Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng, hành vi đạo đức cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.38 KB, 28 trang )

Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Về mặt lí luận
Xã hội càng phát triển, con người càng phải hoàn thiện. Một con người hoàn
thiện về nhân cách là con người khơng chỉ có tài mà cần phải có cả đức. Nhân cách
của con người muốn được xây dựng và phát triển, cần bắt đầu ngay từ khi mới sinh
ra và đặc biệt là trong giai đoạn ngồi trên ghế nhà trường. Có thể nói, việc hình
thành và phát triển các phẩm chất đạo đức, tri thức cho thế hệ trẻ là một trong
những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, đây cũng là một trong những nhiệm vụ của
nhà trường nói riêng, của ngành giáo dục nói chung cần phải thực hiện. Giáo dục
đạo đức cho học sinh Tiểu học là một mặt của hoạt động giáo dục nhằm xây dựng
cho trẻ em những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho các em những quy tắc hành
vi thể hiện trong thái độ với bạn bè, gia đình, người khác và đối với Nhà nước, Tổ
quốc. Đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa không chỉ là thành phần quan
trọng về cơ bản của giáo dục mà là mục đích của tồn bộ cơng tác giáo dục thế hệ
trẻ. Trong giáo dục khơng những có kiến thức mà phải có đạo đức. Vì vậy, cơng tác
giáo dục trước tiên phải đặt chăm lo bồi dưỡng đạo đức cho học sinh, coi đó là cái
căn bản, cái gốc cho sự phát triển nhân cách. Khi nói đến nhân cách của việc học
trong chế độ mới, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Bây giờ phải học; học để yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức”.
Học để có đạo đức, để hành động có đạo đức, để yêu đạo đức. Đó là một tư
tưởng lớn của thời đại, một định hướng đúng đắn và quan trọng của nền giáo dục
hiện đại. Ngày nay, với những thành tựu vĩ đại của cách mạng khoa học và kĩ thuật,
con người nắm trong tay những tư tưởng và khoa học hết sức hùng hậu, có giá trị
và sức sáng tạo cực kì lớn lao, đồng thời, cũng có sức tàn phá và hủy diệt thật kinh
khủng. Bước tiến phi thường đó của xã hội lồi người địi hỏi mỗi con người, mỗi
dân tộc nhất thiết phải có tâm hồn và đạo đức trong sáng của lịng nhân ái.
Cơng cuộc đổi mới xã hội hiện nay ở nước ta cũng nhằm tiếp tục nhân đạo
hóa các quan hệ giữa người và người, giữa người và môi trường sống, làm cho
những nguyên tắc của nền đạo đức mới được khẳng định trong các chính sách và
chủ trương, trong các hoạt động và quan hệ xá hội. Đồng thời, chính sự nghiệp đổi


mới cũng địi hỏi xuất hiện những con người có phẩm chất đạo đức đầy đủ để đưa
sự nghiệp đó tiến lên đúng hướng và thu được nhiều kết quả. Thái độ đặc biệt coi
trọng nhân cách đã được Hồ Chủ Tịch dạy: “Có tài mà khơng có đức là người vơ
dụng, có đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó”. Đức là nền tảng tạo đà cho tài
phát triển, tài làm cho đức phát triển toàn diện vững chắc làm gia tăng các giá trị xã
hội cho mỗi người.
2. Về mặt thực tiễn

1


Người Việt Nam từ xưa đã có biết bao truyền thống tốt đẹp. Truyền thống tôn
sư trọng đạo được người Việt Nam tơn vinh, người thầy được kính trọng và đề cao.
Song, do sự du nhập của nhiều nguồn văn hóa khơng lành mạnh và do cơ chế thị
trường kinh tế chạy theo lợi nhuận thì việc giáo dục đạo đức có ít nhiều ảnh hưởng.
Trước đây, trong các trường học, hiện tượng vơ lễ với giáo viên, nói tục chửi bậy là
rất hiếm, ý thức kỉ luật của học sinh rất tốt, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái
là rất cao. Trong gia đình, con cháu yêu thương ơng bà, cha mẹ:
“Một lịng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con”
Song cũng thật đáng buồn là hiện nay, chất lượng đạo đức đang bị suy giảm
xuống trông thấy, trong các nhà trường hiện tượng vô lễ, nói tục chửi bậy tăng lên,
phong trào học tập đi xuống, hiện tượng lười học, chán học tăng vọt, truyền thống
tơn sư trọng đạo bị chà đạp. Ngồi xã hội, xuất hiện nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội
gia tăng và tràn lan khắp mọi nơi. Có những gia đình, cha mẹ mải chạy theo cơn lốc
xốy của kinh tế thị trường, bị cuốn theo tiền tài danh vọng mà quên đi trách nhiệm
giáo dục con cái, và chính sự thiếu quan tâm giáo dục của gia đình làm cho chúng
trở thành những đứa con bất hiếu, đạo đức bị giảm sút. Trước thực trạng đó, đạo
đức càng trở nên cần thiết và quan trọng. Thế hệ trẻ hôm nay là tương lai của đất
nước ngày mai, nếu chỉ chú trọng vào giáo dục “trí dục” mà xem nhẹ giáo dục

“đức dục” thì xã hội sẽ ra sao.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Con người khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành, đều phải trải qua các giai
đoạn phát triển về trí tuệ, sự hiểu biết của mỗi con người là do việc học, do kinh
nghiệm cuộc sống đem lại. Còn giáo dục đạo đức cho mỗi con người thì cần được
giáo dục ngay từ khi cịn nhỏ.
Vì vậy, mục tiêu giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Chính vì điều này, trẻ đến trường là một bước ngoặt trong cuộc sống và sự
phát triển tâm lí của các em. Lần đầu tiên đến trường trẻ còn bỡ ngỡ, rụt rè chưa
dám tự mình quyết định cách ứng xử, chỉ sợ việc mình làm sẽ là sai, sẽ khơng được
thầy u, bạn mến. Để giúp các em có tính mạnh dạn trong cách cách nghĩ, cách
làm thì mơn đạo đức là mơn học đáp ứng các u cầu đó.
2


Ở lứa tuổi Tiểu học, các em phần lớn ở lứa tuổi 6-11 tuổi, các em bắt đầu có
ý thức tự hình thành các hành vi đạo đức cũng như là hình thành nhân cách cho
mình. Đặc biệt, ở giai đoạn này, các em đang có xu hướng bộc lộ một cách rõ rệt
“cái tơi” của mình. Vì vậy, việc giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh Tiểu học có
một ý nghĩa chiến lược quan trọng, nhất là học sinh mới bước vào lớp 1. Bởi lẽ,
giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Cùng với gia đình, nhà trường, xã hội có trách nhiệm phải chăm lo, giáo dục đạo
đức cho học sinh như lời Bác dặn. Qua 5 năm làm công tác chủ nhiệm, tôi thấy các
em ngày càng xuống cấp về đạo đức. Làm cách nào để các em ngoan hơn, đó là
điều khiến tơi ln suy nghĩ. Chính vì vậy, tơi quyết định chọn đề tài “Một số kinh

nghiệm giáo dục kĩ năng, hành vi đạo đức cho học sinh lớp 1” để cùng chia sẻ với
đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU-Việc giáo dục đạo đức là vấn đề cấp thiết không chỉ ở một quốc gia nào.
“Trong tương lai tri thức là quyền lực, giáo dục đạo đức là chìa khóa cuối cùng mở
cánh cửa vào tương lai”. Đảng và nhà nước ta cũng xác định được rằng, giáo dục
đạo đức cho học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Để giáo dục đạo đức cho các em, nhiệm vụ đó trước hết của các
thầy cô giáo. Trên cơ sở điều tra chất lượng giáo dục đạo đức của trường Tiểu học
Thanh Hải số 1, từ đó rút ra một số kết luận về tâm lí lứa tuổi điển hình, đề xuất
một số biện pháp giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất lượng đạo đức cho học sinh
của trường Tiểu học Thanh Hải số 1 nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng. Việc tìm
hiểu và đánh giá chất lượng đạo đức học sinh, nhằm giúp giáo viên nắm được tình
hình đạo đức của lớp mình, trường mình, nhìn nhận được thái độ, ý thức của học
sinh, hiểu được yếu tố và nguyên nhân nào đã tác động đến đạo đức của các em. Từ
đó, tìm cho mình phương pháp giảng dạy thông qua các môn học và các hoạt động
tập thể có hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục đạo đức cho các em học sinh,
nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho các em học sinh, cũng từ đó, rút ra cho bản
thân những bài học quý báu trong việc hình thành nhân cách học sinh Tiểu học.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để làm rõ được mục đích trên, tôi đã lựa chọn học sinh lớp 1A4 do tôi trực
tiếp giảng dạy làm đối tượng nghiên cứu.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu lí luận của vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học.
Tìm hiểu nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục đạo đức cho học sinh lớp 1A4.
Đề xuất mới: Trang bị cho học những kiến thức về các chuẩn mực hành vi
đạo đức và các khái niệm đạo đức thông qua môn Đạo đức, các môn học khác để
giúp các em đánh giá các hoạt động của bản thân về đạo đức.
3



