152.299.000 đồng năm 2005 là
191.798.000 đồng với mức tăng 25,93%. Tỷ lệ chia cổ tức thường lớn hơn lãi suất tiền gửi tiết
kiệm ngân hàng.
Sau khi tiến hành cổ phần hóa , Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban giám đốc (BGĐ) công ty đã
có những định hướng cơ bản cho hoạt động của đơn vị, đồng thời nhanh chóng tiến hành những
biện pháp cụ thể để sắp xếp ổn định tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Phấn đấu tạo
dựng thương hiệu của đơn vị làm nền tảng cho việc ổn định phát triển kinh danh lâu dài, mở rộng
thị trường, ổn định và củng cố hệ thống tiêu thụ, xây dựng nhóm mặt hàng chủ lực có tính cạnh
tranh cao nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, bên cạnh đó gắn kết với nhà SX tạo mối quan
hệ hợp tác bền vững trong lĩnh vực sản xuất (SX), nâng cao chất lượng loại hình kinh doanh
(KD) dịch vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với
Nhà nước, không ngừng nâng cao mức sống đối với người lao động, đảm bảo kinh doanh có lãi
để chia cổ tức cho cổ đông.
1.3. Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu xây dựng Đông Anh:
Theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần: Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu
xây dựng Đông Anh quyết định thực hiện cổ phần hoá. Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu xây
dựng Đông Anh sẽ giữ nguyên vốn nhà nước hiện có và phát hành thêm cổ phiếu để huy động
thêm vốn.
Với cố gắng vượt trội kể từ ngày chuyển đổi thành công ty cổ phần (01/08/2005) Công ty cổ
phần tấm lợp và vật liệu xây dựng Đông Anh đánh dấu một bước chuyển mình trong toàn ngành
xây dựng Việt Nam; Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu xây dựng Đông Anh đã thành công
trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh hiệu quả và tăng trưởng. Tổng doanh thu đạt gần 30
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 9
tỷđồng phản ánh chất lượng quản lý kinh doanh và quản lý rủi ro của công ty không ngừng được
cải tiến , nâng cao. Thực hiện định hướng chiến lược phát triển ngành xây dựng Việt Nam, Năm
2005 Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu xây dựng Đông Anh đã xây dựng cho mình chiến lược
phát triển lâu dài. Phương hướng hoạt động luôn luôn được đổi mới sao cho phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Những nghiệp vụ mới ra đời kéo theo các dịch vụ khác

nhau, do vậy cán bộ công nhân viên trong công ty luôn đổi mới trong tư duy cũng như trong cách
làm.Công ty đã cơ cấu lại bộ máy các phòng ban với những chức năng nhiệm vụ rõ ràng; gắn
chặt quá trình kinh doanh trực tiếp và quản lý nghiệp vụđược cấu trúc theo hướng chuyên môn
hoá từng nhóm nghiệp vụ. Công ty áp dụng sử dụng công nghệ mới vào kinh doanh và công tác
quản lý vàđã thu được những hiệu quả rất khả quan.
Công ty đã tiến hành cổ phần hoá khá thuận lợi .Thực hiên hình thức cổ phần giữ nguyên gía
trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu, bán cổ phần nhằm thu
hút thêm vốn .Hoàn thiện các thủ tục hành chính có liên quan tới thủ tục cổ phần hoá . Vì vậy, có
thể nói công ty đã cổ phần hoá thành công trở thành công ty cổ phần với đúng nghĩa.
Trong quá trình cổ phần hoá công ty luôn được sự quan tâm giúp đỡ của Sở xây dựng Hà Nội,
Bộ tài chính và ngoài ra còn có các công ty như: công ty TNHH kiểm toán Việt Nam (VACO) và
Công ty chứng khoán Ngân hàng Đông Áđã tận tình cộng tác trong quá trình định giá tài sản.
Bên cạnh đó việc cổ phần của công ty diễn ra rất được sự hưởng ứng của tất cả cán bộ công
nhân viên trong công ty vì vậy việc bán cổ phần và các chính sách điều lệ trong quá trình thực
hiện luôn được thực hiện thuận tiện và nhanh chóng, không gặp nhiều khó khăn.
Và nhờ có chính sách của nhà nước về chính sách một cửa vậy nên vấn đề giải quyết các thủ
tụ hành chính đã trở nên hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn.
* Khó khăn:
Tuy vậy trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp còn nổi lên một số vấn đề sau:
Một là, nhàđầu tư cá thể phải tham gia cạnh tranh với một số ít nhà đầu tư có tổ chức , trong
điều kiện thông tin không đầy đủ và chính họ là những người phải trả giá cao hơn để cóđược cổ
phần của công ty .
Hai là, việc đấu thầu được tổ chức chung cho các nhàđầu tư trong và ngoài nước là có
hạn, không có thông tin cụ thể về lượng nhàđầu tư nứơc ngoài tham gia đấu thầu, tổng số cổ
phần mà họ đặt mua và số lượng trúng thầu cuối cùng .
* Những mặt được:
Về cơ bản, công tác cổ phần hoá Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu xây dựng Đông
Anh là tương đối hoàn chỉnh so với các điều lệ trong việc thực hiện cổ phần hoá.:
Đó là việc công ty đã định giáđược chính xác tài sản trước sự giám sát của công ty
TNHH kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty chứng khoán Ngân hàng Đông Á.

