Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

(TIỂU LUẬN) môn lịch sử tư tưởng chính trị đề tài tư tưởng chính trị nho gia sơ kỳ sự du nhập và tác động đến đời sống chính trị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.99 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN

Mơn: Lịch sử tư tưởng chính trị

ĐỀ TÀI:
Tư tưởng chính trị Nho gia sơ kỳ- Sự du nhập và
tác động đến đời sống chính trị Việt Nam

Học viên: Bùi Việt Hà
Mã sinh viên: 1955380022
Lớp tín chỉ: CT03062


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội lớn của Trung Quốc, ra đời từ rất sớm
trong điều kiện nhà Chu đang bị suy yếu về địa vị kinh tế và vai trị chính trị. Với
chủ trương xây dựng đất nước thái bình thịnh trị theo khn mẫu của vua Nghiêu,
vua Thuấn, tư tưởng trị quốc là một trong những nội dung chủ chốt của học
thuyết chính trị - xã hội Nho giáo.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ những năm đầu cơng ngun trong q
trình đơ hộ của chính quyền phương Bắc. Khi mới truyền vào Việt Nam, mặc dù
lúc đầu sự thâm nhập và ảnh hưởng của nó có phần khó khăn hơn so với các học
thuyết khác như Phật giáo và Đạo giáo. Nhưng, trong quá trình phát triển của lịch
sử, nó đã từng bước chiếm ưu thế và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt, nhiều
lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và con người Việt Nam, góp phần vào việc
hình thành các giá trị truyền thống của dân tộc. Từ thời Lê, Nho giáo trở thành hệ
tư tưởng chính thống, ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần, tư tưởng ở
nước ta. Lúc ấy, nó đã trở thành cơng cụ phục vụ đắc lực để trị nước, tổ chức nhà
nước và quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Nho giáo bàn nhiều về vấn đề trị quốc. Tư tưởng trị quốc được ghi lại rõ ràng,


khá nhiều trong các kinh điển Nho giáo. Các di sản tư tưởng ấy khơng những
khơng xa lạ, mà cịn gần gũi với văn hóa và con người Việt Nam trong lịch sử. Nó
khơng chỉ ảnh hưởng đến xã hội và con người Việt Nam trong quá khứ mà cả trong
giai đoạn hiện nay, dù Nho giáo khơng cịn giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị.
Trong nội dung tư tưởng trị quốc của Nho giáo, bên cạnh những giá trị và những
yếu tố có tính hợp lý nhất định thì những hạn chế có tính lịch sử của nó là điều
khơng tránh khỏi. Vì thế, ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội nói chung, đến
q trình xây dựng, hồn thiện nhà nước hiện nay nói riêng là sự ảnh hưởng mang
tính hai mặt mà chúng ta phải tính đến.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hướng đến mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng văn minh", địi hỏi phải xem xét


ảnh hưởng của những tư tưởng, lý thuyết chính trị xã hội trong lịch sử, bởi chúng
có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến q trình ấy. Trong số đó, tư tưởng trị
quốc Nho giáo có ảnh hưởng sâu đậm đến con người Việt Nam và đến xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Ảnh hưởng mang tính
hai mặt của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là do nhiều nguyên nhân khác nhau, chừng nào
những nguyên nhân ấy cịn thì tư tưởng trị quốc Nho giáo sẽ cịn ảnh hưởng ở
những mức độ nhất định. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc
Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay, từ đó tìm ra nguyên nhân, có phương hướng và giải pháp phù hợp để phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó là vấn đề mang ý nghĩa
thực tiễn rõ rệt.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, em chọn vấn đề “ Tư tưởng
chính trị Nho gia sơ kỳ - Sự du nhập và tác động đến đời sống chính trị Việt Nam”
làm đề tài tiểu luận của mình.

2.

Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:

Làm rõ nội dung chủ yếu của tư tưởng trị quốc Nho giáo; phân tích thực trạng
ảnh hưởng và nguyên nhân, đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tiểu luận khái quát làm rõ nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển và những tư
tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo.
- Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam cùng những ảnh hưởng của tư tưởng
chính trị Nho giáo với đời sống chính trị Việt Nam.
- Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của Nho giáo với đời sống chính trị Việt
Nam, tiểu luận xây dựng những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao những ảnh
hưởng tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của Nho giáo.
3. Đối tượng nghiên cứu


Những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó ở Việt
Nam.
4.

Kết cấu đề tài

Gồm 3 chương:
Chương 1: Tư tưởng chính trị nho gia
Chương 2: Ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời sống chính trị ở
Việt Nam - Thực trạng và nguyên nhân

Chương 3: Phương pháp và giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời sống chính trị Việt Nam

Kết luận và Tài liệu tham khảo


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO
1. Cơ sở hình thành tư tưởng chính trị Nho giáo
1.1.
Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
Về kinh tế, đồ sắt thời kỳ này được sử dụng phổ biến, nghề luyện sắt, chế tạo
công cụ lao động bằng sắt phát triển. Cùng với việc chế tạo và sử dụng công cụ lao
động bằng sắt, người Trung Quốc thời kỳ này còn biết sử dụng sức kéo của súc
vật, biết dùng súc vật làm công cụ lao động trong sản xuất nông nghiệp. Mặt khác,
họ còn chú trọng làm thủy lợi phục vụ cho cấy trồng, sản xuất ra của cải vật chất.
Về chính trị, xã hội, thời Xuân Thu - Chiến quốc trên đất nước Trung Quốc cổ
đại cũng có nhiều biến cố, sự kiện trọng đại. Nhà Chu trong khoảng 4 thế kỷ, từ
thế kỷ XI trước công nguyên đến năm 771 trước cơng ngun đóng đơ ở phía Tây
là thời kỳ cường thịnh. Đến thời Đơng Chu thì ngày càng suy yếu. Ngược lại, một
số nước chư hầu của nhà Chu trước đây vốn nhỏ yếu buộc phải thần phục, triều
cống nhà Chu, thì nay ngày một lớn mạnh, họ tiến hành chiến tranh nhằm giành
quyền làm bá chủ.
Tóm lại, những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ này cho
thấy, trật tự xã hội được tổ chức theo mơ hình thể chế nhà Chu đã lỗi thời, mất sức
sống, khơng thích ứng nổi trước những diễn biến phức tạp của lịch sử. Trước thực
tế đó, nhiều trào lưu tư tưởng đương thời hướng đến việc lý giải nguyên nhân trật
tự xã hội rối loạn, từ đó tìm kiếm mơ hình xã hội lý tưởng và con đường ổn định
trật tự xã hội đương thời. Tư tưởng chính trị Nho giáo ra đời trong bối cảnh lịch sử