Trên cơ sở những hiểu biết đó, từng bước bồi dưỡng cho học sinh ý thức, thái
độ, hành vi trong mối quan hệ với thầy cô, bạn bè, ông bà, cha mẹ.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Học sinh tiểu học, cụ thể là học sinh lớp 1A4 tôi đã trực tiếp giảng dạy và
học sinh khối 1 năm học 2015-2016 của trường Tiểu học Thanh Hải số 1.
VI. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu đề tài này được áp dụng, tôi hi vọng học sinh ở các lớp sẽ có những
hành vi đạo đức chuẩn mực.
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức
cho học sinh Tiểu học.
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng trong công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh. Lấy ý kiến của giáo viên và học sinh để thu thập thông tin nghiên cứu.
- Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò chuyện với giáo viên, học sinh để tìm
hiểu nhận thức như thế nào về vai trị, ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ và quan sát giờ dạy của giáo viên. Quan sát cử
chỉ, thái độ, hành động, sự biểu hiện phẩm chất đạo đức qua hành vi của học sinh
trong học tập, giao tiếp thông qua các tiết học trên lớp. Quan sát các hoạt động ngoại
khóa trên sân trường, hoạt động tập thể ngồi giờ lên lớp… để từ đó điều chỉnh hành
vi và ý thức đạo đức cho học sinh.
- Phương pháp lấy ý kiến đồng nghiệp: Gặp trực tiếp những giáo viên có kinh
nghiệm, các nhà quản lí xin ý kiến, trao đổi về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khoa học, tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất.
- Phương pháp thống kê toán học.
VIII. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI (gồm 3 phần)
Phần 1: Đặt vấn đề
+ Lí do chọn đề tài

+ Mục đích nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
4


+ Phạm vi nghiên cứu
+ Giả thuyết khoa học
+ Phương pháp nghiên cứu
+ Cấu trúc của đề tài
Phần 2: Nội dung
+ Chương I: Cơ sở lí luận
+ Chương II: Thực trạng của vấn đề
+ Chương III: Những biện pháp cụ thể
+ Chương IV: Kết quả
+ Chương V: Bài học kinh nghiệm
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
+ Kết luận chung
+ Kiến nghị đề xuất.

5


Phần II: NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Lịch sử của vấn đề đạo đức
Trong công cuộc đổi mới, vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1 được
đặt ra với yêu cầu bức thiết:
- Đảm bảo cư xử với học sinh như một chỉnh thể, một nhân cách đang hình
thành. Nhà trường cần được giáo dục toàn diện, thực hiện tốt các tiêu chuẩn quốc

gia đối với một trường Tiểu học.
- Cần đảm bảo sự bình đẳng trong học sinh, để hình thành và phát triển đạo
đức. Quan tâm đặc biệt đến những học sinh đang gặp khó khăn bất lợi.
- Cần có sự định hướng đúng đắn cho sự phát triển đạo đức của học sinh ở
các lớp tiếp theo.
Với những yêu cầu trên, nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội cần nhận
thức đầy đủ và có trách nhiệm cùng với các nhà quản lí giáo dục, tiến hành các hoạt
động giáo dục thiết thực để giáo dục đạo đức cho học sinh.
Theo tác giả Nguyễn Sinh Hùng (Tài liệu Đạo đức và phương pháp dạy đạo
đức ở trường Tiểu học của nhà xuất bản Hà Nội năm 1992), “muốn nghiên cứu và
giảng dạy đạo đức, dù ở cấp độ nào, vấn đề đầu tiên là phải xác định rõ được các
nguyên lí đạo đức và các phạm trù cơ bản của đạo đức, với một quan điểm phương
pháp luận khoa học chân chính”. Các vấn đề như bản chất của đạo đức, sự phát
sinh và phát triển của đạo đức, các tiêu chuẩn khoa học của đạo đức, vai trò của đạo
đức trong đời sống xã hội - chính là phạm trù cơ bản của đạo đức học Mác - Lê nin,
đã được Mác và F.Anggen trình bày, luận giả theo quan điểm của triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Cho đến nay, trong quá trình đổi mới, mặc dù trong
nội hàm của từng vấn đề đó đã có những dấu hiệu phát triển, phong phú thêm
những giá trị, chuẩn mực cơ bản của nó vẫn cịn nguyên giá trị lịch sử và vẫn còn ý
nghĩa thực tiễn sắc bén của nó.
Hiện nay, vẫn có người “tế nhị” hơn trong việc phủ nhận đạo đức học theo
quan điểm Mác xít, biện lẽ rằng trong các tác phẩm của Mác và Lê nin khơng hề
thấy có một học thuyết, một định nghĩa riêng cho đạo đức. Về hiện tượng đúng là
các nhà sáng lập chủ nghĩa mác không có một tác phẩm riêng lĩnh vực đạo đức,
trong đó, có nêu lên một khái niệm về đạo đức, nhưng trong các tác phẩm của
mình, Mác cũng như F.Angghen khi nêu lên một vấn đề đạo đức đều quy về những
nguyên tắc, quy phạm được quy định một cách lịch sử của hành vi của con người
kể cả cách đánh giá các hành vi ấy trong các phạm trù Thiện và Ác, đến phẩm chất
đạo đức của con người. Vì vậy, có thể rút ra kết luận rằng: Những nguyên tắc, quy
6



phạm của hành vi của con người, đối với phẩm giá của con người, trong quan hệ
với những người khác, ngay trong quan hệ với giai cấp mình hoặc với giai cấp đối
lập, trong quan hệ với nhân dân, với Tổ quốc… Chính biểu hiện lí luận về đạo đức,
ngay cả mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, việc kết hợp lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội luôn luôn là các vấn đề trọng tâm của các học thuyết đạo đức - cũng chính là
các vấn đề lí luận cơ bản của đạo đức. Tuy nhiên, khi nghiên cứu và giảng dạy đạo
đức, chúng ta không chỉ dừng ở việc trình bày những ngun lí chung nhất mà phải
tiếp tục đi sâu vào phạm trù đạo đức, cụ thể, làm cơ sở vững chắc cho quá trình giáo
dục đạo đức nói chung.
2. Một số khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái sớm của ý thức xã hội, bao gồm những
chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác
và với cộng đồng (quan hệ gia đình, bạn bè, hàng xóm, giai cấp, dân tộc).
Đạo đức được thể hiện ở các quan hệ về thiện và ác, lòng nhân ái, lương tâm,
danh dự, hạnh phúc, lẽ công bằng về những điều cần phải làm, nên làm, được hay
không được làm… Căn cứ vào những chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của
mỗi người và của chính mình. Tuy chuẩn mực đạo đức khơng được ghi thành văn
bản pháp quy có tính chất bắt buộc mỗi người phải thực hiện, nhưng vẫn được mọi
người thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm cá nhân và dư luận xã hội. Đạo đức
ra đời và phát triển là do nhu cầu xã hội phải điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân,
phải điều tiết hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội nhất định, phản ánh các quan hệ xã hội.
Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp: “Xã hội nào thì đạo đức
ấy”. Đạo đức của xã hội ta là đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đạo đức được xây dựng
trên cơ sở một xã hội khơng có người bóc lột người, trên cơ sở có sự kết hợp thỏa
đáng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Các hình thái kinh tế xã hội thay thế
nhau, nhưng xã hội giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những kiến thức chung. Do
vậy, đạo đức cũng có tính chất kế thừa nhất định. Đó là những yêu cầu đạo đức liên

quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Cụ thể, mọi
thời đại đều lên án cái ác, cái tàn bạo, tham lam, hèn nhát… và đều khen ngợi cái
thiện, sự độ lượng, khiêm tốn. Xã hội càng tiến bộ, quan hệ giữa người với người
càng mang tính nhân đạo hơn.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh là hình thành cho các em lịng nhân ái
mang bản sắc con người Việt Nam; Yêu quê hương đất nước hịa bình, cơng bằng
bác ái, kính trên nhường dưới, đồn kết với mọi người… Có ý thức về bổn phận
của mình đối với người thân, đối với bạn bè, đối với cộng đồng và môi trường
sống. Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, các quy định của nhà trường, khu dân
cư, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực. Biết cách tự phục vụ, biết cách
học tập, vận dụng làm được một số việc trong gia đình.
7


Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, chúng ta phải hình thành cho
các em những thói quen chuẩn mực đạo đức cụ thể là: Lịng kính u ông bà, cha
mẹ, kính trọng thầy giáo, cô giáo, quý mến bạn bè, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn;
thật thà dũng cảm trong học tập, lao động; lòng biết ơn những người có cơng với
đất nước… Những thói quen này, những đức tính này, thực hiện theo các chuẩn
mực đạo đức nhân đạo của loài người là các yếu tố tạo thành nền tảng để hình
thành và phát triển nhân cách đạo đức mới. Những thói quen hành vi đạo đức này
không đơn thuần là những hành động ứng xử có được do lặp lại bằng luyện tập
trong nhiều tình huống quen thuộc. Đó phải là những hành động ứng xử chịu sự
kích thích của những động cơ đạo đức đúng đắn.
Như vậy, phẩm chất đạo đức của thế hệ trẻ, sự ứng xử này được hình thành
do trẻ rèn luyện những thói quen đạo đức, tình cảm đạo đức, kiến thức đạo đức. Vì
vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng là
cung cấp cho trẻ những biểu tượng và khái niệm đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm đạo
đức và tình cảm đạo đức, rèn luyện kĩ năng và thói quen đạo đức.
3. Vai trị của nhà trường Tiểu học trong việc giáo dục đạo đức

- Làm cho học sinh nhận thấy rằng, cần làm cho hành vi ứng xử của mình
phù hợp với lợi ích của xã hội, giúp cho các em lĩnh hội các lí tưởng đạo đức, các
nguyên tắc đạo đức, các chuẩn mực đạo đức để đảm bảo sự phù hợp đó.
- Bồi dưỡng tình cảm đạo đức tích cực và bền vững các phẩm chất ý chí (thật
thà, dũng cảm, kỉ luật, kiên trì…) để đảm bảo cho hành vi đạo đức luôn luôn nhất
quán với yêu cầu đạo đức.
- Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức, làm cho chúng trở thành bản tính tự nhiên
của cá nhân và duy trì lâu bền các thói quen đó để ứng xử đúng đắn trong mọi hồn cảnh.
- Giáo dục văn hóa ứng xử (hành vi văn minh) thể hiện sự tôn trọng và quý
trọng lẫn nhau của con người, bảo quản tính nhân đạo, trình độ thẩm mĩ cao của các
quan hệ cá nhân trong cuộc sống.
- Việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức và rèn luyện thói quen hành vi đạo đức là
nhằm hình thành bản lĩnh đạo đức vững vàng cho học sinh. Song cần chú ý rằng,
nếu trình độ phát triển nhân cách về mặt đạo đức nhất là về mặt ý thức đạo đức
khơng tương ứng với trình độ phát triển của tình cảm đạo đức, của thói quen hành
vi đạo đức thì sẽ gặp nhiều khó khăn, khơng thuận lợi, lung túng, thậm chí mắc sai
lầm trong ứng xử đạo đức khi gặp các tình huống khó khăn; niềm tin đạo đức và
tình cảm đạo đức được hình thành không chắc chắn, phiến diện. Mặt khác, nếu việc
truyền thụ kiến thức đạo đức được tiếp thu một cách hình thức thì sẽ gặp tai họa là
lời nói và việc làm khơng thống nhất với nhau, lí trí và tình cảm không thống nhất
với nhau, nảy sinh hiện tượng phân đơi nhân cách, hiện tượng đạo đức giả. Chính
8


vì vậy, việc xác định vai trị của nhà trường trong giáo dục đạo đức cho học sinh là
cực kì quan trọng.

Chương II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm tình hình nhà trường
a) Nhà trường

Được sự chỉ đạo sát sao của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, được sự giúp đỡ
nhiệt tình có hiệu quả của các cấp các ngành; các bậc phụ huynh học sinh nhiệt
tình, luôn tạo điều kiện tốt nhất để các giáo viên hoàn thành nhiệm vụ trong năm
học.
b) Giáo viên
Phần lớn là những cán bộ giáo viên có thâm niên từ 5 năm trở lên. Tất cả
các đồng chí giáo viên trong trường đều biểu lộ tình đồn kết thân ái giúp đỡ lẫn
nhau. Các đồng chí xuất thân từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, tuổi đời, tuổi
nghề cũng có nhiều khác biệt. Cả tập thể ấy, mang theo phong tục tập quán của
nhiều địa phương khác nhau, cá tính, năng lực, sở trường khác nhau nhưng trước
yêu cầu của cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đồng chí đã tập hợp
thành một khối xây dựng, một tổ ấm đồn kết nhất trí, khắc phục những mặt yếu,
phát huy những mặt mạnh cùng nhau gánh vác công việc chung để đẩy mạnh
công tác giáo dục của nhà trường.
c) Học sinh
Tồn trường có 7 học sinh trong đó: Khối 1 có 92 em; khối 2 có 58 em;
khối 3 có 78 em; khối 4 có 63 em; khối 5 có 67 em. Các em hầu hết là con em
nhân dân lao động ở địa phương xã Thanh Hải. Cũng như nhiều trường khác, đó
là một tập thể nam nữ Thiếu niên Nhi đồng sơi nổi, hiếu động, có nhiều mặt tốt
cần phát huy nhưng cũng không hiếm những mặt xấu tiêu biểu của một số học
sinh cá biệt. Về chất lượng học tập, nhìn chung tất cả các bộ mơn đều có học
sinh yếu kém. Nếu đối chiếu với yêu cầu mới hiện nay đòi hỏi chất lượng ngày
càng nâng cao thì chưa đạt. Tình trạng học hời hợt, khơng chú ý nghe giảng,
không làm bài tập ở nhà là khá phổ biến. Ý thức chấp hành kỉ luật, nội quy của
9


lớp và của nhà trường chưa tốt vẫn còn ở rải rác các lớp. Hiện tượng lấy tiền của
bạn, của gia đình để mua quà, tiêu sài; lấy đồ dùng học tập của bạn vẫn diễn ra
hằng ngày… Ngoài thời gian học tập và rèn luyện ở trường, các em cịn phải lao

