Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

(TIỂU LUẬN) môn LUẬT tài CHÍNH đề tài THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT về CHI NGÂN SÁCH CHO sự NGHIỆP y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.02 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

MƠN LUẬT TÀI CHÍNH

ĐỀ TÀI: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN
SÁCH CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ

LỚP : K43D-KT
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : Th.S Nguyễn Thị Triển
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
Nguyễn Thị Kim Tuyến
Đinh Thị Phương Linh
Võ Thị Thanh Tâm
Trần Thị Thảo Tiên
Nguyễn Quang Huy
Lê Lâm Quốc Vĩnh
Phạm Đức Thuận

Huế, 2022


MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2.Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................... 2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
4.Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 2
5.Bố cục của bài............................................................................................... 2
B. PHẦN NỘI DUNG............................................................................................. 4
Chương 1: Lý luận và những quy định pháp luật về chi ngân sách cho sự


nghiệp y tế........................................................................................................... 4
1.1.Khái niệm , đặc điểm chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế ...........4
1.2. Các nguyên tắc chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế.....................7
1.3. Những quy định pháp luật về chi ngân sách cho sự nghiệp y tế................8
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật chi ngân sách cho sự
nghiệp y tế tại Việt Nam................................................................................... 15
2.1. Những kết quả đạt được.......................................................................... 15
2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quy định pháp luật về ngân
sách cho sự nghiệp y tế.................................................................................. 18
2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên....................................... 19
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật............................................................................ 25
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................... 25
3.2. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.................................................... 26
C. PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................... 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 29


DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ được viết tắt

Từ viết tắt

Hội đồng nhân dân

HĐND

Ủy ban nhân dân

UBND


Ủy ban Thường vụ Quốc hội

UBTVQH

Chương trình mục tiêu quốc gia

CTMTQG


A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, một
trong những chiến lược quan trọng hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới là
chiến lược phát triển con người. Nhân tố con người luôn giữ vai trị quyết định, nó vừa
là mục tiêu, vừa là động lực đồng thời cũng là nguồn lực năng động nhất trong mọi
nguồn lực của sự phát triển. Để phát huy hết vai trò và ưu điểm của nguồn lực này,
việc chăm sóc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đối với con người là điều rất cần thiết.
Trong đó, sức khoẻ của con người được ưu tiên hơn cả, bởi vì có sức khoẻ, con người
mới có thể học tập, nghiên cứu, lao động...để tạo ra những sản phẩm có ích phục vụ
cho q trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nhận rõ được tầm quan
trọng của sức khoẻ và vai trò của ngành Y tế trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ.
Chi ngân sách nhà nước là một nội dung rất đa dạng và phức tạp, có phạm vi ảnh
hưởng rất lớn, một trong những khoản chi chiếm tỷ trọng khá lớn của ngân sách nhà
nước là nguồn chi cho sự nghiệp y tế. Tuy vậy, trong thời gian qua việc quản lý các
khoản chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế cịn có những bất hợp lý cần phải
xem xét để nâng cao hiệu quả của các khoản chi tiêu cho sự nghiệp y tế. Hàng năm,
Nhà nước đã dành một phần từ Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế. Nhưng do
ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp Y tế cũng
có những thay đổi theo hướng “Giảm dần các khoản chi có tính bao biện từ ngân sách

Nhà nước, chi có trọng tâm trọng điểm” nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu của Đảng và
Nhà nước ta là “Nâng cao tính cơng bằng và hiệu quả trong việc tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân” Trong những năm qua, ngành
Y tế đứng trước nhiều thử thách do diễn biến phức tạp của thời tiết, bệnh dịch cũng
như tình hình kinh tế xã hội ngành y tế đã khơng ngừng tăng cường công tác quản lý
Nhà nước, đa dạng hố các loại hình phục vụ, đổi mới trang thiết bị, nâng cao kỹ thuật
chuyên môn, đáp ứng kịp thời nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao của nhân
dân. Phần ngân sách Nhà nước cho hoạt động y tế, trong quá trình phân bổ, quản lý và
sử dụng còn nhiều kẽ

1


hở dẫn tới lãng phí và giảm hiệu quả. Những tồn tại trên địi hỏi phải có những biện
pháp khắc phục cũng như hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả trong việc chi
Ngân sách Nhà nước cho hoạt động y tế. từ những lý do trên, nhóm chúng tôi lựa
chọn nghiên cứu đề tài “THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
CHI NGÂN SÁCH CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ”

2.Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài này là:
-

Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chi ngân sách nhà nước và quản

lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng và vai trò của chi ngân sách nhà nước cho sự


nghiệp y tế.
-

Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao

hiệu quả thi hành pháp luật về chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế.

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng: Pháp luật về việc chi ngân sách cho sự nghiệp y tế

-

Phạm vi: + Địa bàn: Tại Việt Nam

+ Thời gian: Giai đoạn từ 2016 đến 2022.

