Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIEU LUAN LOP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ , Vị trí, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.26 KB, 18 trang )

A. LỜI NĨI ĐẦU
Trong hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa có thể có nhiều đảng
phái chính trị cùng tồn tại và hoạt động. Mỗi đảng phái đóng vai trị nhất định trong
đời sống xã hội và giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, song thực tiễn
cho thấy đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động luôn giữ vai trị lãnh đạo.
Đảng của giai cấp cơng nhân ln là đội tiên phong, là đại biểu trung thành với quyền
lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Ở Việt Nam, Đảng
cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân cũng là lực lượng đóng vai trị lãnh
đạo tồn bộ hệ thống chính trị của nước ta.
Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đang diễn ra trong xu thế hội nhập và
tồn cầu hóa sâu rộng, điều này đã đặt Đảng ta trước những vận hội và thách thức vô
cùng to lớn. Hơn bao giờ hết, để tiếp tục làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giữ vững
vị trí, vai trị hạt nhân lãnh đạo của mình đối với hệ thống chính trị, Đảng phải tiếp tục
được củng cố và hoàn thiện theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân.
Hệ thống chính trị chúng ta nói ở đây được hiểu là hệ thống chun chính vơ sản. Về
bản chất, khơng có gì khác biệt, cùng mục đích Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ,
nhưng cách hiểu được đổi mới, mở rộng. Hệ thống chính trị đó bao gồm: Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị này, vị trí,
vai trị của Đảng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Là nhân tố hợp thành hệ thống chính trị,
nhưng hệ thống chính trị là sản phẩm, một trong những thành quả to lớn nhất dưới sự
lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ cách mạng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Tuy nhiên, vị trí, vai trị to lớn của Đảng được thể như thế nào, phưong thức
lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay có những điểm tích cực
gì, cịn tồn tại những hạn chế gì, phương hướng khắc phục ra sao, đó chính là những
vấn đề cần quan tâm.



1


B. NỘI DUNG
I. CÁC KHÁI NIỆM:
1. Đảng chính tri: Đảng chính trị là một tổ chức chính trị của những người
cùng chung một tư tưởng, Đảng chỉ bao gồm những người ưu tú nhất của một giai
cấp, tự nguyện tập hợp trong một tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo những
nguyên tắc, quy tắc nhất định, Đảng đại biểu cho quyền lợi của giai cấp, lãnh đạo
giai cấp đấu tranh và sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ quyền lợi của giai cấp.
2. Đảng cộng sản: Đảng cộng sản là một tổ chức chính trị, là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, là tổ chức tự nguyện của nhưng đại biểu ưu tú nhất của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cùng chung hệ tư tưởng Mác – Lê nin,
sinh hoạt và hoạt động theo những nguyên tắc, quy tắc nhất định, Đảng luôn đứng
trên lập trường của giai cấp công nhân, lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh,
săn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và cả dân tộc.
3. Đảng cộng sản cầm quyền: Đảng cầm quyền là một khái niệm khoa học
chính trị có nội dung xác định rõ một Đảng chính trị đại diện cho một giai cấp
đang nắm giữ chính quyền, quản lý đất nước, điều hành mọi hoạt động của xã hội
phù hợp lợi ích của giai cấp mình. Vậy Đảng cộng sản cầm quyền là một tổ chức
chính trị cầm quyền trong một quốc gia nào đó, Đảng đại diện cho quyền lợi của
một giai cấp nhất trong xã hội có đầy đủ các quyền lãnh đạo nhà nước lãnh đạo xã
hội, áp đặc ý chí thống trị của giai cấp mình lên tồn bộ hoạt động của đời sống xã
hội, nhằm hướng các hoạt động xã hội theo một phương hướng, đường lối mà
Đảng đó hướng tới, nhằm đạt được những mục tiêu đã định trước.
4. Đảng cộng sản Việt Nam:
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung

thành cho lợi ích của của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và cho cả dân tộc;
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động.
5. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính tri: là việc Đảng
sử dụng những phương thức, phương tiện tác động vào Nhà nước, Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị - Xã hội để các đối tượng này hoạt động theo
2


