Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

ĐẶC điểm của TRIẾT học NHO GIÁO KHI DU NHẬP vào VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.85 KB, 15 trang )

1

Chủ đề: T tởng cơ bản của triết học Nho giáo và đặc
điểm của nó khi du nhập vào Việt Nam
Bài làm
Phơng Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại, cùng với ấn Độ,
Trung quốc là một trong những cái nôi của nền văn hóa rực rỡ, phong phú và cổ
xa nhất của nền văn minh ấy, trong đó có t tởng triết học. Sự ra đời, tồn tại và
phát triển của t tởng triết học Trung quốc cổ, trung đại gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của những điều kiện kinh tế xã hội. Sự hình thành và phát triển của
xã hội Trung quốc cổ trung đại trải qua 4 giai đoạn, đợc đánh dấu bằng sự ra đời
của nhà nớc phôi thai đầu tiên, đó là thời đại Ân-Thơng buổi bình minh của nền
văn minh Trung quốc. Mặc dù trình độ phát triển của công cụ sản xuất còn ở mức
độ thấp, nhng nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, với một vùng đất phì nhiêu của
lu vực sông Hoàng Hà, Hắc Thuỷ các bộ lạc ng ời ân đã dịnh c ở đây với một
nền kinh tế sản xuất ổn định, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, chăn nuôi và săn
bắn phát triển ở trình độ cao. Hình thức quan hệ sản xuất thời kỳ này là chế độ nô
lệ gia trởng phong kiến phơng Đông ở trình độ thấp. Về khoa học việc làm ra lịch
mùa đợc coi là một phát minh quan trọng của ngời ân, tuy vậy thành tựu khoa
học đó không thoát khỏi những ảnh hởng của quan niệm tôn giáo thần bí, những
tởng tợng thần thoại, sự vận hành của các thiên thể t tởng tôn giáo của ngời ân
bấy giờ là một thị tộc tiến bộ, đẫ bớc qua thời kỳ tín ngỡng tô tem giáo, bớc vào
giai đoạn có tôn giáo tổ tiên. Do đặc thù của xã hội lúc bấy giờ còn nguyên vẹn
chế độ thị tộc, sự phân công lao động trong xã hội cha phát triển, t duy của con
ngời còn ràng buộc bởi chế độ thị tộc. Vì thế, hình thức tôn giáo của họ cũng rất
đơn giản, chỉ thờ một vị thần, mà theo quan niệm của họ, đó là vị thần toàn năng
của toàn thị tộc thần tổ tiên.


2


Đến thế kỷ XI tr. CN tộc ngời Chu từ phía Tây men theo sông Hoàng Hà tiến vào
đất nhà Ân và tiêu diệt hoàn toàn nhà Ân lập nên nhà Chu sử gọi là Tây Chu. Do
tiếp thu những thành tựu của ngời Ân để lại, điều kiện tự nhiên thuận lợi, có
nguồn lao động dồi dào, kết hợp với tổ chức quản lý chặt chẽ của c dân du mục,
ngời Chu đã tiến hành xa hơn ngời Ân trên con đờng dựng nớc, chính thức bớc
vào xã hội văn minh. Về kinh tế, nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu hoá về t liệu
sản xuất, ruộng đất thuộc quyền quản lý nhà Vua. Nhà Chu thành lập thành thị và
vùng nông thôn, thành thị là nơi ở của của tầng lớp quí tộc, kẻ thống trị còn nông
thôn là nơi ở của thị tộc bị nô dịch. Hệ quả sự phân tầng xã hội dẫn đến sự phân
biệt ngời quân tử và kẻ tiểu nhân. T tởng chính trị của giai cấp quí tộc nhà Chu là
vâng mệnh trời để cai trị dân, và đợc thể hiện nhiều trong các thiên cáo của
kinh th, đây là t tởng chuyên chế tàn khốc của giai cấp quí tộc thời nhà Chu.
Những cơ sở của Nho giáo đợc hình thành từ thời Tây Chu. Đặc biệt là với sự
đóng góp của Công Chu Đán (Công Chu Đán là con của Chu Văn Vơng). Đến lợt
mình Khổng Tử đã kế thừa và phát triển t tởng của Công Chu Đán, làm hoàn
thiện hệ thống nho giáo, do đó Khổng Tử đợc xem là ngời đặt nền móng, là vị s
tổ của Nho giáo.
Nho giáo ra đời là sản phẩm của xã hội Trung Quốc cổ, trung đại lúc bấy
giờ. Nội dung t tởng của nó đợc khái quát thành hệ thống quan niệm về mối quan
hệ giữa con ngời với tự nhiên (Thiên nhân tơng dữ; Thiên nhân hợp nhất; Thiên
nhân nhất thể), giữa con ngời với xã hội (Ngũ luân; ngũ thờng); trong luân lý của
Nho giáo có tam cơng, ngũ thờng, nớc có quan hệ vua - tôi, gia đình có quan hệ
cha - con, chồng - vợ. Trong dân chúng thì có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tất cả
những khuôn phép đó là trật tự, là quy tắc về lẽ sống của con ngời trong xã hội
phơng Đông. bản chất của nho giáo là tĩnh, không a xáo trộn, chuộng an bài, an
lạc. Vì vậy, trong đạo lý lối sống chỉ chú ý đến cái chung, chỉ có cái ta mà không