động giúp đỡ gia đình như chăn trâu, kiếm củi, hái chè… Đã phải lam lũ lao
động vất vả, phương pháp học tập, rèn luyện còn lúng túng, cha mẹ nhiều em
cịn đi làm xa, ít quan tâm đến việc học hành và giáo dục con cái nên chất lượng
giáo dục thật đáng lo ngại. Tình hình này thôi thúc nhà trường phải tập trung suy
nghĩ cải tiến cách dạy, cách giáo dục học sinh phát triển toàn diện đáp ứng nhu
cầu của xã hội hiện nay.
2. Chất lượng đạo đức của học sinh hiện nay ở trường Tiểu học Thanh
Hải số 1
Muốn có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh thì
phải nắm chắc và đánh giá đúng tình hình đạo đức của học sinh trường mình. Tơi
đã dùng nhiều hình thức điều tra như nghiên cứu hồ sơ, học bạ, nghiên cứu dư luận
của giáo viên, của cha mẹ học sinh và nhân dân địa phương, theo dõi các hoạt động
của học sinh trên lớp cũng như các buổi sinh hoạt tập thể ngồi trời. Qua điều tra
tơi thấy, nhìn chung, các em đều ngoan, đều mong muốn xây dựng lớp mình thành
lớp tốt. Riêng một số em có biểu hiện sai về mặt đạo đức thì rơi vào những em có
học lực cịn yếu; Số cịn lại là do những yếu tố ảnh hưởng bởi những tác động xấu,
chưa có ý thức phân định và tiếp thu một cách có chọn lọc. Hơn nữa, đây cũng là
độ tuổi rất hiếu động, cịn thích ham chơi, ý thức định hướng chưa rõ ràng. Sự thiếu
quan tâm từ phía gia đình: Cha mẹ vì quá bận rộn, đi làm ăn xa nhà, khơng có điều
kiện thời gian để chăm sóc con cái; khơng khí gia đình cũng ảnh hưởng rất lớn đến
các em như cha mẹ bỏ nhau, cha mẹ khơng hịa thuận khiến các em thiếu thốn tình
yêu thương, nghe lời rủ rê của những kẻ xấu, xa lánh những người bạn tốt từ đó trở
nên hư hỏng. Một số em có hồn cảnh khó khăn, khơng có điều kiện vật chất đầy
đủ như các bạn bè khác trong lớp mà khơng vượt lên được hồn cảnh sinh ra tự ti,
co mình lại, khơng chịu nhận sự giúp đỡ từ phía bạn bè và nhà trường. Những em
này thường có biểu hiện rất đa dạng, có thể xếp thành mấy nhóm như sau:
* Ở trường
- Thiếu ý thức tổ chức kỉ luật, chây lười trong học tập, lao động; Học bài,
làm bài khơng đầy đủ, quay cóp bài khi làm bài kiểm tra; Ăn mặc lôi chưa sạch sẽ,
không tuân thủ theo quy định chung của trường.

- Thiếu lễ phép với thầy cô giáo; lừa dối thầy cô giáo; xúc phạm cơ giáo,
thầy giáo, thậm chí có em cịn chửi thầy giáo, cô giáo...
- Phá phách tài sản của nhà trường, của bạn; gây gổ đánh nhau với bạn bè
trong lớp, trong trường, dọa nạt hội đồng tự quản của lớp, nói tục, chửi bậy, ăn cắp
vặt…
10


* Ở ngoài trường
- Thiếu lễ phép với cha mẹ, người lớn, nói dối gia đình, mất trật tự làng
xóm… La cà hàng quán ăn uống bê tha, tiêu tiền lãng phí.
- Một số học sinh cá biệt có những biểu hiện gần giống hành vi trẻ lang thang
phạm pháp như: Trộm cắp, đánh nhau, lừa dối gia đình để lấy tiền tiêu sài.
Tôi cho rằng những em học sinh hư này, nếu được giáo dục đúng cách thì sẽ
trở thành những học sinh ngoan, học giỏi, có ích cho gia đình, nhà trường, xã hội.
Vì vậy, khơng thể giáo dục các em theo từng phần, từng mặt riêng biệt mà ln
phải giáo dục tồn bộ nhân cách.

Chương III: NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ
Tuổi học sinh Tiểu học là giai đoạn lĩnh hội các Chuẩn mực đạo đức và quy
tắc hành vi đạo đức một cách hệ thống. Hơn nữa, nhà trường còn kiểm tra việc thực
hiện các chuẩn mực đạo đức một cách thường xun và có mục đích. Việc giáo dục
đạo đức cho học sinh không tách rời việc giáo dục nhân cách học sinh và có thể
thực hiện với nhiều hình thức thích hợp, đa dạng trong đó, nổi bật là các hình thức
sau:
1. Giáo dục đạo đức thơng qua q trình dạy học
11


Bản thân quá trình dạy học và ngay trong các nhiệm vụ dạy học là nhằm góp

phần giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Tính chất giáo dục của việc dạy
học đòi hỏi nhà giáo phải khai thác đúng đắn, sâu sắc nội dung các môn học, thông
qua việc dạy học mà thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục nhằm phát triển các
phẩm chất đạo đức, hồn thiện nhân cách học sinh.
Trước hết, phải nói tới q trình dạy học mơn Đạo đức ở trường. Thơng qua
mơn học này, mà học sinh có được một hệ thống khái niệm, tri thức đạo đức. Nhờ
đó, học sinh có thể hiểu được mục đích hành động, biết được cần phải làm gì, phân
biệt được “cái tốt và cái xấu”, “cái đạo đức và cái vô đạo đức”… Trên cơ sở đó,
các em định hướng đúng trong các hiện tượng phong phú và phức tạp ở quanh mình
và có được tính tự giác trong q trình học tập. Ở bậc Tiểu học, việc dạy và học môn
Đạo Đức với tư cách là mơn học cũng có tác dụng đặc biệt; thông qua việc dạy học
môn Đạo Đức nhằm thực hiện được các nhiệm vụ:
- Cung cấp cho học sinh các tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực đạo đức gắn
với kinh nghiệm sống, giúp học sinh hình thành, định hướng về giá trị đạo đức, biết
các nghĩa vụ, trách nhiệm và phân biệt được cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác. Từ
đó, có nguyện vọng thơng qua hoạt động mà đưa các chuẩn mực, các giá trị ấy vào
mọi lĩnh vực của cuộc sống (phù hợp với trình độ nhận thức, tập quán hành vi đạo
đức đang hình thành ở mỗi em).
- Trên cơ sở đó, giúp các em tập luyện trong đời sống thực tế, hình thành các
hành vi, tập quán hành vi lành mạnh, góp phần tạo nên lối sống phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức văn hóa.
Nếu thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, chúng ta đã và sẽ đặt được những viên
gạch hồng đầu tiên trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng hình thành cơ sở ban đầu
của tư cách đạo đức người công dân, người chiến sĩ, những người chủ tương lai của
đất nước, của dân tộc. Các em cũng hiểu bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình
trong các mối quan hệ xã hội, đòi hỏi trong giáo lưu, giao tiếp ứng xử phải tuân
theo các chuẩn mực đạo đức, nhất là trong điều kiện xã hội phát triển nhanh chóng,
mạnh mẽ và phức tạp trong cơ chế thị trường. Cụ thể là:
+ Các quan hệ với gia đình (cha mẹ, ông bà, anh chị em);
+ Quan hệ với nhà trường (thầy cô giáo, bạn bè);

+ Quan hệ với cộng đồng (làng xóm, đồn thể, xã hội);
+ Thái độ và quan hệ với lao động, với công việc hàng ngày;
+ Thái độ và quan hệ với tài sản công cộng, với mơi trường, với các di sản
văn hóa, với thiên nhiên… ;
12


+ Ý thức về nghĩa vụ đối với Tổ quốc, đối với dân tộc;
+ Ý thức đối với trách nhiệm, bổn phận, lợi ích chính đáng của bản thân…
Ngồi mơn Đạo đức, tất cả các môn học khác ở Tiểu học, đặc biệt là môn
Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, mơn Tốn lớp 1 đều có khả năng tiềm tàng, cần
được khai thác tốt, đúng hướng, nhằm vào việc giáo dục đạo đức. Chẳng hạn, ở
môn Tiếng Việt qua các câu chuyện kể, các bài văn, bài thơ có nội dung phong phú,
sinh động ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, ca ngợi văn hóa, các tập quán truyền thống
tốt đẹp của đất nước, của dân tộc, nếu được khai thác, tiến hành đúng đắn sẽ mở
rộng được kiến thức về đạo đức, về truyền thống văn hóa, về kinh nghiệm, lối sống
mang tính dân gian, phản ánh bản sắc đạo đức của dân tộc. Tất cả sẽ giáo dục, bồi
dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc và kể cả các
chuẩn mực sơ giản trong giao tiếp, ứng xử về đạo đức…
Khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài, nhờ vận dụng đúng các nguyên tắc
và phương pháp giáo dục và dạy học, sẽ giúp học sinh đi từ mức độ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp và nâng cao dần… sẽ tập luyện cho học sinh thói quen vượt
khó khăn hồn thành nhiệm vụ học tập, bước đầu hồn thành các phẩm chất ý chí,
các nét tính cách, lịng u chân lí, u văn hóa, khoa học. Cũng nhờ vậy, mà tầm
mắt của các em ngày càng mở rộng, càng phong phú thêm, góp phần làm cho kiến
thức đạo đức, thái độ đạo đức về cuộc sống, vốn sống, kinh nghiệm sống của các
em phát triển dần.
Trong quá trình học tập cùng nhau, các mối quan hệ về lợi ích giữa cá nhân
với tập thể sẽ hình thành tinh thần đồn kết gắn bó với nhau vì lợi ích chung cũng
sẽ phát triển nâng cao dần. Hơn thế nữa, do được giáo dục tốt, được gia đình quan