Công ty đã thực hiện việc bán cổ phần cho các cổđông với các loại cổ phần như: cổ phần
ưu đãi có ba loại là cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại;
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 10
còn lại là cổ phần phổ thông. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sử dụng có các
quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Cổ phần phổ thông không thể chuyển thành cổ phần ưu đãi, cổ
phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội cổ đông.
* Những mặt chưa được:
Công ty chưa thực hiện được việc phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của
pháp luật về chứng khoán.
Các cá thể người lao động, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, người Việt Nam định cưở nước
ngoài, người nước ngoài định của Việt Nam mua cổ phần của công ty còn hạn chế.
Việc định tải sản vẫn mang tính chất số liệu ảo do giải quyết công nợ, tài sản tồn đọng chưa
được như yêu cầu còn bị kéo dài, không dứt điểm.
1.4. CTCP Xây dựng công trình 675 (Cienco 675):
CTCP Xây dựng công trình 675 (Cienco 675) trực thuộc Tổng công ty Công trình giao thông
6 (Cienco 6) được cổ phần hóa từ năm 2006 với vốn điều lệ là 10 tỷ đồng. Con số 10 tỷ đồng vốn
điều lệ của 1 DN cổ phần hóa giai đoạn năm 2006 không lớn và so với hiện nay lại càng khiêm
tốn, nhưng đây lại là gánh nặng với Ban lãnh đạo cùng các cổ đông Cienco 675. Lý do là sau cổ
phần hóa, Công ty tuy mang danh vốn điều lệ 10 tỷ đồng, nhưng thực tế là âm vốn chủ sở hữu.
Tại cuộc họp ĐHCĐ đầu tiên để Công ty chính thức chuyển sang mô hình CTCP, lãnh đạo
Tổng công ty đã công khai rằng, thực ra, vốn chủ của Công ty bị âm gần 30 tỷ đồng, chứ không
phải dương 10 tỷ đồng như con số được hạch toán. Đến thời điểm này, Công ty vẫn chưa bù đắp
được khoản chênh lệch giữa vốn chủ sở hữu thực có và vốn theo hạch toán.
Một lãnh đạo khác của Cienco 675 bức xúc về tình trạng Công ty phải chịu mức định giá tài
sản quá lớn so với giá trị thực, trong khi phải kế thừa nhiều khoản nợ (trong đó có nợ quá hạn) có
từ trước đó mà không có cơ chế hỗ trợ. Sức khỏe tài chính đã yếu, lại phải kinh doanh trong bối
cảnh vốn không được bơm thêm, nên việc cổ phần hóa chỉ tạo sức ép lớn hơn cho Ban điều hành,
vì phải chịu trách nhiệm trước cổ đông trên con số vốn điều lệ “không thực” tới 10 tỷ đồng. Sau
5 năm hoạt động theo mô hình mới, Công ty đã phải oằn lưng ra trả nợ lãi với tổng số xấp xỉ
khoản vay, nhưng chẳng được một cơ chế khoanh, giãn nợ nào cả.