3


có cái tôi. Về lẽ sống con ngời (ôn, lơng, cung, kiêm). Với hệ thống những
quan điểm đó mà Nho giáo đợc xếp ở vị trí hàng đầu của Cửu lu là một trong
chín học phái khác nhau và tiêu biểu thời Tiên Tần. Nội dung của học thuyết này
chủ yếu là tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chơng văn võ (trình bày t tởng của Vua
Nghiêu vua Thuấn, bắt chớc hành động của Vua văn Vua võ), đề cao lễ nhạc và
nhân nghĩa, hết lòng vì ngời; Điều gì mình muốn đạt đợc thì cũng giúp cho ngời
khác đạt đợc; điều gì mình không muốn thì cũng không nên đem áp đặt cho ngời
khác và đạo Trung Dung (không thiên lệch, không thừa, không thiếu).
Về chính trị xã hội, Nho giáo chủ trơng đức trị và nhân chính (chính
sách nhân từ). Về đạo đức coi trọng việc giáo dục luân lý cũng nh tu thân, dỡng
tính cho mỗi con ngời. Khổng Tử xây dựng hệ thống những quan niệm ấy, không
xuất phát từ việc nghiên cứu một cơ sở kinh tế xã hội nhất định, mà chỉ dựa vào
những quan niệm về bản chất tâm lý xã hội và quan niệm về đức của con ngời.
Cái bản chất tâm lý xã hội và đạo đức đó theo Khổng Tử là Nhân. Do vậy,
phạm trù Nhân vừa là xuất phát điểm, vừa là hạt nhân tạo nên hệ thống các
phạm trù khác, có liên quan chặc chẽ với nhau. Trong hệ thống các phạm trù ấy
thì ba phạm trù Nhân, Lễ Chính danh có nội dung và ý nghĩa quan trọng
nhất, tạo nên một triết lý nhân sinh có bản sắc hết sức độc đáo. phạm trù nhân là
hạt nhân trong học thuyết chính trị của Khổng tử. Theo ông, nhân là nội dung, lễ
là hình thức của nhân và chính danh là con đờng đạt tới điều nhân. Khổng Tử
luôn đề cao phạm trù Nhân, bản thể hoá đạo nhân, coi đó là đạo trời đất, là
bản chất của con ngời. Trong Luận ngữ, chữ Nhân đợc Khổng Tử đề cập tới
hàng trăm lần. Tựu trung lại Nhân có những nội dung chủ yếu sau:
- Nhân là yêu thơng con ngời
- Nhân là coi ngời nh mình


4

- Nhân là mình muốn lập thân thì phải giúp ngời khác lập thân, mình muốn

thành đạt thì cũng giúp cho ngời khác thành đạt.
- Nhân là sửa mình, khôi phục lễ nhạc
- Nhân là không nhìn điều trái lễ, không nghe điều trái lễ, không nói điều
trái lễ, không làm điều trái lễ.
- Nhân là tôn trọng và tuân theo nguyên tắc xã hội, là đạo làm ngời, là gốc
rễ nảy sinh các mối quan hệ ngời với ngời cũng nh đức tính của con ngời.
Từ những nội dung chủ yếu trên, cho thấy: Nhân là kết tinh cao nhất trong
triết lý của Khổng Tử, Nho giáo cho rằng giữa nhân và lễ có mối quan hệ khăng
khít với nhau: nhân đợc biểu hiện trớc hết thông qua lễ, lễ là căn nguyên quan
trọng nhất tạo nên sự ổn định, thịnh trị của xã hội. Bởi lẽ, thời đại của Khổng tử
là thờ đại mà theo ông lễ nhạc h hỏng, cần phải khôi phục lại lễ. Lễ mà Khổng tử
nói ở đây là dùng để chỉ về nghi lễ, chế độ chính trị và những quy phạm về đạo
đức của Nhà Chu.
- Lễ là những quy định và bảo đảm quyền hành của mỗi ngời
- Lễ là trên dới theo ngôi thứ rõ ràng.
- Lễ là mọi việc đâu phải ra đấy và khi thực hiện lễ mọi ng ời phải thành
kính.
- Lễ là cơ sở của mọi suy nghĩ và hành động, xã hội rối loạn là do không có lễ.
Với những nội dung chủ yếu trên, chứng tỏ rằng Lễ biểu hiện của
Nhân, là biện pháp chặt chẽ nhất để thực hiện đờng lối đức trị nhằm duy trì
chế độ đẳng cấp của phong kiến. Lễ xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi
ngời, làm cho họ tuân thủ và hành động một cách tự giác theo trật tự quy định
nghiêm ngoặt đúng khuôn phép.
Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ thì nhân đóng vai trò là nguồn gốc, là
nội dung của lễ; lễ là hình thức của nhân. Theo Khổng Tử, con ngời một khi nắm


5

đợc lễ là nắm đợc những nguyên tắc chung, những nguyên tắc chung ấy là cơ sở chi

phối mọi suy nghĩ và hành động; nhng không phải hễ nắm đợc lễ thì hành động của
con ngời bao giờ cũng đúng. Muốn thực hiện đúng lễ thì một mặt phải mắn đợc lễ,
mặt khác phải xác định đúng vị trí và danh phận của mình trong từng hoàn cảnh cụ
thể và trong từng mối quan hệ cụ thể. Với mỗi danh vị khác nhau thì phải có trách
nhiệm, vai trò và cách ứng xử khác nhau, sao cho phù hợp với lễ. Do đó, giữa lễ và
chính danh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Phải căn cứ vào lễ làm chuẩn mực để
sửa mình và giữ địa vị của mình sao cho thật chính danh. Muốn chính danh thì phải
hành động theo lễ và tơng xứng giữa thực và danh. Danh Thực tơng xứng với
nhau vừa là điều kiện, vừa là kết quả của việc thực hiện đúng lễ. Do đó, chính danh
cũng là con đờng, là cách thức để đạt tới điều nhân.
Ba phạm trù Nhân Lễ Chính danh có nội dung hết sức phong phú và
liên quan chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, tạo nên cơ sở lý luận cốt lõi
cho mọi quan niệm về chính trị-xã hội và đạo đức Nho giáo: Trong mối quan hệ
của ba phạm trù đó thì nhân đóng vai trò là nội dung, lễ là hình thức và chính
danh là con đờng, phơng tiện để đạt tới nhân.
Trên cơ sở nền tảng lý luận cốt lõi ấy mà Nho gia rất quan tâm đào tạo nên
những ngời cai trị kiểu mẫu, đó là mẫu ngời Quân tử (ngời cai trị) nhằm tổ chức,
quản lý xã hội. Để thành quân tử thì trớc hết phải tu thân theo ba tiêu chuẩn
chính sau đây:
Một là, đạo: Nho giáo cho rằng đạo là quy luật biến chuyễn của trời đất,
của con ngời, đồng thời đạo còn là con đờng, là những mối quan hệ mà con ngời
phải biết cách ứng xử trong cuộc sống. Đạo của trời là âm và dơng, đạo của đất là
cơng nhu, đạo của ngời là nhân và nghĩa. đạo trời và đạo ngời gắn liền với nhau;
đạo ngời đợc quy định bởi đạo trời, ngời có đạo phải là ngời nắm đợc và thực
hiện đợc năm mối quan hệ ngũ luân (vua-tôi; cha-con; chồng-vợ; anh-em;