đầy biến động đó.
1.2.

Những tiền đề văn hóa, tư tưởng

Không một học thuyết nào ra đời từ hư vơ mà bao giờ cũng mang tính kế thừa
trong sự hình thành, phát triển. Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị Nho giáo nói
riêng cũng khơng ngoại lệ. Sự ra đời của Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị Nho
giáo nói riêng cịn trên cơ sở kế thừa những tư tưởng về chính trị, đạo đức, tơn giáo
trong lịch sử tư tưởng trước đó, nhất là những tư tưởng này ở thời Chu.


Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị Nho giáo nói riêng ra đời trên cơ sở tiếp
thu những tư tưởng về đạo đức, chính trị, tơn giáo đã có trước nó để giải đáp những
vấn đề mà thực tiễn xã hội đang đặt ra. Mặt khác, sau khi ra đời, Nho giáo có q
trình tồn tại và phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và gắn với chế độ xã
hội phong kiến đang trong quá trình hình thành, phát triển. Vì thế, nội dung của
học thuyết ấy cũng có sự đổi thay, bổ sung, thêm bớt trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ
thể.
2. Tư tưởng chính trị Nho giáo Trung Quốc
2.1. Quan niệm của Nho giáo về “gia”, “quốc” và “trị quốc”
Trong quan niệm của các nhà nho, gia (nhà), quốc (nước) và thiên hạ là những
loại hình đồng dạng, giống nhau về bản thể và tính chất, chỉ khác về phạm vi và
qui mơ lớn nhỏ. Nước là sự mở rộng qui mô của nhà, thiên hạ là sự mở rộng về
qui mô của nước. Điều đó đã được Mạnh Tử khái quát: "Thiên hạ gốc ở nước,
nước gốc ở nhà" (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia – Mạnh Tử, Ly
lâu, thượng). Do đó, muốn bình thiên hạ phải trị được quốc, muốn trị được quốc
trước hết phải yên được nhà.
Nho giáo bàn về nước nhưng khơng bàn từ góc độ sản xuất vật chất mà chủ
yếu bàn từ góc độ chính trị, đứng trên phương diện đạo đức, chính trị để nhìn

nhận, phán xét. Vì thế, về thực chất, nó chủ yếu quan tâm đến vấn đề trị quốc, cố
gắng đi tìm con đường, cách thức cai trị đất nước và đào tạo chủ thể làm nhiệm vụ
đó nhằm hướng đến mục tiêu là xây dựng một mơ hình xã hội lý tưởng. Điều đó
được thể hiện khá rõ trong ba cương lĩnh và bát điều mục của sách Đại học, một
tác phẩm quan trọng cấu thành bộ Tứ thư của Nho giáo. “Trị quốc”, theo Nho
giáo, là làm cho đất nước yên ổn, an bình. Đấy là quan niệm, đồng thời là chủ
trương của Nho giáo. Muốn trị quốc được thì trước đó phải tề gia, tức là sửa sang,
chỉnh đốn việc nhà. Nho giáo lý giải tiếp: muốn tề gia thì phải tu thân, tức là sửa
mình thành người tốt.
2.2.

Mục tiêu chính trị trong quan niệm của Nho giáo

Mục tiêu cao nhất của Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị Nho giáo nói
riêng là nhằm tìm kiếm mơ hình xã hội lý tưởng để thay thế cục diện đương
thời. Mơ hình xã hội lý tưởng với tư cách là mục tiêu chính trị của Nho giáo
mang những nét đặc trưng cơ bản sau:


Một là, xã hội ổn định, có trật tự tơn ti theo đúng chuẩn mực của từng mối
quan hệ.
Hai là, xã hội lý tưởng phải đảm bảo cho con người có đời sống vật chất
tương đối đầy đủ, thực hiện nguyên tắc phân phối quân bình.
Ba là, xã hội lý tưởng phải là xã hội có đạo đức, coi trọng giáo dục đạo đức
cho mọi người.
2.3. Đường lối chính trị của Nho giáo
Để thực hiện mục tiêu chính trị là hướng đến xây dựng một mơ hình xã hội
lý tưởng với những đặc trưng cơ bản nêu trên, Nho giáo đề xuất con đường để
thực hiện mục tiêu đó với những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, muốn trị được nước, trước hết những chủ thể trị quốc, những con