Nhiều cổ đông Cienco 675, trong đó có cả cán bộ, công nhân viên của Công ty được mua cổ
phần theo diện “ưu đãi, khuyến khích” cảm nhận rằng, họ đang phải trả giá cho quá khứ, khi
Cienco 675 bị định giá quá cao so với thực tế.
1.5. Beton 6
Được thành lập năm 1958 bởi Tập đoàn RMK (Mỹ), sau giải phóng được Nhà nước Việt Nam
tiếp quản, lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của Beton 6 là sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn. Giống
như các công ty nhà nước thời kỳ đó, Beton 6 hoạt động khá thụ động, nhưng vì là công ty hiếm
hoi hoạt động trong lĩnh vực bê tông đúc sẵn nên chiếm thị phần gần như tuyệt đối. Thêm vào
đó, bản chất ngành này cũng tạo ra lợi nhuận tốt, ổn định, tăng trưởng bình quân 15%/năm. Lợi
thế mang tính tự nhiên này này kéo dài cho đến thời kỳ cổ phần hóa.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 11
Đến khi cổ phần hóa, cơ chế thị trường đòi hỏi Beton 6 phải có sự chuyển biến. Nhưng nhìn
chung, đó vẫn là sự chuyển biến hụt hơi vì cơ chế tổ chức, văn hóa doanh nghiệp không đổi mới
triệt để, kinh doanh có chút chủ động nhưng không đáng kể. Chỉ có một điểm đáng lưu ý là
Beton 6 có ý định lấn sang lĩnh vực xây lắp công trình, song cũng chưa đi đến đâu vì thiếu tự tin.
Xây lắp là lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, lao động nhiều và kinh nghiệm thi công tốt. Nếu làm tốt,
lĩnh vực này có thể mang lại tỉ suất lợi nhuận trên 15%. Nhưng ngược lại, những rủi ro như thời
gian thi công đình trệ, chi phí nhân công và thiết bị cao, giá nguyên vật liệu tăng có thể làm thu
hẹp mức lãi hoặc thậm chí lỗ. Do những rủi ro này, đến năm 2009, bê tông đúc sẵn vẫn chiếm
hơn 70% cơ cấu doanh thu của Beton 6, còn lại là từ xây lắp công trình.
Cho nên, bức tranh sau cổ phần hóa của Beton 6 từ năm 2000 đến năm 2009 không thực sự
đột phá. Không chỉ hạn chế về năng lực mở rộng lĩnh vực kinh doanh, Beton 6 còn vấp phải
những hạn chế trong đầu tư và nhân sự.
2. Bình luận về thực trạng các công ty cổ phần được hình thành từ cổ phân hóa DNNN:
Cho đến nay, đã cổ phần hóa gần 4.000 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó có
gần 1.300 doanh nghiệp do Trung ương quản lý, hơn 2.300 doanh nghiệp nhà nước địa phương
và gần 400 doanh nghiệp thuộc tập đoàn, tổng công ty. Trong số các doanh nghiệp cổ phấn hóa,
chỉ có hơn 600 doanh nghiệp cổ phần hóa toàn bộ và số còn lại nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần;
và xét về tổng thể, nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ 57% sở hữu cổ phần trong tổng số doanh
nghiệp đã cổ phần hóa. Như vậy, có thể nói, nhà nước vẫn tiếp tục nắm sở hữu đa số trong phần

lớn các doanh nghiệp đã cổ phần hóa.
 Thành tựu đạt được :
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhìn chung các doanh
nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh với các mức độ khác
nhau.
Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh
nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh
thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên
90% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân
tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%,
cổ tức bình quân đạt 17,11% .
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 12
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hoá đều làm ăn khấm khá hơn (hơn 90% kinh doanh có lãi). Hiệu quả quản lý và năng lực kinh
doanh được cải thiện rõ rệt. Thu nhập và đời sống cán bộ công nhân viên từng bước được tăng
lên. Đó là những dấu hiệu đáng mừng. Cụ thể là tăng từ 10.725 tỷ đồngtrong năm 2000 len đến
103.887 tỷ trong năm 2005. Khi nghiên cứu các doanh nghiệp hơn một năm sau cổ phần hóa, có
850 doanh nghiệp thì cũng cho tháy là vốn điều lệ tăng bình quân là 44 %, doanh thu bình quân
tăng 23,6 % , lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 135,76 %. Đặc biệt có tới 90 % số daonh
nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doah có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9% thu
nhập bình quân của người lao động tăng 12 %, số lao động bình quân tăng 6,6 % .
Giá tri tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các công ty cổ phần từ 259.856 tỷ đồng
có đến cuối năm 2000 đã tăng lên 487.210 tỷ đến thời điểm cuối năm 2005. Doanh thu thuần sản
xuất kinh doanh từ 444.673 tỷ đồng trong năm 2000 đã lên 838.396 tỷ trong năm 2005, tương
ứng với tốc độ tăng trưởng bình quân là 14 %.
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 13
Trong thời kì hội nhập, sau đuwọc cổ phần hóa, các công ty cổ phần hoạt động hiệu quả hơn,
các hệ thống phân phối trên thị trường đuwọc mở rộng hơn , làm cho thị trường hàng hóa, dịch
vụ phát triển mạnh mẽ, tăng nhanh xuất khẩu nhập khẩu. Lấy công ty cổ phần sữa Việt Nam
Vinamilk làm ví dụ , công ty có một mạng lưới kinh doanh hiện đại với 176 nhà phân phối, 70