6

bạn-bè). Trong xã hội , muốn đạt đợc đạo thì cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung

dung. Một khi nhà có đạo thì nớc có đạo, nớc có đạo thì thiên hạ có đạo, thiên hạ
có đạo thì thiên hạ đại đồng. Do đó, xã hội sẽ không còn loạn lạc, con ngời đợc
hởng thái bình.
Hai là, đức theo Nho giáo thì đức là cái sở đắc trong khi hành động, đợc
biểu hiện qua các chuẩn mực tam cơng (vua- tôi; cha- con; chồng - vợ) và
ngũ thờng (nhân, nghĩa lễ, trí, tín). Quân tử muốn hoàn thiện mình thì phải
phấn đấu để đạt đức, có nghĩa là phải tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực của
đạo và đức.
Ba là, ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức, quân tử còn phải biết thi, th, lễ,
nhạc. Khổng Tử cho rằng con ngời hứng khởi trong lòng là nhờ học Thi, lập thân
đợc là nhờ biết lễ, thành công đợc là nhờ có nhạc (Luận ngữ). Nói cách khác,
Nho giáo đòi hỏi ngời cai trị (Quân tử) không phải là dân võ biền, mà phải có một
vốn văn hoá toàn diện, hiểu biết và ứng xử trong xã hội cho phải đạo.
Ngời Quân tử phải tu thân trớc rồi mới hành động, có nghĩa là phải tề gia,
trị Quốc, bình thiên hạ, đó là phơng châm chỉ đạo hành động của ngời Quân tử.
Đức trị: ngời cầm quyền phải nêu gơng, cảm hoá ngời dới bằng đạo đức
của mình.
Lễ trị: cai trị bằng các quy định về lễ, đó là các chuẩn mực mà từng ngời
phải tuân theo, tuỳ thuộc vào từng vị trí xã hội.
Văn trị: coi trọng văn hiến, xem đây là chức năng của ngời cầm quyền. Nh
vậy, Khổng tử đa ra học thuyết chính trị đạo đức để bình ổn trật tự xã hội, làm
cho học thuyết của mình có cách tiếp cận cải tạo đến đời sống văn hóa của con
ngời bằng con đờng giáo dục, nhằm mục đích làm sáng cái đức. Nói cách khác,
Khổng tử muốn xây dựng trong một thế giới văn hóa mang tính nhân đạo, tức là


7

thế giới của những bậc hiền nhân quân tử sống với nhau, giao tiếp với nhau trên
cơ sở những chuẩn mực đạo đức đợc thiết lập bởi các thánh nhân tiền bối.

T tởng triết học của của Nho giáo, Khổng Tử ít bàn đến những vấn đề trừu tợng thuộc bản thể, ít bàn đến chuyện quỷ thần. Tử Lộ (học trò của Khổng Tử) hỏi
ông về chuyện quỷ thần, ông nói: Cha biết chuyện của ngời mà làm sao biết
chuyện của quỷ thần. Tử Lộ lại hỏi, sau khi chết con ngời sẽ ra sao? Ông nói:
Cha biết đợc việc sống làm sao mà biết đợc việc chết. Tuy nhiên, trong nghị luận
nhiều chỗ ông nói đến Trời, Mệnh trời để trình bày ý kiến của mình. Trời
đối với Khổng Tử có chỗ nh là một quy luật, là trật tự của vạn vật Trời có nói gì
đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trởng, có chỗ ông khẳng định Trời
có ý chí Than ôi! trời làm mất đạo ta; Mắc tội với Trời không thể cầu ở đâu
mà thoát đợc. ý chí của trời là thiên mệnh (mệnh lệnh của Trời). Ông cho rằng
mỗi cá nhân sự sống, sự chết, phú quý hay nghèo hèn đều do thiên mệnh quy
định. Phú quý không thể cầu mà có đợc, do vậy bất tất phải cầu. Mặc khác,
Khổng Tử lại cho rằng con ngời bằng nổ lực chủ quan của mình cũng có thể thay
đổi đợc cái thiên tính ban đầu. Ông nói, con ngời lúc sinh ra, cái tính trời
phú cho là giống nhau nh trong quá trình tiếp xúc, học tập nó làm cho họ khác
nhau, có kẻ trí, kẻ ngu. Đây là mặt tích cực của Khổng Tử so với quan niệm
Mệnh trời trớc đó. Đối với quỷ thần, Khổng Tử tỏ ra có thái độ hoài nghi về sự
tồn tại của quỷ thần, cho nên một mặt ông chủ trơng tôn kính, một mặt lại xa
lánh và cảnh giác. Ông nói: Biết kính quỷ thần mà xa lánh nó là ngời trí. Nh vậy
kẻ mê tín quỷ thần là kẻ ngu; Tế thần xem nh là có thần- có thần hay không là do
mình (Luận ngữ); quỷ thần không đáng tế mà tế là nịnh phải cảnh giác. Quan
niệm của Khổng Tử về Mệnh trời vừa mang yếu tố duy vật lẫn duy tâm, có lúc
ông coi mệnh trời là quy luật tự nhiên của thế giới vận động một cách khách
quan, thể hiện yếu tố duy vật. Song lại có lúc ông cho rằng Mệnh trời là lực l -


8

ợng siêu nhiên chi phối các quy luật của tự nhiên thể hiện yếu tố duy tâm. thực
chất t tởng triết học của Nho giáo phản ánh rõp nét tính mâu thuẫn của xã hội
Trung Hoa cổ, trung đại lúc bấy giờ.