đúng mục tiêu, nhiệm vụ và mục đích mà Đảng đã đề ra cũng như là để các đối
tượng này hoàn thành nhiệm vụ được giao. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức
của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VỊ TRÍ VÀ VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại chiếm ví trí, vai trị là hạt
nhân lãnh đạo của tồn bộ hệ thống chính trị.
Suốt mấy nghìn năm trước đây, những trí tuệ ưu tú nhất của lồi người đều
cố gắng tìm kiếm con đường để các dân tộc được sống trong hịa bình, hữu nghị,
thốt khỏi cảnh thống khổ lầm than, mâu thuẫn, chống đối lẫn nhau. Nhưng hầu
như tất cả khơng tìm thấy hướng đi đúng và lực lượng thật sự để thực hiện ước mơ
của mình. Chỉ đến thế kỷ XIX, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học
mới là người mở đầu một con đường thật sự giải phóng những người lao động khỏi
bất công, ngang trái. Bằng việc đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và phát hiện ra

quy luật giá trị thặng dư, C.Mác đã tìm được lực lượng và vũ khí để giải phóng
người lao động, và cũng từ đó, chủ nghĩa cộng sản mới trở thành một trong những
khoa học giải phóng lồi người. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đi từ giải phóng các tầng
lớp lao động mà thấy sự cần thiết phải giải phóng dân tộc, bởi vì các ơng quan
niệm "xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác
cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng
cịn nữa, thì đồng thời quan hệ thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo". Chính vì
thế, trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết: "Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự mình xây dựng
thành giai cấp dân tộc".

3


Vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác về giải phóng giai cấp vơ sản vào
nước Nga, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin thấy rõ hơn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp vơ sản và cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. V.I.Lênin đề ra khẩu hiệu: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại!". Và, với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở đầu cho việc thủ tiêu chế độ
người bóc lột người, thủ tiêu nạn áp bức dân tộc, và bằng chính sách dân tộc đúng
đắn, V.I.Lê-nin đã đưa nước Nga từ "nhà tù đối với các dân tộc" thành "Tổ quốc
của nhiều dân tộc".
Ở Việt Nam, từ thiên tài trí tuệ của mình, vượt lên những tầm nhìn hạn chế của
các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin tìm thấy ở học thuyết này con đường cứu dân, cứu nước. Bác khẳng định:
“Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất,
việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc". Người nói:
"Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đưa tôi
tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa làm
công tác thực tế, dần dần tơi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng

sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nơ lệ".
Chính lịng u nước thiết tha và thương dân sâu sắc, muốn giải phóng dân tộc
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa cộng sản, đem khát vọng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa cộng sản. Từ nhận thức tầm quan trọng của lý luận cách mạng,
tìm được con đường cứu dân, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay xây dựng lực
lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức cách mạng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, Công hội Đỏ, các tổ chức đảng lần lượt ra đời. Đến ngày 3-2-1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam chính thức được thành lập. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt
thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi
nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp phong
trào yêu nước, phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là bước nhảy vọt
của phong trào yêu nước, đồng thời cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác Lênin ở một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Đảng ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong phong trào cách

4


mạng và đời sống chính trị của nhân dân ta. Giai cấp cơng nhân Việt Nam từ đó thơng
qua đảng tiên phong của mình, đứng ra gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội khỏi mọi áp bức, bất cơng. Dưới ngọn cờ của
Đảng, dân tộc Việt Nam vốn giàu lòng yêu nước, ý chí tự cường và bấy lâu khao khát
độc lập, tự do đã gặp tư tưởng cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác- Lê-nin, một trong
những trí tuệ cao nhất của loài người.
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Bác Hồ
khởi thảo chỉ ra đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng, cách thức tổ chức lực
lượng cách mạng ở Việt Nam. Với đường lối, chủ trương, chính sách của các văn kiện
ấy, Đảng ta đã thổi bùng ngọn lửa của phong trào cách mạng Việt Nam. Trải qua biết
bao nhiêu năm đấu tranh đầy máu lửa, đầy hy sinh, những người cộng sản Việt Nam,
những người yêu nước tự nguyện đi dưới ngọn cờ của Đảng, chứ không phải ai hết, là