000 điểm bán lẻ . Sản phẩm của Vinamilk có 7 nhóm với 200 mặt hàng . Điều đó cho thấy rằng,
cổ phần hóa đã giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước
Việt Nam
Nhìn chung, kể từ thời điểm cổ phần hóa đến nay, các doanh nghiệp đã không ngừng lớn
mạnh về mọi mặt. Hoạt động điều hành của HĐQT, Ban Tổng Giám đốc trong sản xuất, kinh
doanh luôn linh động, sáng tạo, bám sát các chủ trương, chính sách của nhà nước và tỉnh. Ngoài
vốn chủ sở hữu tăng thì vốn điều lệ cũng được tăng. Nhờ chủ động đa dạng hoá các lĩnh vực hoạt
động nên lợi nhuận từ sản xuất, kinh doanh được tăng đều qua các năm, nghĩa vụ đóng nộp thuế
luôn được thực hiện đầy đủ. Bên cạnh sự vươn lên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thì lực
lượng lao động cũng có sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Các quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, các cổ đông được thực hiện khá đầy đủ, kịp
thời….Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách pháp luật về sử dụng đất đai được các doanh
nghiệp thực hiện tương đối đầy đủ, đáp ứng yêu cầu luật định.
 Hạn chế:
Bộc lộ một số “vấn đề” ở một số doanh nghiệp hậu cổ phần hoá :
Một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn nằm trong tình trạng “bình thì mới nhưng rượu vẫn
cũ”, nghĩa là ít có sự thay đổi về cơ cấu và cơ chế quản lý, năng lực điều hành đó là : “Sau khi
cổ phần hóa, khoảng 81,5% giám đốc, 78% chức danh phó giám đốc và kế toán trưởng không có
sự thay đổi. Điều này cho thấy trên thực tế là nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn hoạt động
như trước cả về tổ chức, tư duy, công nghệ, quản lý và triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp
của doanh nghiệp nhà nước. Nếu có thay đổi chỉ là giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũ trở thành
lãnh đạo mới của công ty cổ phần, chưa có doanh nghiệp nào sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều
hành” và tất nhiên là hiệu quả kinh doanh cũng không được cải thiện.
Vẫn có tới gần 10% doanh nghiệp hậu cổ phần hoá tiếp tục nằm trong tình trạng thua lỗ. Khá
hài hước nhưng không ngạc nhiên khi có Công ty cổ phần quyết định chia cổ tức bằng chè, bằng
nông sản Một phần do nhận thức của các cổ đông nhỏ lẻ (cá nhân, cán bộ công nhân viên )
chưa cao nên có tình trạng là họ hầu như không có thực quyền nào trong việc kiểm soát phần vốn
của mình cũng như thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của cổ đông. Do vậy, ở không ít Công ty cổ
phần, thực quyền chi phối doanh nghiệp nằm trong tay một số ít người có trách nhiệm và nắm
được thông tin. Vì thế, hiện tượng lạm dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân là không thể tránh khỏi.