Sau khi khổng Tử mất học thuyết của ông đợc các thế hệ học trò tiếp tục
phát triển và trở thành một trờng phái lớn ở Trung Hoa. Trong số họ nổi bật lên là
nhà triết học, nhà chính khách nổi tiếng Mạnh Kha,(ngời đời sau gọi là Mạnh
Tử) ngời có công lớn trong việc bảo vệ Nho giáo và cũng là ngời đa nhiều t tởng
mới vào hệ thống t tởng Nho giáo của Khổng Tử.
Mạnh Tử (371-289 tr. CN) ngời đất Châu nớc Lỗ, Mạnh Tử là học trò của
Tử T (cháu nội của Khổng Tử). Từ cuối thời Xuân Thu, cuộc đấu tranh của các nớc ch hầu ngày càng gay gắt. Giai cấp địa chủ mới lên ngày càng lớn mạnh, giai
cấp quý tộc thị tộc cũ ngày càng suy yếu. Giai cấp địa chủ mới lên dựa vào học
thuyết của phái Pháp gia để củng cố chính quyền, họ chủ trơng dùng vũ lực thôn
tính lẫn nhau để giải quyết cục diện chiến tranh. Giai cấp quý tộc quan liêu thị
tộc, mà đại biểu t tởng của họ là phái Nho gia, phản đối dùng bạo lực thôn tính
lẫn nhau, chủ trơng thuyết phục để thống nhất. Mạnh Tử đã đứng trên lập trờng
của một bộ phận lạc hậu trong giai cấp quý tộc thị tộc chủ nô đang trên con đờng
chuyễn hoá lên giai cấp địa chủ phong kiến, cho nên t tởng của ông là bảo thủ,
không phù hợp với thực tế diễn biến của lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ.
Mạnh Tử đã đứng trên danh nghĩa bảo vệ Nho giáo, bảo vệ học thuyết của
Khổng Tử nhng thực chất đã khuếch đại những mặt hạn chế trong t tởng của
Khổng Tử, giải thích sai lệch những t tởng của ông và đa vào những t tởng mới
lạ, biến Nho giáo thành một học thuyết có tính chất duy tâm, thần bí. Nếu nh trớc
những diễn biến phức tạp của xã hội , Khổng Tử đã tích cực hành, cho rằng có
thể làm đợc, đi các nơi thuyết khách để thực hiện chủ trơng của mình thì Tăng
Sâm(học trò của Khổng Tử) lại lãng tránh thực hiện, tìm về con đờng suy xét, tự


9

kiểm điểm mình về đạo đức, hiếu thảo, coi đó là niềm vui. ông nói Ta mỗi ngày
lấy ba việc tự kiểm điểm mình: Làm việc cho ngời khác có trung thành không?
Giao thiệp với bạn bè có thật thà không? Thầy dạy, ta có ôn tập không?. Một
thái độ thụ động tiêu cực của Mạnh Tử là chờ thời ngời quân tử ăn ở giản dị để

đợi mệnh trời, còn kẻ tiểu nhân thì làm những việc nguy hiểm để cầu may. Mạnh
Tử cho rằng Thành là đạo của trời và suy nghĩ sao cho thành là đạo của ngời.
Sự Thành là hợp với đạo, khi đã thành thì vạn vật đều có đầy đủ trong ta. Nghĩa
là sự Thành là cái bản thể của vạn vật. Nh vậy, với quan điểm vạn vật đều có
đầy đủ trong ta ông tuyên truyền con ngời chỉ cần đi tìm và phát huy cái quy tắc
tự tĩnh nội tâm thì có thể biết đợc ý chí của Thợng Đế, tức là con ngời không
cần đi tìm chân lý ở ngoài thế giới vật chất khách quan mà chỉ cần thành ý,
chính tâm, trở về nội tâm chủ quan bên trong. Cái chí thành là bản thể, vật tự
tại thuộc về tiêm nghiệm, vợt ra khỏi phạm trù không gian, thời gian, vật chất,
vận động. Đạt đến Thành là con ngời có thể thông quan với trời đất, hoá sinh ra
vạn vật. Ông nói: Chỉ có những ngời chí thành trong thiên hạ mới có thể biết
hết đợc cái tính của vạn vật. Nếu có thể biết hết đợc cái tính của con ngời thì
có thể biết hết đợc tính của vạn vật. Nếu biết đợc hết tính của vạn vật thì có
thể giúp vào việc sinh hoá của trời đất. Nếu có thể giúp vào việc sinh hoá của trời
đất thì có thể cùng trời đất tham dự mọi việc Ông đã đẩy yếu tố duy tâm trong
quan niệm về Trời ngời hợp nhất của Khổng Tử. Mạnh Tử đã tách rời một cách
tuyệt đối giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, đề cao nhận thức lý tính.
ông cho rằng nhận thức cảm tính là cái tiểu thể, là của kẻ tiểu nhân, là nguồn gốc
của những điều ác; nhận thức lý tính là cảm quan của cái tâm, là cái đại thể
riêng có của ngời quân tử. Cho nên chỉ có ngời quân tử mới có thể đạt đến Chí
thành, cộng thông hoà hợp với trời đất.