người trực tiếp đương đầu với lưỡi lê, máy chém, nhà tù của đế quốc, mà thể hiện
lịng trung thành, xả thân cho sự nghiệp của tồn dân tộc. Bằng sự lãnh đạo của Đảng,
bằng sự tập hợp lực lượng của các tổ chức quần chúng, cách mạng nước ta đã trải qua
ba cao trào đó là: Cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cao trào Dân chủ (19361939), cao trào cứu nước (1939-1945).
Ngày 19-8-1945, cả dân tộc ta đã vùng dậy giành chính quyền trong Cách
mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, xóa bỏ chính quyền nhà nước của thực dân và phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của nước ta.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của dân, do dân, vì dân.
Chính vì vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc vơ cùng anh dũng của nhân dân ta. Đó là thắng lợi của đường
lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả
nước ta thực hiện.
III. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM (ở Trung ương):
Hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị - xã
hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội rộng lớn
của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
5


sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như thế được hình thành trên cơ sở
gắn kết giữa hai hệ thống thiết chế xã hội là hệ thống chính trị (hệ thống thiết chế
trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị) và hệ thống xã hội.
1. Đảng cộng sản Việt Nam:
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê

bình và phê bình, đồn kết trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, giữ mối quan hệ
mật thiết với nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Cơ quan lãnh đạo của Đảng gồm: Đại hội, Ban chấp hành và Ban thường vụ,
trong đó cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu tồn quốc.
Mục đích của Đảng là: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột người, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Nhiệm kỳ hoạt động của Đảng là 5 năm.
2. Hệ thống cơ quan nhà nước:
a. Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ: Lập hiến,
lập pháp; giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ
máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Nhiệm kỳ của Quốc hội: 5 năm, hoạt động thông qua kỳ họp 1 năm 2 lần.
Ngoài ra, nếu ủy ban Thường vụ Quốc hội xét thấy cần thiết hoặc do yêu cầu của
Chủ tịch nước, Thủ tướng hoặc 1/3 tổng số đại biểu thì Quốc hội sẽ họp đột xuất.
Đại biểu Quốc hội: Là cơng dân Việt Nam, từ 21 tuổi trở lên, có phẩm chất,
trình độ, năng lực, được cử tri tín nhiệm bầu ra.
Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp Quốc hội, có quyền
trình dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, có
6


quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và các thành viên của
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri.
Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội: Là đại biểu Quốc hội do Quốc hội bầu
ra vào kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội là

người giúp việc cho Chủ tịch theo sự phân công của Chủ tịch.
Ủy ban thường vụ Quốc hội: Là cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp của
Quốc hội. Có quyền về hoạt động giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội ; giám
sát hoạt động của Chính phủ, Tồ án Tối cao, Viện Kiểm sát tối cao. Chuyên ban
hành Pháp lệnh, giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Hai hội đồng của Quốc hội là: Hội đồng Quốc phòng-An ninh do Chủ tịch
nước làm Chủ tịch, Thủ tướng làm Phó chủ tịch và 4 ủy viên. Hội đồng Dân tộc
gồm 1 Chủ tịch và 38 thành viên.
Ủy ban chức năng của Quốc hội: Gồm các ủy ban Pháp luật; ủy ban Kinh tế
và Ngân sách; ủy ban Quốc phòng và An ninh; ủy banVăn hóa, Giáo dục Thanh
niên, Thiếu niên và Nhi đồng; ủy ban Các vấn đề xã hội; ủy ban Khoa học, Công
nghệ và Môi trường; ủy ban Đối ngoại.
b. Chủ tich nước:
Là người đứng đầu Nhà nước, được Quốc hội bầu từ các đại biểu Quốc hội để
thay mặt nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về mặt đối nội và đối ngoại.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ghi rõ Chủ tịch nước có 12 quyền hạn,
trong đó quan trọng nhất là: Cơng bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; thống lĩnh các lực
lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh;
đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Tồ án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Giúp việc Chủ tịch nước có: Phó Chủ tịch nước, Hội đồng Quốc phòng và
An ninh, Văn phòng Chủ tịch nước. Phó Chủ tịch nước: do Chủ tịch đề nghị, Quốc
hội bầu trong số đại biểu Quốc hội; Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước làm
nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy quyền làm một số nhiệm vụ hoặc làm
quyền Chủ tịch. Hội đồng Quốc phịng và An ninh: có nhiệm vụ động viên mọi lực
lượng và khả năng của nhà nước để bảo vệ Tổ quốc. Hội đồng Quốc phòng và An
7