Nhiều Công ty cổ phần nhiều năm không tiến hành đại hội cổ đông, không công khai báo cáo tài
chính Bi quan hơn, có một số doanh nghiệp nhà nước loại “vừa vừa” sau khi được cổ phần hoá
đang có nguy cơ bị “tư hữu hoá”.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) nhìn doanh nghiệp CPH với sự e dè, ngờ vực khi các
doanh nghiệp này tiến hành vay vốn. Trong lĩnh vực đấu thầu, xuất – nhập khẩu… doanh nghiệp
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 14
CPH không còn những lợi thế như trước. Ngoài ra, khi còn là DNNN, doanh nghiệp sẽ được bổ
sung vốn qua kênh đầu tư cơ bản hoặc bổ sung vốn lưu động, xóa nợ hoặc được bảo lãnh nợ, ít bị
nguy cơ tuyên bố phá sản. Các DNNN còn được ưu tiên nhận những dự án đầu tư, ưu tiên cấp
hạn ngạch trong xuất – nhập khẩu, ưu tiên được liên doanh với các đối tác nước ngoài. Tất cả
những ưu thế đó sẽ bị mất đi sau CPH, khiến nhiều DNNN cố tình trì hoãn CPH, mặc dù đang
thua lỗ hoặc bên bờ vực phá sản.
Sau CPH, các DNNN còn phải đối mặt với một vấn đề lớn là kế thừa một lực lượng lao động
dôi dư đáng kể từ doanh nghiệp cũ chuyển sang có trình độ thấp. Lao động dôi dư là lực cản
không nhỏ với sự phát triển của doanh nghiệp sau CPH, làm tăng thêm những khoản chi như đào
tạo lại cho người có trình độ thấp mà nếu không có nó, doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng sản
xuất hoặc tăng lương cho những người có chuyên môn cao để từ đó khuyến khích họ tích cực lao
động và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Cổ phần hoá dễ biến thành tư nhân hoá. Vấn đề xác định giá trị DN phải minh bạch, công
khai. Nhà nước ban hành nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/BTC tuy nhiên vẫn còn
nhiều vướng mắc.
Kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp do Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc UNDP và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Bộ Kế hoạch – Đầu tư phối
hợp tiến hành tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp sau
CPH đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đồng bộ thuộc thế hệ những năm 80
của thế kỷ 20; có tới 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, 53% doanh nghiệp
phụ thuộc vào thiết bị công nghệ nhập khẩu. Chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ
công nghệ tiên tiến. Mức độ đầu tư cho khoa học công nghệ rất khiêm tốn, chỉ vào khoảng 3%
doanh thu/năm. Cũng theo kết quả khảo sát này thì hầu hết các doanh nghiệp sau CPH tiến hành
đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, chủ yếu là công nghệ nhập khẩu từ

nước ngoài.
Các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn còn ôm những món nợ do khi chuyển đổi không xác định
rõ trách nhiệm người phải trả. Đó cũng là nỗi lo của các cơ quan quản lý, các chủ nợ – chủ yếu là
các ngân hàng – và chính các doanh nghiệp. Vấn đề khó xử mà các cơ quan này nêu ra là những
quy định việc kế thừa trách nhiệm về tài chính giữa DNNN trước đây và công ty cổ phần sau này
không rõ ràng. Vấn đề này dù đã được hướng dẫn trong Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày
26/6/2007, nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để.
3. Nguyên nhân những hạn chế của các công ty cổ phần trong quá trình cổ phần hóa
DNNN :
 Về phía khách quan:
Phương thức cổ phần hóa DN thường là cổ phần hóa các DN từ dưới lên, từ bộ phận DN đến
DN thành viên, rồi đến tổng công ty, vì vậy đang tạo ra sự bất cập trong quản lý, điều hành của
công ty mẹ. Công ty mẹ, tổng công ty 100% vốn DN nhà nước không có điều kiện huy động vốn
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 15
nhanh và nhiều như các công ty cổ phần, do đó năng lực tài chính bị hạn chế nên không duy trì
được sự chi phối của mình đối với công ty thành viên.
Khi DNNN được CPH và chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì không
được coi là thành phần kinh tế nhà nước. Điều đó, dẫn đến hậu quả bất đắc dĩ là các ngân hàng
thương mại (NHTM) nhìn doanh nghiệp CPH với sự e dè, ngờ vực khi các doanh nghiệp này tiến
hành vay vốn.
Chúng ta tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện
những bước quá độ từ sản xuất hỏ sang sản xuất lớn, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, các điều kiện khách quan cần thiết cho hoạt động sau
khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập đó là trình độ sản xuất hàng hóa chưa thật chín muồi, phân
công lao động xã hội ở trình độ thấp năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất không cao.
Hơn thế nữa, nền kinh tế thị trường mới hình thành, chưa thể hiện được những ưu thế vốn có
của nó để có thể mang lại những điều kiện đầy đủ về kinh tế xã hội cho sự hình thành của hình
thái công ty cố phần. Mặt khác, do xuất phát tùe nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm vận hành trong
cơ chế cũ nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề chưa thích
ứng được với cơ chế mới