tâm theo dõi, chăm sóc hàng ngày, học sinh dần dần sẽ ý thức được mối quan hệ
giữa cá nhân với tư cách là con cái, là học sinh với lợi ích của gia đình và bản thân.
Tất cả sẽ là cơ sở để xây dựng nên ý thức của học sinh về nghĩa vụ, trách nhiệm, về
bổn phận với mọi người, với gia đình và xa hơn nữa là với xã hội. Khi hoàn thành
tốt các nhiệm vụ học tập, phù hợp với sự mong đợi của gia đình, của xã hội, các em
sẽ được đánh giá, khen thưởng, sẽ hình thành được những tình cảm trong sáng, tích
cực phù hợp với lứa tuổi học đường.
Tất nhiên, đều cần và có thể bồi dưỡng cho các em thơng qua việc dạy mơn
Đạo đức và q trình dạy học nói chung ở Tiểu học. Các quan hệ nêu trên, đòi hỏi phải
có sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội nhằm vào mục tiêu chung: Bồi
dưỡng, hình thành nhân cách của người công dân tương lai từ trong nhà trường Tiểu
học.
2. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp

13


- Tổ chức các buổi sinh hoạt dưới cờ vào mỗi thứ hai hàng tuần, biểu dương
các tập thể, cá nhân, uốn nắn những thiếu sót và giới thiệu, định hướng những nội
dung cần giáo dục cho học sinh.
- Tổ chức tốt các ngày chủ điểm trong năm học gắn với kỉ niệm các ngày lễ
lớn của dân tộc; thông qua đó, giáo dục truyền thống cách mạng, lịng tự hào dân
tộc, ý chí quật cường và tình u q hương đất nước cho học sinh. Thông thường,
mỗi tháng trong năm học đều có ngày lễ lớn chẳng hạn: Kỉ niệm cách mạng thánh
Tám và Quốc khánh 2/9. Ngày 15/10: Bác Hồ gửi lá thư cuối cùng cho ngành giáo
dục - Đào tạo trước khi Bác ra đi, đồng thời cũng là ngày anh Nguyễn Văn Trỗi hi
sinh. Ngày 20/10: Thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Ngày 20/11: Ngày
nhà giáo Việt Nam. Ngày 22/12: Ngày thành Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày
quốc phịng tồn dân. Ngày 03/02: Ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày
08/3: Ngày Quốc tế phụ nữ. Ngày 26/3: Ngày thành lập Đồn thanh niên cộng sản

Hồ Chí Minh. Ngày 10/3 âm lịch (thường vào tháng 4 dương lịch): Ngày giỗ Tổ
Hùng Vương. Ngày 30/4: Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Ngày19/5: Kỉ niệm ngày sinh của Hồ Chủ Tịch. Ngày 01/6: Ngày Quốc tế Thiếu
nhi. Ngày 27/7: Ngày thương binh liệt sĩ… Ngồi ra cịn nhiều ngày kỉ niệm khác
nữa. Dựa vào các ngày lễ vừa nêu trên, có thể tổ chức cho các em sinh hoạt theo
chủ đề với nhiều nội dung phong phú, chẳng hạn:
+ Tháng 9-10: Hãy viết và nói gì về kỉ niệm một ngày khai trường để lại cho
em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Hãy nói và kể những cơng việc em đã làm để làm
sạch đẹp trường lớp…;
+ Tháng 11: Trao đổi về tình thầy trị, ca hát, đọc thơ, kể chuyện, tiểu phẩm
nói về thầy giáo, cơ giáo;
+ Tháng 12: Hãy tìm tấm gương về người con anh hùng của đất nước, của
quê hương;
+ Tháng 1-2: Mùa xuân và ước mơ của các em về nghề nghiệp; tìm hiểu lịch
sử truyền thống nhà trường, truyền thống văn hóa địa phương.
+ Tháng 3: Hãy nói tình cảm của mình với bà, với mẹ, cô giáo; hát những bài
hát về bà, mẹ, cô giáo… ;
+ Tháng 4: Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu về Quân đội nhân dân Việt Nam;
+ Tháng 5: Trao đổi về thái độ học tập, về 5 diều Bác Hồ dạy, nói những gì
em biết về thời niên thiếu của Bác Hồ…
Với những chủ đề trên, các em trao đổi, thảo luận sơi nổi, được phép trình
bày quan điểm riêng của mình về chủ đề đó. Giờ sinh hoạt trở nên hấp dẫn, hứng
14


thú và qua đó, giáo viên chủ nhiệm nắm bắt được suy nghĩ và hành động của học
sinh, trên cơ sở đó, có biện pháp giáo dục đạo đức cho phù hợp.
- Tổ chức cho học sinh tiếp xúc, giao lưu trò chuyện với người thật, việc thật.
Nhân kỉ niệm các ngày lễ lớn, tùy nội dung cần giáo dục thông qua các ngày lễ ấy
nhà trường mời các vị lão thành cách mạng, các anh hùng lực lượng vũ trang,

những người đạt thành tích cao trong lao động sản xuất… về trường gặp gỡ, trò
chuyện, giao lưu với học sinh.
- Đẩy mạnh các hoạt động thiết thực, phù hợp với lứa tuổi mang tính giáo
dục như:
+ Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao (yêu quê hương đất nước, mừng
Đảng mừng xuân, nhớ ơn Bác Hồ, hướng về ngày 20/11…). Đây là loại hình hoạt
động khá hấp dẫn đối với học sinh nhà trường nói chung và học sinh lớp 1 nói
riêng, thu hút được nhiều em tham gia.
+ Hoạt động đền ơn đáp nghĩa như: Áo lụa tặng bà, chăm sóc giúp đỡ gia
đình thương binh liệt sĩ, viếng và chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, đóng góp vào quỹ
xây dựng nhà tình thương, trồng cây nhớ ơn Bác…
+ Hoạt động mang tính giáo dục lịng nhân ái như tham gia các đợt ủng hộ
đồng bào bị thiên tai, bão lụt, tham gia các chương trình vì người nghèo, phong trào
giúp bạn vượt khó…
+ Hoạt động “Hội thi hái hoa dân chủ”: Hội thi hái hoa dân chủ là đỉnh cao
của phong trào thiếu nhi, là kết quả của quá trình phấn đấu, học tập, rèn luyện theo
mục tiêu giáo dục toàn diện. Qua hội thi, các em sẽ đánh giá được kết quả rèn luyện
của mình và đó chính là cơ hội, là mơi trường để các em trao đổi thêm kinh nghiệm
học tập, hoạt động với các bạn của mình. Hội thi cịn là ngày hội của các em, vừa
mang tính chất của cuộc thi tài, nên đã tạo được bầu khơng khí thi đua hào hứng,
sôi nổi, hấp dẫn trong các hoạt động.
- Tổ chức các hoạt động tập thể trong phạm vi toàn trường tạo điều kiện để
các em hình thành các mối quan hệ, gắn bó với nhau vì quyền lợi, danh dự chung,
gây niềm vinh dự, tự hào về lớp mình, rất có ý nghĩa và tác dụng sâu sắc đến nhận
thức, tình cảm của học sinh. Thực tế hoạt động tập thể của các nhà trường, có thể là
các hoạt động như: Lao động tập thể, các cuộc thi tài năng của cá nhân, tổ chức
giao lưu trong tập thể giữa các khối lớp... Mỗi giáo viên cần nhận thức về tác dụng
giáo dục của tập thể, biết dựa vào các giai đoạn hình thành và phát triển của tập thể
và các nhiệm vụ giáo dục để tìm ra các biện pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong
tập thể đạt tới hiệu quả giáo dục theo mục tiêu của cấp học. Từ đó, nếp sống đạo