10

Quan điểm chính trị xã hội của Mạnh Tử, ông đa ra học thuyết Nhân
chính chống lại việc dùng vũ lực thôn tính lẫn nhau giữa các nớc, đòi tài sản riêng
cho nhân dân lao động có nh vậy họ mới yên tâm làm ăn. Trong xã hội mà trên dới
tranh lợi lẫn nhau thì việc làm giàu là điều bất nhân, cho nên ông đa ra phép Tỉnh
điền (chia ruộng công ở giữa, ruộng t xung quanh) và mọi ngời tơng trợ lẫn nhau.

Mạnh Tử đa ra chủ trơng chính trị đợc lòng dân, dân vi quý, quân tử vi khinh
Ông nói: Đáng quý trọng nhất là dân, kế đến là xã tắc, còn vua là thờng, Vua và
ch hầu làm hại xã tắc thì thay đổi ông vua ấy mà đặt ông vua khác lên thay. T tởng
chính trị xã hội của Mạnh Tử là quan tâm đến ngời lao động, rút hẹp phạm trù ngời
quân tử, mở rộng tơng đối phạm trù kẻ tiểu nhân, đây là những t tởng tiến bộ, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử xã hội.
Trải qua quá trình phát triển lâu đời, nhiều triều đại phong kiến Trung
Quốc luôn lấy học thuyết này làm t tởng chính thống và đã có những cải biến
nhất định cho phù hợp với yêu cầu thống trị của từng thời kỳ. Vào đời Hán, Nho
giáo đợc cải biến lần thứ nhất và đợc gọi là Hán Nho, với vai trò to lớn của Đổng
Trọng Th (180-105 tr. CN). Ông tự coi mình là ngời tiếp tục t tởng của của phái
Nho gia, nhng thực tế đã tiếp thu và khuếch trơng những yếu tố duy tâm trong
học thuyết của Khổng Mạnh, của phái Âm dơng Ngũ hành và các trờng
phái khác để nhào nặn nên học thuyết Hán Nho mang đậm màu sắc chính trị duy
tâm thần bí và khắc nghiệt. Chính Đổng Trọng Th có công đa Nho giáo lên địa
vị Quốc giáo, nhng không phát huy đợc những t tởng tiến bộ của Nho giáo. Vào
đời Tống Nho giáo đợc cải biên lần thứ hai và đợc gọi là Tống Nho với vai trò to
lớn của Chu Hy (1130-1200). Theo chủ trơng phục cổ, ông đã có công lao bình
chú, giảng giải tất cả những trớc tác của Khổng Tử, Tăng Sâm, Tử T, Mạnh Tử.
Tống Nho nhìn chung có tinh thần khôi phục quan điểm Nhân Nghĩa, đề cao
Kinh Dịch, có đặc trng lý học do chịu ảnh hởng của Phật giáo và Lão giáo.


11

chính vì vậy nên tính chất tôn giáo đã chính thức trở thành một bộ phận không
thể tách rời của Nho giáo.
Nh vậy, Nho giáo từ lúc khởi nguyên, trải qua quá trình phát triển từ Đổng
Trọng Th, đến Chu Hy đã có một bớc tiến dài, Nho giáo thoát thân khỏi một số
nguyên tắc ban đầu để có thể thích nghi với vai trò hệ t tởng của một nhà nớc. Về

sau này ở Trung Quốc khi Nho giáo càng trở nên có vai trò xã hội cao thì có nơi,
có lúc nó đã bị tôn giáo hoá. Tuy nhiên, qua quá trình phát triển, có lúc Nho giáo
bị truy diệt bởi chính sách đốt sách, giết Nho sĩ của đời Tần; có lúc hng thịnh
đến cực độ do đợc tôn là quốc giáo vào đời Hán, đời Tống; song những t tởng cơ
bản của hậu Nho vẫn không xa rời điểm xuất phát là Khổng Nho. Nho giáo là hệ
t tởng của giai cấp phong kiến thống trị phơng Đông, nhằm bảo vệ quyền lợi của
giai cấp phong kiến, chứng minh cho cái gọi là tính hợp lý của sự thống trị phong
kiến, bản thân nó vừa chứa đựng cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực. Tuy vậy, là một
học thuyết tồn tại hàng nghìn năm, Nho giáo có những điều đã đáp ứng đợc yêu
cầu của xã hội, của con ngời sống trong xã hội mà ngày nay có thể cải tạo và
phát huy. Nghĩa là nó có những giá trị phổ biến mà với các quan điểm khách
quan, khoa học không thể không thừa nhận.
Đặc điểm của Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam.
Nho giáo truyền vào nớc ta từ đầu thời kỳ Bắc thuộc. Đến khi gaình đợc
độc lập dân tộc, các trièu đại phong kiến Việt Nam dã lấy nho học là học thuyết
có lợi cho sự thống trị của mình. Tuy nhiên, khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam
nó lại không còn là Nho giáo nguyên thuỷ thời Khổng Tử , mà đã đợc bổ sung
thêm nhiều khía cạnh và thờng đợc gọi là Hán Nho. Mặc dù Hán Nho đã đợc các
quan lại Trung Hoa nh Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp ra sức truyền bá, nh ng vì nó là thứ văn hoá do kẻ xâm lợc áp đặt cho nên suốt cả thời kỳ nghìn năm
chống Bắc thuộc Nho giáo cha có chỗ đứng thích đáng trong xã hội Việt Nam.