người tham gia chính sự phải tu được thân và tề được gia để làm gương
cho dân chúng
Thứ hai, dùng đức để trị quốc kết hợp với sử dụng pháp luật và hình phạt khi
cần thiết
Thứ ba, phải dưỡng dân, giáo dân và làm cho dân tin.
Vậy là, theo các đại biểu sáng lập Nho giáo, trong việc trị quốc, quản lý chính
sự quốc gia phải chú trọng ni dưỡng dân, làm cho dân giàu lên, mở mang trí tuệ,
trở nên có văn hóa, văn minh, và phải làm cho dân tin tưởng vào người có vai trị
cầm quyền trị quốc.
3. Tư tưởng chính trị của Nho giáo Việt Nam
3.1. Vài nét về sự du nhập tư tưởng chính trị Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo du nhập vào Việt Nam ở thời Bắc thuộc qua ba thời kì như nhau:
111 trước công nguyên – 39: các đời Tây Hán và Đông Hán.
43 – 544: các đời Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều.
603 – 939: các đời Tùy Đường, Ngũ Quý.
Mười thế kỉ đầu công nguyên Nho giáo du nhập vào Việt Nam nhưng chưa
thịnh, chưa hình thành tầng lớp nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội
Thành phần trí thức lúc bấy giờ là những nhà tu, đặt biệt là các cao tăng. Thông
qua việc học chữ nho để đọc kinh phật, các sư tiếp thu luôn nho học. Thế nên khi


đất nước vừa độc lập, kể từ (839- 965), Đinh (968- 979), Lê (980- 1009) trí thức tài
ra giúp triều đình là các đạo sĩ và thiền sư. Một số thiền sư có cơng dạy các tục gia
đệ tử trở thành nhân tài đất nước như sư Khánh Vân và sư Vạn Hạnh lần lượt là
thầy dạy Lý Công Uốn…
Nho học Việt Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang đời Nguyễn thì suy. Nho học
mở đường xuất thân cho kẻ sĩ thơng qua khoa cử nhờ đó thúc đẩy văn học phát
triển, văn hóa được nâng cao. Khơng ít tiền nho Việt Nam là tác giả, đi sâu vào
triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên, sách vở bị cướp, đốt mất quá nhiều, tư
tưởng học thuật của nho gia Việt Nam hầu như khơng cịn lưu lại gì cho đời sau

nghiên cứu. Nói đến nho giáo Việt Nam cái nổi bật không phải là tư tưởng triết
học, mà lại là văn chương, khoa cử, và vai trị chính trị của sĩ tử trong lịch sử.

Nho học Việt Nam qua các triều đại
Đời Lý (1010 – 1225)
Nho học mới hưng phát. Vua Lý Thánh Tông cho lập văn miếu, làm tượng thờ
Chu công, Khổng Tử, bảy mươi hai tiên hiền. Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu
tiền tên là Tam Trường, Lê Văn Thịnh đậu thủ khoa, mở quốc tử giám, lập hàn lâm
viện, tuyển Mạc Hiến Tích làm hàn lâm học sĩ.
Đời Trần
Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh, khoa tam giáo và mở khoa tam
khôi tuyển trạng nguyên, bảng nhãn, thàm hoa. Khoa ấy Lê Văn Hưu đổ bảng
nhãn, là sử gia Việt Nam đầu tiên, tác giả Đại Việt sử kí. Vua cịn mở quốc học
viện giảng Tử thư, Ngũ kinh.
Văn học đời Trần rất thịnh, nhờ khoa cứ thúc đẩy. Có rất nhiều tác phẩm văn
học thời kì này có giá trị lịch sử để lại cho thế hệ sau. Danh nho có Mạc Đĩnh
Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An…
Đời Hồ (1400- 1407), hậu Trần (1470- 1413), Minh thuộc (1414- 1427)
Lê Quý Ly thay nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Nước loạn, qn Minh xâm lăng,
cướp nước, những gì khơng đem được thì đốt, thiệt hại khơng kể xiết. Nhà Minh
đưa Tống Nho vào Việt Nam.


Đời Hậu Lê (1428- 1788)
Nho học rất được chú trọng, được tơn là quốc học. Khoa cử thúc đẩy, hình
thành tầng lớp nho sĩ trí thức đơng đảo. Kinh đơ có quốc tử giám, thái học viện.
Vua Lê Thánh Tơng chia nước làm mười ba đạo, hầu hết các đạo ở đồng bằng đều
lập trường công, ấn định quy chế thi cử. Năm 1463 có chừng 1400 người thi Hội ở
Thăng Long, năm 1475 tăng lên khoảng 3000 thí sinh. Từ triều Lê, người thi đậu
rất vẻ vang: có lễ xứng danh, lễ vinh quy, lễ khắc tên tiến sĩ vào bia đá ở Văn

Miếu.
nước ta, nho giáo có lịch sử lâu đời. từ khi bị xâm lược và sát nhập vào Trung
Quốc, từ đời Hán, nho giáo đã du nhập vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp được coi là An
nam học tổ. Người mở đầu cho nho học ở nước ta. Ngay từ sau chiến thắng Bạch
Đằng ở thế kỉ thứ X việc xây dựng mội nhà nước phong kiến trung ương tập trung
đã tỏ ra cần thiết đối với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy
nhiên dưới thời các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ
thể mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải
đợi đến thế kỉ XI với sự xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập
quyền mới được xây dựng một cách quy mô bề thế, với các tổ chức chặt chẽ và
quy mô của nó. Đến thế kỷ XV, sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh (1428) nhà
nước Lê đã dành chon ho giáo vị trí độc tơn và nó trở thành học thuyết chính thống
của nhà nước vào thời Lê Thành Tơng, nó đạt đến mức tồn thịnh. Từ thế kỉ XV
đến thế kỉ XX nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo,chi phối ảnh hưởng của nho giáo,
do thực tế lịch sử rất lớn. Nhưng nói chung nho giáo có ảnh hưởng đến nước ta về
rất nhiều mặt có cả tích cực và hạn chế.


Những ảnh hưởng của nho giáo cả về chiều hướng tích cực lẫn hạn chế tác động
như thế nào đến xã hội Việt Nam hiện nay? Để tìm hiểu vấn đề đó ta đi tìm hiểu
những giá trị tích cực và hạn chế của nho giáo và ảnh hưởng của nó vào Việt Nam
hiện nay.
3.2.