ninh do Chủ tịch nước đứng đầu gồm Phó Chủ tịch nước và các thành viên do Chủ
tịch nước giới thiệu và Quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn.
c. Chính phủ:
Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chính phủ gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ.
Thủ tướng do Chủ tịch nước giới thiệu, Quốc hội bầu ra và bãi miễn trong số
các đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 5 năm.
Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp
việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc
hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh
vực công tác được giao.
d. Toà án Nhân dân tối cao:
Là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
gồm Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án.
Cơ cấu gồm: Hội đồng Thẩm phán, Ủy ban Thẩm phán, Toà án Qn sự
Trung ương và các tồ Hình sự, tồ Dân sự, toà Phúc thẩm, bộ máy giúp việc.
Nhiệm kỳ là 5 năm.
Chánh án Toà án Nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn; Phó Chánh
án, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chánh án.
Hội thẩm nhân dân của Toà án tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự
giới thiệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Xét xử công khai,
độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử tập thể, có hội thẩm nhân dân tham gia,
quyết định theo đa số.
Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật, bị cáo được quyền mời luật sư
bào chữa, quyền được dùng tiếng nói, chữ viết riêng.


8


đ. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao:
Kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan
khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang, công dân; thực hành quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao gồm: Viện
trưởng: do Chủ tịch nước đề nghị, Quốc hội bầu và bãi miễn. Các Viện phó, các
kiểm sát viên và các điều tra viên: do Chủ tịch nước bổ nhiệm và bãi miễn theo đề
nghị của Viện trưởng.
3. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt
động có hiệu quả.
Cơng đồn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người
lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, Cơng đồn
chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài Mặt trận Tổ quốc và Cơng đồn, ở Việt Nam hiện đang tồn tại một số
tổ chức chính trị, xã hội khác như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến

binh, các hiệp hội theo ngành nghề. Các tổ chức này đã đóng vai trị quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

9


IV. VỊ TRÍ VÀ VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại đứng vị trí hạt nhân lãnh đạo
của tồn bộ hệ thống chính trị. Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm,
chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức
thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế
hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ
thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà
nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn
vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Ngồi ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
Hệ thống chính trị chúng ta nói ở đây, được sử dụng thay cách trình bày trước
là hệ thống chun chính vơ sản. Về bản chất, khơng có gì khác biệt, cùng mục đích

Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ, nhưng cách hiểu được đổi mới, mở rộng. Hệ
thống chính trị đó bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân
dân. Trong hệ thống chính trị này, vai trò của Đảng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