 Về phía chủ quan :
Thứ nhất, chưa làm tốt việc thấu suốt quan điểm, chủ trương cổ phần hóa DNNN của Đảng và
Chính Phủ.
Thứ hai, chế độ chính sách trong các doanh nghiệp chậm được ban hành, sửa đổi và chưa đủ
sức hấp dẫn. Theo nghị quyết số 44/1998/ND_CP, các doanh nghiệp cổ phần hóa được hưởng
một số ưu đãi tuy nhiên vẫn chưa được bình đẳng so với các DNNN.
Tóm lại, những hạn chế mà các công ty cổ phần hóa gặp phải sau khi cổ phần hóa có cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Do đó, cần có những phương hướng và giải pháp phù hợp
nhằm giải quyết những tồn tại và hạn chế trên.
III. Một số biện pháp cho quá trình cổ phần hóa – Doanh nghiệp Nhà nước :
a. Về huy động các nguồn tài chính tín dụng:
CPH các DNNN phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn vốn xã hội. Để huy động
nguồn vốn cần phát hành thêm cổ phiếu, mở rộng bán cổ phần cho các chủ sở hữu trong và ngoài
doanh nghiệp, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài. Trước hết, cần ưu tiên bán cổ phần cho người lao
động trong doanh nghiệp để gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người lao dộng với doanh
nghiệp, đồng thời cho phép khai thác được nguồn vốn nội bộ một cách hiệu quả.
b. Chính sách với lao động dôi dư:
Nhà nước cần có chính sách kích cầu lao động như hỗ trợ vốn ban đầu cho những người
kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo công ăn việc
làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về lao động dư thừa ở doanh
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 16
nghiệp sau CPH sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính
sách giảm cung về lao động. Hình thành và phát triển thị trường nhân lực quản lý và lãnh đạo các
doanh nghiệp sau CPH.
Để tạo điều kiện cho người lao động có khả năng mua được cổ phần theo giá ưu đãi, thay vì
giảm 40% trên bình quân đấu giá, thì nên cho người lao động được mua với mức 40% giá đấu
thầu thành công thấp nhất. Chính phủ nên tiếp tục duy trì và áp dụng phương thức cho người lao
động nghèo được mua cổ phần ưu đãi trả chậm có thời hạn, không tính lãi với điều kiện ràng
buộc là trong 3 năm không được bán cổ phần được mua theo giá ưu đãi này.
c. Về nâng cao trình độ công nghệ:

Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia” là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Trọng tâm của chương trình là nhằm nâng tỷ lệ doanh nghiệp có bộ phận nghiên cứu và triển
khai (R&D) lên mức 5%. Muốn vậy, chương trình cần tập trung vào các nội dung ưu đãi như: ưu
đãi về thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp cho các hoạt động ứng dụng công nghệ, dịch vụ
khoa học công nghệ, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ việc thực hiện
các hợp đồng nghiên cứu và triển khai, hợp đồng dịch vụ kĩ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông
nghiệp, góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết công nghệ. Doanh nghiệp cũng được trích
50% thu nhập tăng thêm sau thuế (trong 3 năm) để đầu tư trở lại cho khoa học công nghệ và trích
thưởng cho cá nhân, tập thể có thành tích nghiên cứu và áp dụng công nghệ. Ngoài ra, những
doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ còn được ưu đãi về tiền sử dụng đất.
d. Về quản trị doanh nghiệp:
Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn liền
với trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai
đại diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà
nước chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay.
Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, lành
mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế
quản trị công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty (có vai trò
và phạm vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu cũ).
Cần áp dụng các chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp hiện đại đối với các doanh nghiệp này,
đặc biệt là những chuẩn mực về công bố và minh bạch thông tin, quản lý rủi ro Các giải pháp
về việc giám sát, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và sử dụng vốn nhà nước tại doanh
nghiệp phải được đặc biệt quan tâm. Cùng với đó, phải phát triển mạnh thị trường cổ phiếu và
trái phiếu Việt Nam nhằm tăng cường việc huy động vốn và trái phiếu của các doanh nghiệp, tạo
động lực cho việc nâng cao năng lực quản trị trong các doanh nghiệp.
e. Về chiến lược phát triển :
Cần có định hướng về mặt chiến lược. Tiếp tục đổi mới phương thức kinh doanh bằng nhiều
cách liên kết để làm nhà phân phối các nhà sản xuất có uy tín, tạo lập hệ thống phân phối liên
hoàn kiểu Petrolimex hoặc cà phê Trung Nguyên … Muốn vậy các công ty cỏ phần phải củng cố
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 17