Một số nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị trong Nho giáo Việt Nam

Một là, quốc gia độc lập, thái bình, giàu mạnh, trường tồn là mục tiêu chính trị
mà các đại biểu Nho giáo Việt Nam hướng tới. Điều đó được thể hiện qua những
áng thơ văn bất hủ, để lại ấn tượng sâu sắc cho muôn đời sau.



Hai là, về đường lối chính trị trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam.
Ba là, về chủ thể chính trị trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu về quá trình du nhập, nội dung của tư tưởng chính trị
trong Nho giáo Việt Nam, có thể rút ra một số nhận định khái quát sau:
Một là, Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị Nho giáo nói riêng du nhập Việt
Nam những năm đầu công nguyên không phải theo con đường giao lưu văn hóa
bình thường mà có phần mang tính cưỡng bức bởi nó gắn với sự xâm lược của đội
quân viễn chinh phương Bắc. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ xây dựng quốc gia
phong kiến độc lập, tự chủ, tư tưởng chính trị Nho giáo đáp ứng được những đòi
hỏi nhất định của q trình ấy nên nó được các triều đại phong kiến Việt Nam chủ
động tiếp thu, sử dụng.
Hai là, khi vào Việt Nam, Nho giáo cùng các nội dung của nó, trong đó có tư
tưởng chính trị khơng cịn nguyên dạng lúc ban đầu của Nho giáo tiên Tần mà đã
được nhào nặn qua thời Hán, Tống. Hơn nữa, dưới sự tác động của nhiều nhân tố
khác nhau mà khi du nhập Việt Nam, nó cũng có sự biến đổi để có thể thích nghi
và tồn tại trên mảnh đất mới, với những điều kiện, hoàn cảnh mới. Những nội dung
của tư tưởng chính trị trong quan niệm của các nhà nho Việt Nam tuy không phải
là sự đoạn tuyệt, khơng liên quan gì tới Nho giáo Trung Quốc, nhưng cũng không
phải chỉ là sự tán dương, sao chép máy móc. Do yêu cầu của đất nước trong mỗi
giai đoạn lịch sử cụ thể mà nó được tiếp nhận, vận dụng và đồng thời được bổ sung
thêm bằng tổng kết thực tiễn đất nước cũng như truyền thống văn hóa của người
dân bản địa. Chính điều đó tạo nên những nét khác biệt trong tư tưởng chính trị
của Nho giáo Việt Nam:
Thứ nhất, quan niệm về xã hội lý tưởng trong mục tiêu chính trị Nho giáo vẫn là cơ
sở, đóng vai trị định hướng cho mục tiêu chính trị của Nho giáo Việt Nam qua các
giai đoạn của thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ, song do lịch sử của
dân tộc ta là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước nên vấn đề xây dựng quốc gia
độc lập, thống nhất, ngang hàng với quốc gia phương Bắc, khẳng định quyền tự
chủ dân tộc là điều mà các triều đại cũng như các nhà nho Việt Nam yêu nước

mong mỏi.


Thứ hai, cũng chủ trương trị quốc bằng đường lối đức trị, lấy các chuẩn mực đạo
đức để cai trị xã hội, song trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam, những chuẩn
mực và qui phạm đạo đức như nhân, nghĩa, trung, hiếu... đã được bổ sung bằng
các yếu tố của văn hóa truyền thống dân tộc nên nó gần gũi với người dân hơn, ít
khắt khe và khắc nghiệt hơn so với những qui phạm đạo đức của Nho giáo thời
Hán, Tống. Những nội dung của tư tưởng chính trị Nho giáo cũng là chỗ dựa và là
cơ sở cho việc xây dựng chính sách khoa cử đào tạo nhân tài và chế định pháp luật
nhằm củng cố ngôi vua, ổn định trật tự xã hội. Các bộ luật dưới chế độ phong kiến
Việt Nam suy cho cùng vẫn là sự thể hiện ý chí và là cơng cụ của giai cấp phong
kiến thống trị, duy trì và bảo vệ các quan hệ xã hội theo những chuẩn mực Nho
giáo, nhưng do ảnh hưởng của những yếu tố truyền thống dân tộc mà phần nào bớt
đi tính chất khắc nghiệt so với luật pháp Trung Hoa thời phong kiến.
Thứ ba, những yêu cầu về phẩm chất của người cầm quyền trong quan niệm của
các nhà nho Việt Nam qua các thời kỳ mặc dù cũng dựa trên các chuẩn mực và yêu
cầu của Nho giáo, song nó gắn với những yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong
những giai đoạn lịch sử nhất định. Những người cầm quyền gần dân, vì dân, biết
đặt quyền lợi của đất nước, của dân tộc lên trên hết, hy sinh vì độc lập dân tộc và
sự tồn vong của giống nòi người Việt luôn được sử sách ngợi ca và nhân dân tôn
thờ, tưởng nhớ.


Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
2. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa. Quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân của Đảng ngày càng được thể hiện rõ qua các Văn
kiện Đại hội thời kỳ đổi mới. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần
được xây dựng, đó là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định bởi những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước phát triển tiến bộ, cao
nhất của các kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nó là nhà nước ưu việt, tiến
bộ nhất trong lịch sử nhân loại.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, bảo đảm tính tối thượng của pháp luật, địi hỏi mọi người dân trong xã
hội từ người đứng đầu nhà nước đến dân thường cùng phải chấp hành pháp luật,
cùng bình đẳng trước pháp luật không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, đảng
phái, giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thứ ba, lãnh đạo nhà nước này là Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công nhân
đại diện cho quyền lợi chính đáng của tồn dân tộc, bao gồm những con người ưu
tú, tiên tiến nhất trong lực lượng tiên tiến, cách mạng của cả nước.
Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có khả năng đồn kết, tập hợp
được toàn bộ dân tộc thành một khối vững chắc để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, sự tồn tại của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khơng nhằm mục
đích duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của nhà nước, mà đó chỉ là bước quá độ để đi đến
xóa bỏ giai cấp, nhà nước, làm cho xã hội tiến lên giai đoạn tiến bộ, văn minh.