10


Trước đây, trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã từng đặt câu
hỏi: “Phải chăng như vậy có nghĩa là, sau khi xã hội cũ sụp đổ sẽ có một sự thống
trị giai cấp mới, biểu hiện tập trung ở một chính quyền mới?". Và chính C.Mác đã
giải thích: "Khơng phải. Điều kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là xóa bỏ
mọi giai cấp". Mục đích của những người cộng sản, của Đảng Cộng sản giành
chính quyền khơng phải giành quyền thống trị cho riêng mình.
Những lời vu khống, áp đặt của một số người cho rằng Đảng Cộng sản "độc
tơn", "độc quyền" là hồn tồn khơng đúng. Mục đích cách mạng của Đảng Cộng
sản, của những người cộng sản giành chính quyền là để giải phóng tồn xã hội, là
để đưa người lao động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ. Khi giành được chính
quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới, nhân dân muốn làm chủ phải có sự lãnh đạo
của Đảng, được thực hiện chủ yếu bằng nhà nước, bằng các tổ chức quần chúng,
thơng qua đại diện của mình và trực tiếp của chính mình.
Để xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới của mình, nhân dân cần có một hệ
thống chính trị vững mạnh. Đó khơng phải là đảng trị, đảng đứng trên dân tộc.
Đảng lãnh đạo để dân làm chủ là mục đích tối cao, mục đích cuối cùng của Đảng.
Ngồi lợi ích của nhân dân, Đảng khơng có lợi ích nào khác. Để thực hiện mục
đích ấy, khi chưa có chính quyền, Đảng lãnh đạo thành lập các tổ chức quần chúng,
tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận đại đồn kết tồn dân tộc để giành
chính quyền. Khi có chính quyền, trở thành đảng cầm quyền, cùng với các tổ chức
quần chúng, Đảng sử dụng chính quyền chăm lo cho lợi ích cho nhân dân, cho lợi
ích tồn xã hội.

Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa
đổi, bổ sung năm 2001 ghi rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội IX của Đảng được mở
rộng hơn về khái niệm, chính xác hơn. Đảng khơng chỉ là “đội tiên phong của giai

11


cấp công nhân Việt Nam", mà hơn thế nữa, Đảng “đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Đó khơng phải là ý muốn chủ quan
của một ai, càng không phải là sự áp đặt, mà là thực tiễn chứng minh, nhân dân
thừa nhận. Bởi vì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, ln
ln trung thành với mục tiêu lý tưởng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động,
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề
ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Chánh
cương vắn tắt, Cương lĩnh năm 1930 và Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã soi
sáng cho quá trình cách mạng Việt Nam và bước đường tiến lên của dân tộc ta.
Thực tiễn hơn 80 năm qua, bằng cả hệ thống chính trị, Đảng ta lãnh đạo
nhân dân ta không quản hy sinh, không nề gian khổ, trải qua biết bao gian nan thử
thách đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp
những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, nhất là
trước các bước ngoặt lịch sử, Đảng ta ln ln thể hiện bản lĩnh chính trị vững
vàng, trung thành và sáng tạo, nêu cao tính độc lập tự chủ, trước hết ở việc xác

định và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn và có hiệu
quả, nếu muốn đạt được Đảng ta cần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng.
Sự nghiệp lãnh đạo của Đảng suốt hơn 80 năm, đặc biệt từ khi Đảng cầm
quyền và gần đây qua hơn hai mươi năm đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng giao
lưu, hội nhập kinh tế quốc tế, đã tạo ra sự đổi thay cực kỳ to lớn trong đời sống
chính trị của dân tộc Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận người mất nước, sống
lầm than trong đêm dài nô lệ thành người làm chủ sáng tạo ra những trang sử mới;
đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh cách mạng suốt hơn 30 năm đã chấm dứt
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc hơn một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã
hội chủ nghĩa.
12


Thắng lợi của 10 năm sau chiến tranh, trong thế bị bao vây cấm vận, thù
trong giặc ngoài, nhân dân ta đã giữ vững được độc lập, xây dựng được những cơ
sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở cả nước.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua, tạo thế và lực mới
cho đất nước ta chủ động và tích cực đi vào xu thế chung giao lưu, hội nhập quốc tế.
Những đổi thay, những chiến cơng và những kỳ tích đó khẳng định vị thế
của Đảng ta trong lòng dân tộc. Thành tựu của cách mạng Việt Nam khơng chỉ thể
hiện vai trị lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng trong hệ thống chính trị mà cịn
khẳng định sức mạnh của tồn bộ hệ thống chính trị của đất nước ta. Lịch sử cách
mạng Việt Nam hơn 80 năm qua khẳng định không thể tách rời sự lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị. Khơng có hệ thống chính trị nào mà khơng có sự
lãnh đạo, khơng có một chính đảng, một lực lượng chính trị chi phối. Hiện nay,
trên thế giới có hơn ba mươi đảng duy nhất cầm quyền, chi phối, dẫn dắt hệ thống