khôi phục nâng cấp các điểm bán lẻ; lập quy hoạch một cách hợp lý đồng thời phát huy một
trong những lợi thế thương mại vô hình mà các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần
kinh tế khác không dễ có được đó là sự tín nhiệm của nhân dân đối với hệ thống thương mại
quốc doanh.
Cần phải tạo cho mình một thương hiệu riêng cũng như sử dụng thương hiệu cạnh tranh;
nghiên cứu nhu cầu người tiêu dùng theo cách thức “ động “ để từ đó tạo lập các tiêu chuẩn kỹ
thuật thương mại cho hàng hóa, dịch vụ và chủ động tạo hợp đồng với các nhà sản xuất.
Sát nhập các doanh nghiệp có cùng ngành hoặc liên ngành để tạo thế lực trong cạnh tranh.
Sự mở cửa thị trường dẫn đến các tập đoàn kinh doanh thương mại quốc tế sẽ thâm nhập vào thị
trường nước ta, do vậy các công ty phải chủ động đón đầu trong việc chuẩn bị những điều kiện
nhue kinh nghiệm của Trung Quốc đã làm trong lĩnh vực bán lẻ để thích ứng với sự cạnh tranh
của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài khi gia nhập WTO
f. Về môi trường kinh doanh :
Tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng và thuận lợi cho công ty hoạt động.
Cần xây dựng nhanh chóng bộ máy hoạt động với một chính sách chuyên nghiệp. Bên cạnh đó
cần nhanh chóng hình thành phát triển và hoàn thiện các loại thị trường, trong đó chú trọng thị
trường cơ bản và những thị trường sơ khai, giúp cho các công ty phát triển hoạt động có hiệu
quả.
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của công chức đối với công ty đã được cổ phần hóa.
Không phải những doanh nghiệp thương mại Nhà nước mới là những doanh nghiệp thực sự làm
ăn đúng đắn, còn những doanh nghiệp ngoài quốc doanh không làm ăn đúng đắn, gian lận, trốn
thuế, ít đóng góp cho nền kinh tế, cho xã hội
g. Về khung pháp lý :
Sửa đổi nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/BTC. Cụ thể, Nghị định 187 bổ sung
thêm phương pháp thị trường trong các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Thông tư
126 bỏ quy định tài sản tương đương dùng để so sánh xác định lại nguyên giá phải cùng nước
sản xuất. Tất cả nhằm mục đích xác định giá trị tài sản doanh nghiệp một cách chuẩn xác.
Xác lập khung pháp lý cần thiết cho việc tuyển chọn người ngoài vào ban quản lý, điều hành
doanh nghiệp. Nghiên cứu bổ sung phương thức cổ phần hoá từng tổ hợp các pháp nhân DN mô
hình công ty mẹ công ty con.