12

Đến năm 1070 với sự kiện vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu ở Thăng Long
để thờ Chu Công, Khổng Tử và 4 ngời học trò xuất sắc của ông. thì lúc đó Nho
giáo coi nh đã đợc tiếp nhận chính thức ở Việt Nam. Sở dĩ Nhà nớc phong kiến
Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo một cách tự giác nh vậy bởi vì sau khi
giành độc lập, bắt đầu xây dựng một Nhà nớc phong kiến quân chủ chuyên chế
trung ơng tập quyền thì hình ảnh một ông vua có quyền uy tối thợng, với cách

thức cai trị nhằm thiết lập trật tự theo t tởng Nho giáo đã hấp dẫn vua chúa Việt
Nam đến mức đa t tởng Nho giáo lên hàng chính thống, chi phối phơng thức sản
xuất xã hội và đời sống tinh thần của nhân dân. vào lúc cực thịnh dới triều đại Lê,
Nguyễn, Nho giáo Nho giáo đã đợc đa lên hàng quốc giáo, về cơ bản, hình thức
tổ chức xã hội đợc cấu trúc gần nh phiên bản của mô hình xã hội Trung Hoa.
Chính vì lẽ đó giai đoạn này nội dung Nho giáo đợc Việt Nam hoá tiếp thu chủ
yếu là Tống Nho.
Nho giáo Trung Quốc du nhập vào Việt Nam từ Nho giáo nguyên thuỷ, qua
Hán Nho, đến Tống Nho nhng t tởng của Nho giáo tác động đến đời sống tinh
thần của dân chúng, hình thành nên những nét văn hoá, thì cũng xoay quanh t tởng Nho giáo nguyên thuỷ đợc thể hiện trong Tứ th, Ngũ kinh. Những nét bổ
sung của Hán Nho, Tống Nho về dịch học, lý học.. hầu nh không ảnh hởng đến
dân chúng mà chỉ ảnh hởng đến tầng lớp trên, đặc biệt là tầng lớp quan lại ở triều
đình. Đặc điểm nổi bật của Nhi giáo khi du nhập vào Việt Nam là:
Thứ nhất, Nho giáo từ khi gia nhập vào Việt Nam đã ngày càng hoà đồng
với các học thuyết t tởng khác, đặc biệt là t tởng của Phật giáo, Đạo giáo và chịu
sự chi phối mạnh mẽ của t tởng bản địa. Đây là hiện tợng không phải chỉ có ở
Việt Nam, ngay cả ở Trung Quốc, Nho - Đạo Phật cũng đã tạo nên tam giáo
hợp nhất; nhng ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tam giáo không chỉ
hợp nhất mà đạt tới mức đồng nguyên (tam giáo đồng nguyên). Vấn đề này đợc


13

thể hiện tiêu biểu và rõ nét ở việc thực nghiệm và tập hợp thành ba khuynh hớng
giáo lý nói trên, để hình thành nên t tởng Trúc lâm tam tổ ở đời nhà Trần, với
công lao to lớn của vua Trần Thái Tông.
Nh vậy, ngời Việt đã tích cực sàng lọc các nội dung và cách biểu hiện t tởng của các học thuyết ngoại lai ấy, để tìm ra cái chung, cái tơng đồng, bản địa
hoá nó, để nó trở thành công cụ hữu ích cho cuộc sống. Chính với mục đích đó,
cộng với lòng khoan dung, cao thợng , nhân ái của ngời Việt, cho nên tuy có
nhiều tôn giáo, nhiều dân tộc cùng tồn tại và phát triển qua các thời kỳ lịch sử

khác nhau, nhng lịch sử Việt Nam nói chung chung không có sự xung đột gay
gắt, sự kỳ thị và bài xích về t tởng tôn giáo.
Thứ hai, nét đặc sắc của Nho giáo Việt Nam là đợc tái cấu trúc, trong
đó khi tiếp thu cái ngoại lai, ngời Việt chỉ tiếp nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt
Nam hoá, để rồi cấu tạo lại theo cách của mình cho phù hợp với truyền thống
văn hoá của dân tộc. Bởi vì, các nội dung t tởng của Nho giáo gần gũi với nhân
sinh quan của ngời Việt, do đó đợc ngời Việt tiếp nhận một cách rất tự nhiên và
đã bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau trải qua những bớc thăng trầm của lịch sử
dân tộc Việt Nam. Trớc khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam thì ngời Việt Nam
đã sớm khẳng định đợc bản sắc văn hoá nông nghiệp trồng lúa nớc của mình là
yêu chuộng hoà bình, trọng tình nghĩa cộng đồng làng xóm, triết lý âm dơng hoà
hợp sinh thành đã nảy nở từ lâu, đoàn kết gắn bó nhau, thơng nhau nh ruột thịt
chính những giá trị truyền thống văn hoá đó đã tạo nên sự khúc xạ của Nho giáo
Trung Quốc khi vào Việt Nam qua lăng kính bản địa. Khi tiếp nhận Nho giáo,
ngời Việt Nam do coi trọng tình ngời nên tâm đắc với chữ nhân hơn cả. Nhân
là lòng yêu thơng ngời, lá lành đùm lá ráchNhân gắn với nghĩa việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân (Nguyễn Trãi). Đối với ng ời bình dân thì nhân đồng
nghĩa với tình. Các từ nhân tình, nhân nghĩa, nhân duyên biểu hiện khả năng


14

đồng hoá, hấp thụ có chế biến t tởng nhân của Nho giáo Trung Quốc. Đồng
thời với truyền thống dân chủ của ngời Việt, nên tính cực đoan, hà khắc của Nho
giáo Trung Quốc khi du nhập vào Việt Nam đợc mềm hoá và có tính khoan dung
hơn. Điều này thể hiển rõ nét ở tính chất pháp luật. Đặc biệt ở truyền thống tôn
trọng phụ nữ, thấy đợc vai trò quan trọng của ngời phụ nữ đối với gia đình, xã
hội. Khi tiếp thu chữ Hiếu của Nho giáo ngời Việt đặc nó trong mối quan hệ bình
đẳng với cả cha lẫn mẹ Công cha nh núi Thái sơn. Nghĩa mẹ nh nớc trong nguồn
chảy ra, biết phân biệt rõ ràng trong quan hệ ứng xử hàng ngày.