đức của các em sẽ có chuyển biến tốt, trước hết là tinh thần đồn kết, ý thức tập thể,
biết giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động. Qua hoạt động tập thể, lòng nhân ái, tính vị
15


tha, tinh thần dũng cảm, trách nhiệm vì tập thể được thể hiện rõ và chính những
hoạt động đó đã đẩy mạnh phong trào học tập của các em hơn.
Để các hoạt động nêu trên được thực hiện có hiệu quả, góp phần tích cực
trong cơng việc giáo dục đạo đức cho học sinh người giáo viên cần lưu ý: Phát huy
vai trò, chức năng của các tổ chức và cá nhân trong nhà trường, trong đó, giáo viên
chủ nhiệm giữ vai trò rất quan trọng. Phối hợp tốt các tổ chức đoàn thể ngoài nhà
trường như: Hội cha mẹ học sinh, các cấp chính quyền địa phương trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh.
3. Vận động mọi lực lượng tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh
Việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học nói
chung và học sinh lớp 1 nói riêng là một cơng việc khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ,
trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh tiếp nhận những tác động từ nhiều phía:
Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Cơng tác giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao khi phối
hợp thống nhất được tác động theo hướng tích cực. Đối với học sinh thì tác động
giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội có vai trị quan trọng. Vì vậy, sự kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong lĩnh vực này có tác dụng to lớn về
nhiều mặt đó là: Làm cho các tác động giáo dục đến với học sinh được thực hiện
theo những yêu cầu thống nhất; Giúp cho cha mẹ học sinh và giáo viên hiểu đầy đủ
hơn về đối tượng giáo dục của mình, nhờ đó, đề ra được những biện pháp giáo dục
phù hợp; Tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong công tác giáo dục. Với ý nghĩa đó, sự kết
hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội từ lâu đã được xem là nguyên lí cơ
bản của giáo dục. Song làm thế nào để sự kết hợp này đáp ứng được những yêu cầu
của công tác giáo dục vẫn đang là vấn đề chưa có lời giải đáp. Ở trường chúng tôi,
việc kết hợp giáo dục đạo đức cho học sinh giữa nhà trường, gia đình, xã hội đã
được thực hiện theo cơ chế phân công - Hợp tác bằng việc làm cụ thể, thiết thực

của cha mẹ học sinh, giáo viên và địa phương. Cụ thể là:
- Xác định rõ nhiệm vụ của nhà trường, gia đình dựa trên cơ sở vai trò, chức
năng và thế mạnh của mỗi bên. Nhà trường là cơ quan chuyên trách về giáo dục. Vì
vậy, nhà trường và giáo viên có nhiệm vụ thông báo kết quả học tập, rèn luyện của
học sinh ở trường, thông báo chủ trương, kế hoạch công tác của nhà trường cho cha
mẹ học sinh. Chủ động thu hút cha mẹ học sinh tích cực tham gia cơng tác giáo
dục. Nhà trường phải chú ý đúng mức đến một số nội dung liên quan đến việc giáo
dục đạo đức cho học sinh như trao đổi về ưu, nhược điểm ở nhà trường, ở gia đình
để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. Đặc biệt, nội dung bồi dưỡng kiến thức sư
phạm, kiến thức gia đình cho cha mẹ học sinh đã trở thành mối quan tâm của cả hai
phía.
- Xây dựng quy định nếp sống hằng ngày ở nhà, ở trường, ở địa phương
của học sinh làm cơ sở cho việc thống nhất yêu cầu, nội dung giáo dục cũng như
việc đánh giá kết quả giáo dục. Nội dung của bản quy định bao gồm các việc làm
16


và các quan hệ hằng ngày của học sinh ở nhà, ở trường, ở địa phương; Nội dung
của từng việc làm, yêu cầu cần đạt được khi thực hiện. Các việc làm đó được sắp
xếp theo một trật tự nhất định tùy điều kiện cụ thể của gia đình, nhà trường, địa
phương và trình độ phát triển của học sinh từng lớp. Quy định này là do giáo
viên cùng cha mẹ học sinh xây dựng từ đầu năm học trong phiên họp cha mẹ học
sinh đầu năm. Những điều chỉnh cần thiết sẽ được hai bên thông báo kịp thời
cho nhau trong suốt năm học.
- Xác định những hình thức phối hợp nhằm đảm bảo mối quan hệ thường
xuyên giữa gia đình, nhà trường, xã hội. Hình thức trao đổi trực tiếp được thực
hiện qua việc giáo viên đến thăm gia đình học sinh, qua các cuộc họp cha mẹ
học sinh, qua điện thoại. Những cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp nêu trên cho
phép được đề cập nhiều vấn đề và đi sâu vào từng trường hợp cụ thể, tạo được
mối quan hệ thân mật hiểu biết lẫn nhau giữa giáo viên và cha mẹ học sinh, giúp

giáo viên hiểu rõ hồn cảnh của từng học sinh, nhờ đó đưa ra những lời khuyên
phù hợp cho gia đình. Hình thức trao đổi gián tiếp như thông qua sổ liên lạc, qua
đại diện hội cha mẹ học sinh hoặc đại diện cộng đồng dân cư nơi gia đình học
sinh cư trú. Trong các hình thức này, việc trao đổi qua sổ liên lạc có tính khả thi
hơn cả. Song, sổ liên lạc phải được sử dụng một cách thường xuyên khi cần chứ
khơng phải theo định kì hàng tháng. Đồng thời, cần cải tiến hoạt động của cha
mẹ học sinh. Hội cha mẹ học sinh phải thực sự trở thành lực lượng hỗ trợ đắc
lực cho việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội. Vì vậy, về mặt
tổ chức, bên cạnh ban chấp hành Hội cần có tổ phụ huynh (của lớp) theo địa bàn
học sinh cư trú. Hội trưởng phụ huynh sẽ hoạt động theo tư cách là cầu nối trao
đổi thông tin giữa nhà trường và gia đình.
Nếu nhà trường, gia đình, xã hội tác động đến học sinh theo cùng hướng trên
những quan điểm, nguyên tắc đúng đắn và thống nhất thì việc hình thành chuẩn
mực đạo đức cho học sinh sẽ có hiệu quả. Nếu các yếu tố đó tác động lệch hướng
đến từng học sinh thì sẽ vơ hiệu hóa lẫn nhau, gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức của
trẻ. Để có được sự thống nhất, tạo ra sự cộng hưởng giữa nhà trường, gia đình, xã
hội nhà trường cần trở thành trung tâm văn hóa giáo dục, trở thành nơi chỉ đạo
thống nhất tác động của các lực lượng giáo dục.

17


Chương IV: KẾT QUẢ
I. VỀ PHÍA GIÁO VIÊN
Năm học 2015-2016 là năm học tiếp tục thực hiện học tập Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố XI về đổi mới căn bản,
tồn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Là năm thứ hai thực
hiện việc đánh giá học sinh (theo Thông tư 30/2014-BGDĐT ngày 28/8/2014 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo). Bằng những kinh nghiệm nhỏ, tất cả sự quyết tâm và

nhiệt tình, tơi đã có phần nào thành cơng trong việc giáo dục kĩ năng, hành vi đạo
đức cho học sinh lớp 1. Các em đã ngoan ngỗn và có nhiều tiến bộ so với đầu
năm, điều này làm cho phụ huynh tin tưởng, các em học sinh quý mến.
II. VỀ PHÍA HỌC SINH
Qua quá trình thực hiện các biện pháp nêu trên vào việc giáo dục đạo đức
cho học sinh trong khối lớp 1, tơi thấy các em học sinh có chuyển biến rõ rệt, có ý
thức cao trong học tập và rèn luyện, biểu hiện cụ thể như sau:
- Xác định được mục đích học tập, chuyên cần, ham học, trung thực trong
học tập và đạt kết quả tốt. Luôn khiêm tốn và giúp đỡ nhau cùng học tập tiến bộ;
mạnh dạn đấu tranh thói lười biếng, ỷ lại, thiếu trung thực trong học tập.
- Tham gia đầy đủ và thực hiện tốt các buổi hoạt động tập thể. Có ý thức thực
hành tiết kiệm, quý trọng và bảo vệ tài sản của nhà trường, của lớp học.