chính trị của từng nước.
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội"
năm 1991 ghi rõ: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Thực chất của cơng cuộc đổi
mới và kiện tồn hệ thống chính trị nước ta hiện nay là nhằm xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ vừa là mục
tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Hệ thống chính trị của nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ. Nhân dân
làm chủ chủ yếu bằng Nhà nước và thơng qua các tổ chức chính trị-xã hội, vừa làm
chủ thông qua đại diện, vừa làm chủ trực tiếp. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và
quản lý đất nước. Bằng công tác quản lý và điều hành xã hội thông qua Hiến pháp
và pháp luật, các chủ trương, chính sách, Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân.

13


Như vậy, Đảng vừa là bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh
đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Mặt trận Tổ
quốc, có vai trị đặc biệt trong cách mạng dân tộc dân chủ, khi Đảng chưa giành
được chính quyền, càng giữ vai trò quan trọng khi Đảng cầm quyền. Đó là liên
minh chính trị của các đồn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và
các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ; có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây

dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong cách mạng XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai
trị rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân
dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; động viên toàn dân tộc thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vấn đề có tính chất quyết
định là phải tiếp tục thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai
cấp và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đồn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân
dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất
và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề cấp bách
hiện nay là phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; kiện tồn
và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường
quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát.
Nhằm mục đích nâng cao vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, vấn đề cực kỳ quan trọng là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.

14


Để giữ vững vị trí và vai trị hạt nhân lãnh đạo của một Đảng cầm quyền,
trước hết Đảng phải hoạch định được đường lối cách mạng đúng đắn, bảo đảm giữ
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu

mạnh, nhân dân thật sự được hưởng hạnh phúc, tự do. Đảng phải xây dựng được
một Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân, vì dân. Phải thật sự xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để
Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ, Đảng sống mãi trong lòng dân tộc.
V. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM:
1. Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng:
Để thực hiện vị trí và vai trị lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập
trung làm tốt những vấn đề sau:
Một là, Nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và
trình độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo
và tinh thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc thực
hiện đường lối của Đảng.
Hai là, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần nâng cao nhận thức và có
quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Trước hết là việc đổi mới,
việc ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân
chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường
công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế
làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên của Đảng...
2. Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Để Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý và lãnh đạo xã hội, cần làm tốt một số vấn đề
sau:
Phát huy mạnh mẽ vai trị của hệ thống chính quyền Nhà nước trong việc mở
rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở
cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

15



Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở,
có cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng
lực với tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan Nhà nước phải đặt nhiệm
vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các cơng
việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức
Nhà nước xây dựng và thực hành phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học
dân và có trách nhiệm với dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"...
Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị
tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân;
ngăn chặn và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời
nghiêm trị những hoạt động phá hoại gây rối...
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong
sinh hoạt của bộ máy Nhà nước.
3. Đổi mới và kiện toàn các tổ chức chính tri - xã hợi.
Những năm qua các tổ chức chính trị-xã hội, các đồn thể quần chúng nhân
dân đã phát huy vai trị của mình trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, các tổ chức chính trị - xã hội cần được
đổi mới toàn diện theo hướng sau đây:
Nâng cao hơn nữa nhận thức của tồn xã hội về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể quần chúng. Đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp... các
tổ chức quần chúng.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng hố các hình thức
tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính
đáng và hợp pháp của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung hướng mạnh về
cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tun truyền,

vận động nhân dân; gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc

16


thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng... với việc
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
C. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới
đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vị trí và vai trò
lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân
và vì dân (Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng cơ
chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước
đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước phải tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ,
của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng
cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nâng cao
chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp).
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hố, tư tưởng được phát huy...

Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bọc lộ nhiều nhược điểm:
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà
nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng lên kịp với
địi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được
sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi
phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ

hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của
đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm
chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao. Trước yêu
cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện

17


đại hoá đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện tồn hệ
thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách./.

18



×