Coi trọng văn chơng, trọng kẻ sĩ vốn là xu hớng chung của Nho giáo.
Tuy nhiên, ở Trung Hoa, nếu có trọng thì quan văn cũng chỉ ngang hàng với quan
võ. ở Việt Nam, văn đợc coi trọng hơn võ, tuy luôn phải đối phó với chiến tranh,
nhng ngời Việt ít quan tâm đến các kỳ thi võ, mà chỉ ham học chữ thánh hiền để
thi văn.
T tởng trung quân là một trong những trung tâm của Nho giáo. ở Trung
Hoa rất coi trọng t tởng trung quân, còn t tởng yêu nớc thì ít đề cập đến. Quan lại
và nhân dân Trung Hoa đều coi việc trung thành với minh quân, quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung. Trong khi đó thì ở Việt Nam tinh thần yêu n ớc và tinh
thần dân tộc lại là một truyền thống cốt lõi, là dòng chảy xuyên suốt trong quá
trình đấu tranh dựng nớc và giữ nớc. Ngời Việt Nam tiếp thu t tởng trung quân
của Nho giáo trên cơ sở tinh thần yêu nớc và tinh thần dân tộc sẵn có, khiến cho
t tởng trung quân đó đã bị biến đổi và gắn liền với ái quốc.
Về thái độ đối với thơng nghiệp thì Nho giáo Việt Nam cũng khác với Nho
giáo Trung Quốc. ở Trung Quốc Nho giáo khuyến khích làm giàu, miễn hành
động ấy không đợc trái với lễ. Làm giàu là điều cần thiết và là trách nhiệm của
ngời cai trị đất nớc theo quan điểm hằng sản mới có hằng tâm. Do vậy, ở


15

Trung Quốc không hề cản trở thơng nghiệp phát triển. Trong khi đó thì ở Việt
Nam, Nho giáo lại khinh rẻ thơng nghiệp, bởi chịu ảnh hởng của tính cộng đồng
và tính tự trị cao. T tởng ấy đã ăn sâu, bám rể vào suy nghĩ và tình cảm mọi ngời,
khiến cho thơng nghiệp trong lịch sử Việt Nam chậm phát triển. Nó còn đợc khái
quát thành quan niệm mang tính chất chính thống là: dĩ nông vi bản, dĩ thơng
vi mạt và đờng lối Trọng nông ức thơng. Ngời làm nghề buôn bán thờng bị xã
hội coi khinh và bị xếp cuối cùng trong các tầng lớp dân c Sĩ, nông, công, thơng. Khi nói về họ thì xã hội thờng dùng những từ ngữ đầy tính miệt thị nh con
buôn, lái buôn và luôn bị nghi ngờ về tính trung thực, thật thà trong buôn
bán.

Tóm lại, ngời Việt Nam với những nét đặc sắc của văn hoá bản địa, đã chủ
động tiếp thu những t tởng cơ bản của Nho giáo cải biến nó cho phù hợp với
truyền thống và điều kiện hoàn cảnh của mình. Điều này không chỉ là biểu hiện
của tính độc lập tự chủ, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, mà còn để tránh một sự xâm
lăng văn hoá của một nớc lớn đối với một nớc nhỏ, nhằm thực hiện âm mu đồng
hoá, thôn tính nớc ta của kẻ thù phơng Bắc. Đây cũng là một trong những lý do
để dân tộc Việt Nam giành đợc độc lập, giữ đợc bản sắc văn hoá của mình, không
bị đồng hoá qua hàng nghìn năm Bắc thuộc của các thế lực phong kiến ở phơng
Bắc.
Nho giáo là một học thuyết đợc truyền bá vào nớc ta từ hàng nghìn năm
nay. Trên cơ sở văn hoá tinh thần bản địa làm nền tảng, t tởng Nho giáo cùng các
luồng t tởng khác du nhập vào nớc ta đợc nhân dân Việt Nam tiếp thu, cải biên
cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình, góp phần hình thành nên những
giá trị văn hóa t tởng truyền thống, im đậm bản sắc dân tộc. Suốt thời kỳ phong
kiến, hệ t tởng Nho giáo giữ vai trò thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.
Bớc vào thời cận đại, vai trò của Nho giáo phải nhờng cho các học thuyết khác.


16

Vào năm 1915 chính quyền thực dân phong kiến chấm dứt thời kỳ Nho học ở Bắc
kỳ và năm 1918 chấm dứt kỳ thi Nho học cuối cùng ở Trung kỳ. Những diễn biến
đó với chủ trơng bỏ chữ Hán để chuyễn sang học chữ Quốc ngữ đã làm cho hình
ảnh Khổng Mạnh không còn coi trọng nh trớc. Tiếp sau đó, cách mạng xã hội
chủ nghĩa diễn ra ở nớc ta đã làm xuất hiện nhiều t tởng phê phán Nho giáo,
khiến cho nhiều ngời phải hoài nghi giá trị của nó.
Ngày nay, Nho giáo không còn giữ vai trò thống trị trong xã hội, song với
t cách là một học thuyết tồn tại trong một thời gian dài ở nớc ta, vì vậy nó có ảnh
hởng không nhỏ tới xã hội và t tởng của con ngời Việt Nam nh: tôn trọng sự sống
và giá trị sự sống của con ngời; tinh thần yêu nớc, t tởng dân tộc; độc lập dân tộc;