18


- Tích cực rèn luyện thân thể và tham gia các buổi thể dục chính khóa và
ngoại khóa; ln giữ vệ sinh cá nhân, giữ sạch đẹp trường, lớp.
- Thực hiện nếp sống lành mạnh, có văn hóa, có kỉ luật. Sống trung thực,
đúng mực trong các mối quan hệ giao tiếp với thầy cơ, bạn bè, gia đình và những
người xung quanh.
- Có ý thức thực hiện tốt pháp luật, chính sách liên quan đến bản thân. Có
thái độ rõ ràng ủng hộ cái đúng, cái tốt; không đồng tình với những biểu hiện sai
trái trong và ngồi nhà trường. Tích cực tham gia các hoạt động do nhà trường tổ
chức, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn.
Dưới đây là bảng tổng hợp chất lượng rèn luyện đạo đức và chất lượng học
tập môn đạo đức của học sinh lớp 1A4 năm học 2015 - 2016
Tổng số
học sinh


Kết quả rèn luyện đạo đức
Đạt
Chưa đạt
Số lượng
Tỷ lệ (%) Số lượng
Tỷ lệ (%)

Đầu năm
học

27

27

100

7

25,9

Cuối năm
học

27

27

100

0


0

19


Chương V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn cho thấy, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho
học sinh Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm
của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời là trách nhiệm nặng nề
của ngành giáo dục, trong đó, vai trị của các trường học rất quan trọng. Giáo dục
đạo đức cho học sinh bậc Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng góp phần
khơng nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh. Từ việc
đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, qua tìm hiểu thực tế giáo
dục đạo đức ở một số lớp, ở một số giáo viên có kinh nghiệm, tơi khái quát dưới
đây một số bài học kinh nghiệm về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1 như sau:
- Phải lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ
nhiệm là linh hồn, là cố vấn tối cao của một lớp, là lực lượng giáo dục nòng cốt của
nhà trường. Họ là người trực tiếp tổ chức, quản lí tồn diện các hoạt động giáo dục
của một lớp. Cho nên, giáo viên chủ nhiệm có tâm huyết với học sinh, theo tơi, đó
là yếu tố trước hết để có thể cảm hóa, giáo dục học sinh trở thành người tốt.
- Nắm vững nguyên nhân dẫn đến hành vi không tốt để xuất hiện biện pháp
giáo dục thích hợp với từng loại đối tượng học sinh. Cơng việc này chẳng khác nào
một người thầy thuốc chữa bệnh, chuẩn đốn đúng sẽ điều trị có hiệu quả; mà
muốn chuẩn đoán đúng, giáo viên chủ nhiệm phải là người hết sức sâu sát, nắm
vững đặc diểm, tâm lí học sinh cũng như hồn cảnh gia đình của các em.
- Kết hợp chặt chẽ với gia đình để giáo dục các em. Hầu như những học sinh
chưa ngoan, dù ở mức độ nào cũng đều có ngun nhân từ phía gia đình. Gia đình
là một mơi trường, lực lượng giáo dục đầu tiên, trực tiếp, gần gũi, thường xuyên và
lâu dài nhất đối với mọi trẻ em. Vì vậy, nhà trường, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm

cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với gia đình để tạo môi trường giáo dục thống
nhất, đồng bộ đối với học sinh này.
- Xây dựng đơi bạn, nhóm bạn cùng tiến để thường xuyên kèm cặp, uốn nắn
kịp thời những hành vi tái phạm của những học sinh chưa ngoan. Trong biện pháp
này, giáo viên chủ nhiệm phải xử lí khéo léo các thơng tin mà học sinh trong nhóm
phản ánh cho mình, đồng thời giáo dục các em đó có lòng thương yêu, đặt niềm tin
vào sự tiến bộ của bạn. Khéo léo sử dụng dư luận tích cực của tập thể để điều chỉnh
hành vi sai trái của những học sinh chưa ngoan. Dư luận tập thể có tác dụng điều
chỉnh hành vi của từng thành viên theo yêu cầu của tập thể. Vì vậy, giáo viên chủ
nhiệm cần kịp thời phát hiện dư luận và có biện pháp xử lí thích hợp, giúp học sinh
20


có biểu hiện sai trái tiếp nhận ý kiến của tập thể, tránh sự áp đặt gây nên mặc cảm,
tự ti hoặc chống đối ở các em.
- Thuyết phục là phương pháp giáo dục nhằm tác động vào ý thức, tình cảm,
niềm tin, ý chí của học sinh. Đây là phương pháp có vai trị mở đường cho mọi q
trình giáo dục bất kì một phẩm chất, năng lực nào. Đối với việc giáo dục học sinh
chưa ngoan, khi thực hiện phương pháp này cần hết sức tránh nóng vội và cần nắm
bắt cụ thể đặc điểm tâm lí, tính cách cũng như hồn cảnh gia đình, quan hệ bạn bè
của đối tượng này để có biện pháp giáo dục.
- Phát hiện, động viên kịp thời những tiến bộ dù nhỏ để xây dựng niềm tin ở
học sinh. Theo số liệu điều tra, số học sinh có biểu hiện sai trái về đạo đức đã mất
hết niềm tin vào bản thân. Vì vậy, việc khích lệ những cố gắng, tiến bộ của các em
sẽ có tác dụng như một động lực, một sinh khí mới cho các em phấn đấu. Giáo dục
lại đạo đức cần gắn liền với giáo dục lịng say mê học tập. Phần đơng học sinh có
hành vi đạo đức chưa tốt đều lười biếng học tập, việc thu hút các em vào hoạt động
học tập sẽ dần dần tách các em khỏi những quan hệ xấu và bản thân nội dung các
mơn học cũng góp phần nâng cao nhận thức giúp các em tự điều chỉnh mình.
Tóm lại, kinh nghiệm thành cơng của thầy cơ giáo trong việc giáo dục đạo

đức cho học sinh trước hết là phải nghiên cứu, nắm chắc nguyên nhân và đặc điểm
tâm sinh lí, khả năng của từng học sinh. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch phù hợp
và tổ chức được các lực lượng giáo dục thống nhất tác động. Trong các lực lượng
giáo dục đó, phải chú ý đúng mức đến sức mạnh đồng bộ của tập thể thầy cơ giáo,
tập thể học sinh và gia đình học sinh. Phương pháp giáo dục đúng và thích hợp
từng học sinh cũng là một yếu tố quan trọng đảm bảo thành cơng đối với học sinh
yếu đạo đức cịn địi hỏi cao ở nhiều người thầy, cô giáo về mặt uy tín, về thái độ
nhiệt tình, về tính kiên trì, lịng độ lượng, bao dung. Đó cũng là những phẩm chất
làm nên sức mạnh giáo dục đạo đức đối với học sinh có hành vi đạo đức chưa
đúng. Nguyện vọng thiết tha của đông đảo thầy cô giáo là được hướng dẫn, cung
cấp những kinh nghiệm để giáo dục tốt phẩm chất đạo đức cho học sinh. Đó cũng
chính là yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu, tìm ra những giải pháp giáo dục mới, cụ
thể, có hiệu quả cao đổi với học sinh yếu về đạo đức.
Phần III: KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN CHUNG
Từ chiều sâu lịch sử, dân tộc Việt Nam sớm hình thành một nền đạo đức và
ln có ý thức tu dưỡng, giữ gìn truyền thống đạo đức của dân tộc; luôn xem đạo
đức cách mạng là phẩm chất đầu tiên, là cái gốc của mỗi con người. Bác Hồ đã
dạy: “Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” và Bác hồ cũng chỉ rằng: “Hiền dữ phải đâu
là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Từ thực tiễn, xây dựng, bảo vệ đất
nước, từ những ý kiến chỉ dạy của Bác Hồ cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế
21


hệ trẻ nói chung, cho học sinh bậc Tiểu học nói riêng và đặc biệt là học sinh lớp 1
là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của mỗi tổ chức xã hội, mọi
người, mọi gia đình, đồng thời trách nhiệm nặng nề của ngành giáo dục và đào tạo
trong đó, vai trị của các trường học rất quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh
bậc Tiểu học thông qua các hoạt động tập thể, thơng qua sự phối hợp với gia đình,