2.1. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời sống
chính trị ở Việt Nam
2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực
Nho giáo xây dựng nền chính trị vì dân: Có thể nói Đức trị là một học thuyết
chính trị - đạo đức đầu tiên đặt vấn đề con người, làm cơ sở cho tư tưởng chính

trị. Vận dụng xây dựng nền chính trị vì dân là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt qua
trình lãnh đạo và cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến: do đất nước
phải chống lại giặc ngoại xâm hung bạo, nên Nguyễn Trại đã lấy phạm trù Nhân Nghĩa làm nền tảng, cơ sở để xây dựng nên những quan hệ đạo đức, nhằm ổn định
trật tự xã hội.
Nhân của Nguyễn Trãi là “ Khử bạo cho dân ”, ở ông Nhân không phải là thứ đạo
đức chung chung trừu tượng mà chính là yêu nước, nhân đạo. Cứu nước trước hết
phải cứu dân, đó là tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Ơng nói: “ Việc nhân
nghĩa cốt ở n dân”. “Đại đức thính cho người ta sống, thần vũ khơng hay giết
người, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để yên dân”. “ Quân của vương giả
chỉ có dẹp yên mà không đánh chém”. hay:
“…Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo…”
Đến khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ chí Minh đã căn dặn
cán bộ: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền
hạn đều của dân, chính quyền từ Xã đến Trung ương đều do dân cử ra…, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Trong suốt 64 năm qua nhà nước ta cho thấy, nhà nước đã phát triển từ hình thức
thấp đến cao, từ nhà nước dân chủ tiến dần lên chủ nghĩa nhà nước kiểu mới xã hội
chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân . Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đã khẳng định: “ Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
lấy dân làm gốc”, “ Mọi chủ trương, chính sách của đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình
hưởng ứng của quần chúng”


Tuy nhiên bên cạch những thành tựu đã đạt được của Đảng và nhà nước ta trong
việc áp dụng tư tưởng Chính trị của Nho giáo về việc xây dựng và bảo vệ đất nước
xã hội chủ Nghĩa thì nó cũng có nhiều tiêu cực và hạn chế.
2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
Trong quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà Nước pháp

quyền là thành tựu chung của nhân loại, đó là phương tiện để giúp cho con người
vươn tới nhứng giá trị mới cao hơn, tốt đẹp hơn. Đối với nước ta, xây dựng nhà
nước pháp quyền thực chất là hình thức hồn thiện nhà nước. Quan điểm đổi mới
của nhà nước khẳng định tại hội nghị đại biểu tồn quốc khóa VII (1994) và hội
nghị thứ 8 khóa VII (1995).
nước ta, cách mạng tháng tám đã xóa bỏ chính quyền phong kiến đồng thời
xóa bỏ những tàn dư của tư tưởng đức trị, thy vào đó là đạo đức cách mạng và
pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên tư tưởng đạo đức mới không dễ
đi vào mọi mặt của đời sống xã hội. Tư tưởng đức trị đã ăn sâu vào tiềm thức của
nhân dân Việt Nam, là sự cản trở cho quá trình xây dựng và phát triển nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Ảnh hưởng của tư tưởng đức trị của Nho giáo, ở nhiều nơi, nhân dân vẫn chỉ
quen sống theo lối đạo đức riêng của Làng, dịng họ nó đã trở thành tập quán
mà không sống theo quy định của pháp luật.
Vốn con người Việt Nam ln coi trọng tình cảm hơn là pháp luật. Cái tình lấn
áp cái Lý làm cho các công việc khi thực hiện không phát huy được hiệu quả, nó
cịn gây ảnh hưởng đến q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Làm cho trì trệ trong nhận thức, tình trạng lịnh bợm cấp trên, dùng những lời
nói mật ngọt làm cho cấp trên không nhận ra được những khuyết điểm, sai lầm của
mình.
Tập quán “Phép vua thua lệ làng” là một tư tưởng ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình xây dượng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, chi phối suy nghĩ
và hành động của cán bộ, nhân dân các địa phương, cơ sở sẽ dẫn đến tình trạng coi
thường kỷ cương, phép nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
việc hình thành các điểm nóng ở một số tỉnh, địa phương mà tiêu biểu là: Hà Tây,