t tởng về hạnh phúc và vơn tới hạnh phúc của con ngời Việt Nam. Tất cả t tởng
đó làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của con ngời Việt Nam. Bên
cạnh các nguyên lý về chính trị, đạo đức nh thuyết tam cơng, ngũ thờng nó tạo
cho xã hội lúc bấy giờ có một ý thức trật tự kỷ cơng , phù hợp với chế độ phong
kiến hiện thời. T tởng của Nho giáo về tôn trọng sự sống và giá trị sự sống của
con ngời đợc đề cao, trong ba việc mà Khổng Tử thận trọng hơn hết, thì có hai
việc trực tiếp liên quan đến sự sống của con ngời là chiến tranh và bệnh tật. Hơn
thế nữa, ngay cả việc dùng gỗ đẽo thành hình ngời để dùng vào việc táng (thay
cho ngời sống), cũng bị Khổng Tử kịch liệt phản đối bằng một lời lẽ hết sức nặng
nề đối với tâm thức nho giáo. Nho giáo không chấp nhận bất cứ hành vi nào coi
thờng giá trị sinh mạng con ngời, coi thờng sự sống, dù rằng đó chỉ là chôn một
hình ngời bằng gỗ thay ngời sống. Do xuất phất từ yêu cầu coi trọng sự sống của
con ngời, nh thế mà trong phơng thức tổ chức cai trị Khổng tử mong muốn loại
bỏ hiện tợng tàn bạo trong xã hội. Ta có thể thấy rằng, trong lịch sử t tởng Việt
Nam Nguyễn Trãi là ngời nhận thức đầy đủ giá trị nhân văn với tác phẩm Bình
Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cho ta thấy đợc ở đó ông đã trình bày nội dung bản


17

thiên cổ hùng văn nh một tuyên ngôn của một nền độc lập mới xác lập. Điều
quan trọng hơn còn là một tuyên ngôn về việc bảo vệ sự sống, bảo vệ sinh mạng
của con ngời nói chung và của c dân Đại việt nói riêng, đó chính là nội hàm cơ
bản trong khái niệm đức hiếu sinh của Nguyễn Trãi. Con ngời trong Nho giáo
thở hình thành là con ngời của cộng đồng, con ngời dù có khó khăn đến mấy
cũng không tách khỏi xã hội sống riêng một mình. Vì vậy, Nho giáo khuyên con
ngời phải sống mang tính xã hội, nếu tách khỏi xã hội thì cũng có nghĩa là tự phủ
nhận ý nghĩa và giá trị làm ngời, do đó con ngời trớc hết là con ngời của bổn
phận, của nghĩa vụ, vừa không thể sống cẩu thả cầu may, vừa không thể sống lấy
một mình. Nh vậy, quan niệm của Nho giáo có giá trị lớn với thời đại mà chúng

ta đang sống, nếu chúng ta luôn quan tâm chăm lo tới sự nghiệp trồng ngời xây
dựng con ngời mới xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực trong phát
triển xã hội. Mặt khác, Nho giáo luôn đề cao khát vọng hạnh phúc của con ngời
và cố hết sức tìm cách đáp ứng khát vọng đó, điều này cũng tác động không nhỏ
tới t tởng con ngời Việt Nam. ở đây khát vọng đó đợc chế định bởi những quy
phạm tâm lý và chuyển thành những hình ảnh rất quen thuộc với tâm thức của
ngời dân nh: luỹ tre, giếng nớc, mái đình, cây đa, đến bàn thờ tổ tiên, nén nhang
ngày giỗ, ngày tết, tất cả, tất cả chính là những đ ờng nét tạo thành bức tranh
văn hóa thể hiện khát vọng hạnh phúc vừa cổ truyền, vừa cổ điển của con ngời
Việt Nam. Tinh thần yêu nớc cũng nh t tởng dân tộc và độc lập dân tộc trong triết
thuyết của Nho giáo cũng tác động mạnh mẽ tới xã hội và con ngời Việt Nam.
Hiếm thấy có một dân tộc nào nh dân tộc Việt Nam, một nớc nhỏ đất không
rộng, ngời không đông trong mấy ngàn năm tồn tại đã có hơn hai ngàn năm liên
tục phải đấu tranh chống lại các thế lực phong kiến phơng bắc và các nớc đế quốc
khácvì vậy t tởng yêu nớc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử cách mạng
Việt Nam. Cùng với quá trình đấu tranh để giành độc lập dân tộc, ngời Việt luôn


18

có ý thức về dân tộc, các nhà t tởng của dân tộc đã lấy căn cứ lịch sử để làm chủ
quyền của dân tộc, thể hiện rõ trong bài thơ bất hủ của Lý Thờng Kiệt Sông núi
nớc Nam. Bài thơ nh một bản tuyên ngôn trịnh trọng về nền độc lập chủ quyền
của nớc ta, một quốc gia riêng biệt, một nớc có vua hiển nhiên không thể bác bỏ
đợc. Tuy nhiên, để đáp ứng với yêu cầu của cuộc chiến tranh chống ngoại xâm,
lý luận về dân tộc và độc lập dân tộc đợc khái quát cao hơn đợc thể hiện trong t tởng của Nguyễn Trãi. Trong th gửi Vơng Thông ông viết: xét ra từ xa giao chỉ
không phải là đất của Trung quốc rõ lắm rồi vẫn trộm nghĩ, đất cõi giao Nam xa
bị Trung quốc xâm chiếm từ Tần, Hán trở đi. Phơng chi trời đã phân cách Nam
Bắc, có núi cao sông lớn, bờ cõi rành rành, dẫu mạnh nh Tần, giàu nh Tuỳ, nào
có thể sính dùng thế lực đợc đâu. Ông cũng khẳng định rằng, cần phải nói lên

lịch sử oai hùng của dân tộc để kẻ thù mở mắt không thể ngạo mạn coi thờng.
Nh vậy, lý luận trên của Nguyễn Trãi đạt đến đỉnh cao về dân tộc và độc lập dân
tộc dới thời đại phong kiến Việt Nam.



×