nhà trường và xã hội góp phần khơng nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm
chất đạo đức cho học sinh. Để hoạt động này có hiệu quả, người giáo viên Tiểu học
có thể kết hợp nhiều phương pháp, nhiều biện pháp giáo dục. Vì có điều kiện
thường xun tiếp xúc với các em, người giáo viên Tiểu học có cơ hội hiểu biết đầy
đủ đặc điểm tâm lí, sinh lí của học sinh, theo dõi được sự phát triển của từng em để
có biện pháp giáo dục phù hợp.
Để thực hiện được nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học, người
giáo viên cần:
- Góp phần vào việc xây dựng một bầu khơng khí lành mạnh (đầy lịng
thương u, tin cậy, an toàn) trong trường và lớp.
- Hiểu về đặc điểm phát triển của trẻ, lựa chọn biện pháp giáo dục với cả lớp
và từng học sinh.
- Tiến hành giáo dục đạo đức thơng qua những tình huống cụ thể. Hết sức
tránh lí thuyết và hơ hào, trừ những trường hợp đặc biệt.
- Tổ chức việc giáo dục đạo đức thơng qua các hoạt động ngồi lớp và ngồi
giờ, kết hợp chặt chẽ với giáo dục ở lớp.
- Sử dụng một cách thận trọng các biện pháp giáo dục đạo đức trực tiếp, vì
mỗi phương pháp giáo dục đều có hạn chế riêng của nó.
- Khi dạy bất kì mơn học nào, người giáo viên đều làm nhiệm vụ giáo dục giá
trị đạo đức. Cần làm cho học sinh hiểu môn học trong tổng thể; nội dung thông tin,
phương pháp, những giá trị có trong đó.
- Người giáo viên có tác dụng giáo dục bằng toàn bộ nhân cách của mình.
Trẻ em nhìn người giáo viên một cách tổng quát, vì vậy, người giáo viên cần khơng
ngừng tu dưỡng đạo đức. “Tấm gương bao giờ cũng có giá trị hơn lời giáo huấn”
điều này nhắc nhở rằng người giáo viên cần phải trung thực, thẳng thắn trong cách
đối xử với học sinh. Nếu người giáo viên yêu môn học nào, học sinh cũng u mơn
học đó; Nếu người giáo viên quan tâm bảo vệ môi trường, học sinh cũng sẽ quan
tâm đến điều đó; Nếu người giáo viên làm việc và sinh hoạt đúng giờ, cẩn thận, có
tinh thần trách nhiệm, học sinh sẽ cố gắng được như vậy. Chúng ta luôn luôn lưu ý
rằng giáo dục đạo đức không chỉ dừng ở việc hình thành thói quen, mà điều chủ

yếu là phải từ việc luyện thói quen hành vi đạo đức mà xây dựng được niềm tin đạo
đức, làm cơ sở cho ứng xử thường xuyên của các em.
22


Trong bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay, khi giáo dục đào tạo trở thành quốc
sách hàng đầu, bậc Tiểu học trở thành bậc nền tảng, cần nhanh chóng được phổ cập
và nâng cao chất lượng, góp phần tích cực đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một trong những mục tiêu cơ bản trong
chiến lược giáo dục đào tạo là phát triển nhân cách nguồn nhân lực. Nhân cách đó
phải định hướng đúng đắn ngay từ bậc giáo dục Tiểu học. Các nhà quản lí giáo dục
nắm chắc mục tiêu này để có kế hoạch, biện pháp trong q trình tổ chức thực hiện
các hoạt động giáo dục để hình thành nhân cách và giáo dục đạo đức cho học sinh
Tiểu học. Trong công cuộc đổi mới vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học
được đặt ra với yêu cầu bức thiết:
- Cần đảm bảo cư xử với học sinh như một chỉnh thể, một nhân cách đang
hình thành. Nhà trường cần giáo dục tồn diện, thực hiện tốt các tiêu chuẩn quốc
gia đối với một trường Tiểu học. Cần đảm bảo sự bình đẳng cho học sinh để hình
thành và phát triển hành vi đạo đức, quan tâm đặc biệt đến những học sinh đang
gặp những khó khăn bất lợi. Cần có những định hướng đúng đắn cho sự hình thành
và phát triển hành vi đạo đức tiếp theo của học sinh sau bậc Tiểu học.
- Tổ chức ngày hội truyền thống với nhiều hoạt động phong phú thu hút
100% học sinh tham gia. Tổ chức tốt việc thực hiện các chủ điểm giáo dục học sinh
theo từng khối lớp nhằm rèn luyện nếp sống đạo đức cho các em.
- Tạo điều kiện cho Đội Thiếu niên tiền phong tổ chức các hoạt động tập thể
(chào cờ đầu tuần, múa hát tập thể, các hoạt động ngồi giờ lên lớp…). Làm tốt
cơng tác giáo dục ý thức tiết kiệm, lòng từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ
nguồn…
- Giáo viên tự rèn luyện phong cách đạo đức, gương mẫu trước học sinh,
phải là tấm gương sáng về mọi mặt để học sinh noi theo. Giảng dạy tốt các tiết Đạo

đức theo hướng tích cực. Tăng cường giáo dục tình cảm, kết hợp chặt chẽ giữa gia
đình, nhà trường, xã hội để có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm nền tảng cho việc
giáo dục đạo đức cho học sinh.
Với những yêu cầu trên, nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội cần nhận
thức đầy đủ và có trách nhiệm cùng với các nhà quản lí giáo dục tiến hành các hoạt
động giáo dục thiết thực nhằm phát triển năng lực toàn diện cho học sinh.
II. ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Để học sinh có những kĩ năng, hành vi đạo đức chuẩn mực, tôi xin đưa ra
một vài ý kiến đề xuất như sau:
Đối với cha mẹ học sinh

23


Quan tâm, chăm sóc, dạy bảo con cái trong tất cả các lĩnh vực. Cha mẹ phải
là tấm gương sáng về mọi mặt cho con cái noi theo. Tạo điều kiện cho con được
học tập và rèn luyện.
Kết hợp thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm lớp, với nhà trường để dạy
bảo con em mình.
Đối với chính quyền địa phương
Ln luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp đỡ về vật chất, tinh thần cho các
em học sinh.
Đối với lãnh đạo nhà trường
* Về tổ chức
Tổ chức thêm nhiều chương trình ngoại khóa vào những ngày chủ điểm, kỉ
niệm những sự kiện lịch sử để học sinh của tất cả các khối lớp có điều kiện tiếp
xúc, học hỏi và rút ra nhiều bài học quý giá.
Tổ chức thêm nhiều phong trào trồng cây xanh có quy mơ phù hợp với năng
lực của học sinh trong khuôn viên nhà trường và mở rộng ra những nơi công cộng.
Nhà trường tổ chức những buổi chiếu phim cổ tích, lịch sử góp phần tác động

vào trực quan và nhận thức của học sinh.
* Về vật chất
Hiện nay, cơ sở vật chất của nhà trường đã tương đối đầy đủ. Nhưng hi vọng
trong tương lai sẽ hỗ trợ thêm máy chiếu ở tất cả các lớp để hỗ trợ cho công tác
giảng dạy trở nên sinh động, hiệu quả.
Trên đây là một số giải pháp tôi đưa ra để rèn kĩ năng, hành vi đạo đức cho
học sinh lớp 1. Rất mong các đồng chí, đồng nghiệp, Hội đồng Khoa học trường
đóng góp, bổ sung ý kiến tích cực để cho sáng kiến kinh nghiệm thêm hoàn thiện
và nhất là phát huy được tác dụng nâng cao kĩ năng, hành vi đạo đức cho học sinh./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hải, ngày 26 tháng 3 năm 2016
Người viết

Lương Thị Chinh

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đạo đức và phương pháp dạy học đạo đức ở trường Tiểu học - Nguyễn Sinh
Huy.
2. Tâm lí học Tiểu học - Bùi Văn Huệ - Đại học Sư phạm I Hà Nội.
3. Một số vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh - Đặng Vũ Hoạt - Viện
nghiên cứu khoa học giáo dục.
4. Vấn đề giáo dục - Hồ Chí Minh - Giáo dục học 1990.
5. Nghiên cứu giáo dục - Tạp chí giáo dục.
6. Tâm lí giáo dục học sinh Tiểu học - Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội 1998.
7. Phát triển nhân cách học sinh Tiểu học - Ma Văn Hiệp - Trung tâm giáo
dục thường xuyên tỉnh Thái Nguyên 1998.
8. Một số phương pháp tiếp cận giáo dục đạo đức. NXB giáo dục Hà Nội

1999.
9. Chương trình tiểu học năm 2000. Bộ giáo dục và đào tạo.
10. Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 giáo dục Tiểu học.
11. Tạp chí giáo dục số 85 năm 2004. Bộ giáo dục và đào tạo.
12. Trang www.moet.gov.vn của Bộ giáo dục và đào tạo.

MỤC LỤC
TT

Mục lục

Trang
25


×