Hải Dương, Thái Bình…trong những thời gian vừa qua. Làm cho trật tự, kỷ cương

nền nếp bị rối loạn.
Nước ta đã nhiều lần cải cách bộ máy nhà nước và đã có sự gọn nhẹ hơn, hiệu
quả hơn. Tuy nhiên xét một cách tổng thể thì bộ máy nước ta vẫn cịn cồng kềnh,
vẫn cịn tình trạng tham ơ, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, xa rời thực tế. Để việc
quản lý thơng suốt, có hiệu quả địi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên của bộ máy quản lý
phải có những quyền hạn nhất định. Những quyền hạn này không nằm ngồi mục
đích ổn định và phát triển xã hội, vì lợi ích của nhân dân.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công. (miền Bắc từ 1954, từ
1975 trong cả nước), dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân ta đã từng bước tiền
hành xây dựng một nền văn hóa dân chủ kiểu mới, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta cịn
là q trình khó khăn, phức tạp và lâu dài. Q trình đó địi hỏi phải tiếp tục khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong lối sống, cách nghĩ, tâm lý,
thói quen của một bộ phận không nhỏ trong các cán bộ, đảng viên và người dân.
Những người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư tưởng địa vị, là người thường tự cho
mình đứng trên tập thể, đối lập với tập thể. Vì vậy thay vì tổ chức, lãnh đạo nhân
dân thực hiện đường lối cách mạng của đảng, họ lại sử dụng theo ý đồ của họ, để
củng cố địa vị của họ. Nhân dân không được thực hiện quyền bãi nhiệm của mình
khi cán bộ nào đó mắc khuyết điểm. Đây chính là tiền đề của nạn tham nhũng.
Như vậy: Vấn đề về địa vị, đẳng cấp, tính gia trưởng chưa mất đi, trái lại nó cịn
phát triển một cách dai dẳng trong xã hội Việt Nam. Đây là điều đáng lo ngại bởi
nó khơng chỉ gây tác động xấu đến nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân
mà cịn cản trở q trình thực hiện dân chủ hóa.
2.2. Nguyên nhân ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời sống
chính trị ở Việt Nam
Ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời sống chính trị ở Việt Nam hiện
nay mang tính hai mặt như đã phân tích ở trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau
và giữa chúng có sự đan xen phức tạp, song chủ yếu là:
Thứ nhất, cơ sở kinh tế - xã hội trên đất nước ta vẫn chứa đựng những yếu tố để các
tàn dư Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị Nho giáo nói riêng có thể tồn tại



và gây ảnh hưởng. Cơ sở kinh tế xã hội cho sự xuất hiện và tồn tại của Nho giáo
với những nội dung tư tưởng trị quốc của nó là nền nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ,
manh mún. Những quan niệm về mục tiêu, con đường và chủ thể chính trị trong
cách nhìn của các nhà nho phản ánh và bị qui định bởi điều kiện kinh tế - xã hội
đó. Chúng ta chỉ có thể khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng
chính trị Nho giáo khi chúng ta xóa bỏ được cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại
của nó, và chúng ta cũng chỉ có thể phát huy được những gì là tích cực của nó khi
chúng ta tạo được những tiền đề vật chất cần thiết cho sự phát huy ấy. Nghĩa là,
chừng nào chưa làm thay đổi được căn nguyên sâu xa cho sự tồn tại và ảnh hưởng
của tư tưởng chính trị Nho giáo là nền sản xuất nơng nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, lạc
hậu thì chừng đó những tàn dư của nó chưa mất đi mà vẫn gây ảnh hưởng tiêu cực,
là vật cản trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Thứ hai, tư tưởng chính trị Nho giáo thuộc về ý thức xã hội nên nó có tính độc lập
tương đối trong sự tồn tại, vận động, biến đổi của mình. Mặc dù theo qui luật, ý
thức xã hội suy cho cùng phụ thuộc vào tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định,
song nó có tính độc lập tương đối và có qui luật vận động riêng của nó. Nghĩa là,
khơng phải cứ tồn tại xã hội, hoàn cảnh lịch sử thay đổi là mọi thứ thuộc về ý thức
xã hội đều mất đi hoặc biến đổi nhanh chóng. Do có sự tồn tại lâu dài trên đất nước
ta và giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị suốt mấy trăm năm nên Nho giáo nói
chung, tư tưởng chính trị Nho giáo nói riêng đã có ảnh hưởng khá sâu đậm đến
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ luật pháp đến tổ chức bộ máy
nhà nước phong kiến và những phong tục tập quán trong dân gian qua nhiều thế hệ
mà khơng dễ gì thay đổi.
Thứ ba, ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường trong bối cảnh tồn
cầu hóa ngày càng sâu rộng tạo mơi trường cho những tàn dư tiêu cực của tư
tưởng chính trị Nho giáo tồn tại với những biến tướng, biến dạng mới.
Thứ tư, việc kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục ý thức sống và làm theo pháp

luật chưa được quan tâm đúng mức, dân chủ chưa được phát huy đầy đủ, cơng tác
cán bộ cịn nhiều bất cập. Khi giáo dục đạo đức mới cũng như giáo dục ý thức sống
và làm theo pháp luật chưa được coi trọng và hiệu quả giáo dục chưa cao, hệ thống
pháp luật chưa hoàn thiện và được thực hiện nghiêm minh theo tinh thần "thượng
tơn pháp luật" thì tâm lý quen sống theo tập tục, lề thói cổ truyền đã từng ăn sâu


bám rễ lâu đời trong lối sống của xã hội cũ trước đây sẽ chưa bị mất đi; khi dân
chủ chưa được phát huy thì tư tưởng địa vị ngơi thứ, bất bình đẳng, vi phạm dân
chủ sẽ chưa thể được khắc phục.
Thứ năm, Nho giáo nói chung, tư tưởng chính trị trong Nho giáo nói riêng bên cạnh
những hạn chế khơng thể tránh khỏi do hồn cảnh lịch sử thì nó cịn chứa đựng những
nhân tố có giá trị và mang tính hợp lý nhất định. Những yếu tố hợp lý, có giá trị ấy đã
làm nên sức sống của nó qua hàng ngàn năm lịch sử và đến nay vẫn cho thấy ý nghĩa
của nó. Trong cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, việc kế thừa những nhân tố cịn có giá trị của q khứ vẫn là điều cần thiết
chứ khơng phải là q trình phủ định sạch trơn với tinh thần hư vơ chủ nghĩa. Tuy
nhiên, đó cũng không phải là sự phục cổ, lặp lại nguyên
xi những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội mấy ngàn năm về trước mà phải trên tinh

thần mới, gắn với thực tiễn đất nước trong bối cảnh thời đại mới.