Cần tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của doanh nghiệp CPH. Đầu tiên cần chú trọng
xóa bỏ việc phân biệt đối xử trong các chính sách và thực hiện các chính sách giữa DNNN và
doanh nghiệp nhỏ và vừa sau chuyển đổi về tín dụng, đầu tư, đất đai, xuất nhập cảnh , tạo môi
trường bình đẳng trong hoạt động cho mọi loại hình doanh nghiệp trong đó có DN cổ phần. Về
vấn đề này, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp hy vọng và đề nghị Luật Doanh nghiệp mới sớm
được hoàn thiện và ban hành. Chuyển chức năng quản lý cổ phần nhà nước của các DN trực
thuộc Bộ, địa phương sang Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước để đơn vị này thực
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 18
hiện việc quản lý kinh doanh, đầu tư ở các doanh nghiệp cổ phần, tránh những lúng túng như
hiện nay.
KẾT LUẬN

Sau gần nhiều năm triển khai, cổ phần hóa DNNN không còn là điều mới lạ đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên mỗi bước đi vấn đề cổ phần hóa DNNN và nhất là sau
CPH DNNN lại vấp phải những khó khăn mới do thực tiễn đặt ra. Vấn đề liên tục theo dõi từng
bước đi của các doanh nghiệp sau CP để bổ sung kinh nghiệm từ thực tiễn, sửa đổi chính sách
cho phù hợp là công việc hết sức quan trọng, cần thiết nhằm đề ra những chính sách mới giúp
các doanh nghiệp sau CPH tiếp tục phát triển lành mạnh.
Chúng ta có thể khẳng định cổ phần hóa là chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà
nước. Để giúp các DNNN sau CPH, các biện pháp của Chính phủ cần tập trung nâng cao năng
suất chứ không phải lợi nhuận trong ngắn hạn. Các DNNN sau CPH cần phải chịu áp lực cạnh
tranh giống như các thành phần kinh tế khác trên mọi khía cạnh và thị trường, kể cả vốn. Các
doanh nghiệp này cũng phải chịu sự điều chỉnh của quy luật và kỷ luật thị trường.
Bên cạnh đó, phải phấn đấu thực sự để làm cho quá trình hoạt động của các Công ty cổ
phần được cổ phần hoá từ DNNN nhận thức được đúng đắn con đường đi lên và hoàn thiện. Đây
cũng có thể nói là một bước chuyển về chất trong quản lý kinh doanh, nó đòi hỏi phải có năng
lực mới, tri thức mới. Bởi có nơi thuận lợi, có nơi khó khăn, lúng túng. Do vậy phải chuẩn bị về
nhận thức, quan điểm, về trình độ tổ chức thực hiện.Tính đặc thù của cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam cũng gây khó khăn ở chỗ chúng ta không tìm được kinh nghiệm từ những
nước đi trước càng không tự vạch ra được chương trình hoàn thiện ngay từ đầu nhằm đạt được sự

thống nhất. Do vậy gánh nằng đặt lên vai những nhà làm Luật để ngày một hoàn thiện hoá những
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 19
thông tư, quyết định và nghị định sát thực tế. Thực hiện những chính sách có lợi nhằm khích lệ
cổ phần hoá DNNN, xây dựng Luật đi vào thực tế.
DANH MỤC VIẾT TẮT :
 CTCP : Công ty cổ phần
 CTTNHH: Công ty Trách nhiệm hữu hạn
 CPH: Cổ phần hóa
 HĐQT : Hội đồng quản trị
 DNNN : Doanh nghiệp Nhà Nước
 NHTM : Ngân hàng Thương mại
 DNTN : Doanh nghiệp Tư nhân
Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí phát triển kinh tế.
2. Các văn bản pháp luật: Luật Doanh nghiệp 2005; Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004;Nghị định 64 của Chính phủ và được thành lập theo Quyết định số
27/2004/QĐ-UB ngày 24 tháng 2 năm 2004; Các Nghị định số 28/NĐ-CP, Nghị định số
44/NĐ-CP, Nghị Giáo trình Kinh tế chính trị, … và một số văn bản khác .
3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (NXB Thống
kê) Kinh tế xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng-hội nhập phát triển bền
vững (TS. Nguyễn Mạnh Hùng NXB Thống Kê)
4. PGS.TS Phạm ngọc côn : Cổ phần hóa – doanh nghiệp nhà nước
5. GS.TS Trần Văn Tránh: Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa – doanh
nghiệp nhà nước (Tạp chí phát triển kinh tế, Số 111/2000).
6. Nguyễn sơn: Về một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa – doanh nghiệp
nhà nước
7. PGS.TS Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN, (sách
tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Hữu Nghĩa (2004), "Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam: Mấy vấn đề về lý luận và thực

tiễn", Tạp chí Công sản.
9. Các website:




Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 21







Nhóm 4 – Cao học Ngân hàng Đêm 4 K22 22

×