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC,
HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.
3. Phương hướng cơ bản
3.1. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước pháp quyền và những nguyên tắc xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trước hết, phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về mặt thuật ngữ, chữ dùng thì
chưa có các khái niệm “nhà nước pháp quyền” và “nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa”. Nhưng, tìm hiểu di sản lý luận của Người, chúng ta thấy trong đó có
nhiều luận điểm, nguyên lý về nhà nước pháp quyền nói chung và về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được bổ sung,
hoàn thiện qua hơn 30 năm đổi mới.
Việc nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về nhà nước pháp quyền là điều cần thiết, bởi đây là căn cứ quan trọng, có vai trị
định hướng cho việc phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của tư tưởng chính trị Nho giáo trong q trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.2. Gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát triển những giá trị của tư tưởng trị
quốc Nho giáo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Bối cảnh lịch sử của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có sự ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị Nho giáo theo cả hai chiều hướng
tích cực và tiêu cực. Đấy là thực tại khách quan khơng ai có thể phủ nhận. Vấn đề đặt
ra là phải lọc bỏ những yếu tố tiêu cực trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo tác động
đến đời sống xã hội và tiếp thu, kế thừa, phát triển các giá trị tích cực của tư


tưởng chính trị Nho giáo nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay. Những cái là giá trị của tư tưởng chính trị Nho giáo dù sao
cũng thuộc về quá khứ, được hình thành trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
trước đây. Thời đại đã đổi thay nên những giá trị của quá khứ cũng cần phải được
thẩm định lại để lọc bỏ những gì khơng cịn phù hợp, đồng thời bổ sung và phát

triển thêm từ những yêu cầu mới của cuộc sống.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu
3.3.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với cải tạo các
phong tục, tập quán lạc hậu do ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị Nho giáo.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng
phát triển. Để xây dựng, thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tất yếu phải phát triển kinh tế thị trường bởi
đó chính là cơ sở vật chất cần thiết. Mặt khác, đây cũng là tiền đề vật chất quan
trọng để có thể khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những ảnh
hưởng tích cực từ tư tưởng chính trị Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng chính trị Nho giáo được hình thành trên cơ sở kinh tế là nền nông
nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu với những cơng cụ lao động thơ sơ và nó tồn tại
được cũng là dựa vào cơ sở kinh tế ấy. Do đó, muốn xóa bỏ những tàn tích, khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực của những tư tưởng, quan điểm lạc hậu của những tư
tưởng ấy thì vấn đề trước hết là phải xóa bỏ căn nguyên cho sự xuất hiện và ni
dưỡng nó.
3.3.2. Khắc phục ảnh hưởng của tư tưởng tôn quân, trọng quan, gia trưởng, chuyên
quyền trong tư tưởng chính trị của Nho giáo trên cơ sở thực hành dân chủ,
xây dựng kỷ cương xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiên nay, là nhà nước do
nhân dân xây dựng nên, do vậy là của nhân dân. Nhà nước này chăm lo cho nhân
dân, thực thi quyền dân chủ, tạo điều kiện phát huy trí tuệ sáng tạo của nhân dân
vào q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Thực hành dân chủ cần phải đồng thời xây dựng kỷ cương xã hội. Dân chủ chỉ
có thể được thực hiện, kỷ cương xã hội chỉ được xây dựng có kết quả khi các lực
cản nó được loại bỏ, như tư tưởng tôn quân, trọng quan, gia trưởng, chuyên quyền

từ học thuyết chính trị của Nho giáo. Những tâm lý, tư tưởng “tơn qn”, “trọng
quan”, “gia trưởng”, “chun quyền” đó gây cản trở cho việc thực hiện nguyên tắc
sống và làm theo pháp luật. Chúng ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải hình thành được một hệ thống pháp luật, vì
thế, cũng tất yếu phải loại bỏ tâm lý “tơn quân”, “trọng quan”, “gia trưởng”
“chuyên quyền” vốn chịu ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị của Nho giáo đã khơng
coi trọng đúng mức vai trò của pháp luật.
3.3.3. Khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị
của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân thủ pháp luật trong
xã hội.
Một trong những đặc trưng bản chất của nhà nước pháp quyền là tính thượng
tơn pháp luật. Do đó, khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư
tưởng trị quốc của Nho giáo, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân là
yêu cầu thiết yếu trong việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực từ tư tưởng chính trị Nho giáo trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch, vững mạnh, kết
hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là nhiệm
vụ cần thiết và cấp bách. Một trong những giải pháp thực tiễn của quá trình trên là
phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước ấy sao cho tinh, gọn, đủ
mạnh gồm những con người có phẩm chất đạo đức trong sáng lành mạnh, có năng
lực nghiệp vụ, hoạt động có chất lượng, hiệu quả cao. Nếu khơng xúc tiến giải
pháp này, tức là không xây dựng được đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước có
phẩm chất như trên, thì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nói
hay nói tốt đến mấy cũng chỉ là nhà nước tồn tại trên văn bản, lý thuyết, chứ về
thực chất, không tồn tại trong hiện thực.


KẾT LUẬN

Tư tưởng chính trị là một trong những nội dung cơ bản của học thuyết Nho giáo, ra
đời trong điều kiện nhà Chu đang bị suy yếu về địa vị kinh tế và vai trị chính trị.
Với mục tiêu cao nhất là tìm kiếm mơ hình xã hội lý tưởng thay thế cục diện
đương thời, xã hội lý tưởng trong mong ước của các nhà Nho là một xã hội ổn
định, trật tự và con người sống có đạo đức. Tư tưởng đó đã được các triều đại
phong kiến Trung Quốc sử dụng để xây dựng và duy trì chế độ phong kiến trung
ương tập quyền của mình qua hàng nghìn năm lịch sử.
Tư tưởng trị quốc cùng học thuyết Nho giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm.
Khi mới du nhập Việt Nam, mặc dù lúc đầu sự ảnh hưởng của nó chỉ dừng lại ở
tầng lớp trên, nhưng trong quá trình phát triển của lịch sử, nó đã dần chiếm được
ưu thế và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội và con người
Việt Nam. Đặc biệt đến thời Lê, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống,
chi phối đời sống tinh thần, tư tưởng ở nước ta. Nó đã trở thành công cụ đắc lực
trong việc tổ chức nhà nước và quản lý xã hội của nhiều triều đại phong kiến Việt
Nam. Ngày nay, cơ sở kinh tế xã hội cho sự tồn tại của Nho giáo trên đất nước ta
khơng cịn nữa. Tư tưởng chính trị và tồn bộ học thuyết Nho giáo tuy khơng cịn
tồn tại với tư cách là hệ tư tưởng chính thống, nhưng nó vẫn bám rễ và gây ảnh
hưởng đến đời sống xã hội, con người Việt Nam nói chung và ảnh hưởng đến việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ ở nghĩa Việt Nam nói riêng với những
mức độ khác nhau. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực như giáo dục con người
sống có đạo đức, tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng đồng trong một xã hội
ổn định, có trật tự kỷ cương; chủ trương bảo đảm cho người dân có đời sống vật
chất tương đối đầy đủ, coi trọng việc dưỡng dân, giáo hóa dân và làm cho dân tín,
coi trọng lịng dân, ý dân; đề cao tinh thần tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng
của chủ thể trị quốc để trở thành tấm gương mẫu mực cho nhân dân noi theo... thì
tư tưởng trị quốc Nho giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đối với xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, như: tư tưởng địa vị
ngơi thứ, đầu óc gia trưởng, nó cổ vũ cho sự truy cầu công danh, địa vị, tâm lý
“trọng quan”, coi thường, xem nhẹ công tác chuyên môn và lo tiến thân bằng con
đường quan chức; bệnh gia đình trị, cục bộ địa phương ảnh hưởng tiêu cực đến

không ít cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước hiện nay; tâm lý thiếu tôn
trọng pháp luật trong một bộ phận nhân dân, làm giảm tính nghiêm minh của pháp


luật, với nếp sống quen tuân thủ theo các công thức đạo đức, lề thói, tập tục truyền
thống....
Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân địi hỏi phải phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế, ngăn ngừa những ảnh
hưởng tiêu cực của chúng. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền và những nguyên tắc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát
triển những giá trị của tư tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay; phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với cải tạo các phong tục, tập quán lạc
hậu do ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị Nho giáo; phát huy những yếu tố tích cực
từ học thuyết trị quốc của nho giáo có sự tương đồng với tư tưởng pháp quyền tiên
tiến của nhân loại đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay; khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư tưởng trị
quốc của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân thủ pháp luật trong
xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch, vững mạnh, kết
hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật... là phương hướng và những giải
pháp chủ yếu để có thể phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế, ngăn ngừa những
ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị Nho giáo đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phương hướng và những
giải pháp đó cần phải được triển khai một cách đồng bộ, thường xuyên và liên tục
mới có thể đạt hiệu quả cao nhất.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

“Tư tưởng đức trị Nho giáo”, Tạp chí Khoa học và kinh tế.
“Quan niệm của Nho giáo về người cầm quyền và ý nghĩa trong đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội.
“Tư tưởng quản trị quốc gia của nho giáo”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam.
“Tư tưởng đức trị Nho giáo”, Tạp chí Khoa học và kinh tế.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................... 2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................3
4. Kết cấu đề tài....................................................................................................4
NỘI DUNG............................................................................................................... 5
Chương 1.............................................................................................................5
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO.............................................................. 5
1. Cơ sở hình thành tư tưởng chính trị Nho giáo...........................................5
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội...................................................... 5
1.2. Những tiền đề văn hóa, tư tưởng.........................................................5
2. Tư tưởng chính trị Nho giáo Trung Quốc..................................................6
2.1. Quan niệm của Nho giáo về “gia”, “quốc” và “trị quốc”....................6
2.2. Mục tiêu chính trị trong quan niệm của Nho giáo...............................6
2.3. Đường lối chính trị của Nho giáo........................................................ 7
3. Tư tưởng chính trị của Nho giáo Việt Nam............................................... 7

3.1. Vài nét về sự du nhập tư tưởng chính trị Nho giáo vào Việt Nam......7
3.2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị trong Nho giáo Việt
Nam 9
Chương 2...........................................................................................................12
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN............12
2. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay..................................................................................................................12


2.1. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời sống
chính trị ở Việt Nam................................................................................... 13
2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực

13

2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực

14

2.2. Nguyên nhân ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đến đời
sống chính trị ở Việt Nam...........................................................................15
Chương 3...........................................................................................................18
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC,
HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.......................................... 18
3. Phương hướng cơ bản................................................................................18
3.1.
Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nước pháp quyền và những nguyên tắc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.............................................18
3.2.
Gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát triển những giá trị của tư
tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay............................................................ 18
3.3. Một số giải pháp chủ yếu......................................................................19
3.3.1 Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu do ảnh hưởng từ tư tưởng chính trị
Nho giáo......................................................................................................19
3.3.2. Khắc phục ảnh hưởng của tư tưởng tôn quân, trọng quan, gia
trưởng, chuyên quyền trong tư tưởng chính trị của Nho giáo trên cơ sở thực
hành dân chủ, xây dựng kỷ cương xã hội...................................................19
3.3.3. Khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư tưởng
chính trị của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân thủ pháp
luật trong xã hội..........................................................................................20
3.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch, vững
mạnh, kết hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật.......................20
KẾT LUẬN............................................................................................................. 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................23


×