4.Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phân tích, lập
luận, diễn dịch, so sánh, tổng hơp, thống kê, … trong quá trình tiếp cận nghiên cứu
đề tài.

5.Bố cục của bài
Bài tiểu luận gồm ba phần là Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.
Trong Phần nội dung gồm có ba chương:

2



Chương 1: Lý luận và những quy định của pháp luật về chi ngân sách cho sự
nghiệp y tế
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật chi ngân sách cho sự
nghiệp y tế tại việt nam
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật

3


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận và những quy định pháp luật về chi ngân sách cho sự
nghiệp y tế
1.1. Khái niệm , đặc điểm chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế .
1.1.1. Khái niệm:
Ngân sách nhà nước được hiểu như sau: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian
nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. 1 (ghi rõ căn cứ pháp lý nhá)
Ngân sách Nhà nước Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là một hệ
thống thống nhất, bao gồm: Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương. Ngân
sách các cấp được phân định cụ thể nguồn thu và nhiệm vụ chỉ của cấp mình theo
luật Ngân sách Nhà nước. Cơ cấu chi của ngân sách Nhà nước bao gồm hai khoản
chi lớn và chủ yếu đó là chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
Chi thường xuyên là nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm
hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hỗ trợ
hoạt động của các tổ chức khác và thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà
nước về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

2


Xét theo từng lĩnh vực chỉ thị chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế là
khoản chi thường xuyên cho các hoạt động liên quan đến y tế, sức khỏe con người.
Từ đó, ta có thể hiểu: Chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế là thể hiện quan
hệ phân phối, sử dụng vốn từ quỹ ngân sách Nhà nước nhằm duy trì và phát triển
sự nghiệp y tế.
Dù trong giai đoạn nào Nhà nước cũng luôn phải chú ý đến việc chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân, phát triển sự nghiệp y tế và nhiệm vụ của ngành y tế cũng
mang tính ổn định thường xun, đó là các hoạt động khám chữa bệnh, phòng bệnh

1
2

Khoản 14 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước năm 2015;

Khoản 6 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước 2015;

4


dịch, y tế dự phịng, nhằm chăm sóc và khơng ngừng nâng cao sức khoẻ cho nhân
dân.

1.1.2. Đặc điểm
Có bốn đặc điểm về việc chi ngân sách cho sự nghiệp y tế như sau:
Thứ nhất, những khoản chi cho sự nghiệp y tế phát sinh một cách đều đặn
thường xuyên, bao gồm : Các khoản chi cho con người, chi cho nghiệp vụ chuyên
môn, chi cho công tác quản lý hành chính, chi cho mua sắm tài sản, sửa chữa lớn
tài sản cố định hoặc xây dựng nhỏ... Chính vì vậy , có thể nói chi Ngân sách Nhà
nước cho sự nghiệp y tế mang tính ổn định khá rõ nét.

Thứ hai, xét về hình thức biểu hiện bên ngồi thì chi ngân sách Nhà nước cho
sự nghiệp y tế mang tính chất tiêu dùng xã hội, kết quả của các hoạt động y tế
không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà chỉ nhằm phục vụ cho nhân
dân. Nhưng xét về lâu dài thì chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế mang tính
tích luỹ đặc biệt, mang lại hiệu quả trong tương lai. Các khoản chi sẽ thúc đẩy sự
phát triển của một quốc gia không những về mặt kinh tế mà cả mặt xã hội. Trong
thời đại ngày nay khi khoa học công nghệ trở thành một trong những yếu tố sản
xuất trực tiếp, hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm rất cao, một nền kinh tế tri
thức, thì một quốc gia muốn phát triển được thì phải quan tâm đến việc chăm sóc
sức khoẻ, nâng cao trí tuệ cho nhân dân, đặc biệt các quốc gia đang phát triển. Để
đáp ứng đòi hỏi cấp thiết này nhiệm vụ đặt ra đối với nhiều ngành, trong đó ngành
y tế giữ vai trò quan trọng. Phạm vi và mức độ chi ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế gắn chặt với cơ cấu, tổ chức của bộ máy ngành y tế và sự lựa chọn của
nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân. Một khi Nhà nước là chủ
thể duy nhất cung cấp dịch vụ y tế thì mức độ chi ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp y tế là rất lớn.
Thứ ba, ở nước ta việc cung cấp dịch vụ y tế được tổ chức theo bốn cấp: Cấp
một là Bệnh viện Trung ương và các Bệnh viện chuyên khoa do Bộ y tế trực tiếp
quản lý; cấp hai là các Bệnh viện tỉnh; cấp ba là các phòng khám đa khoa khu vực
là các Bệnh viện huyện; cấp bốn là các trung tâm y tế xã.

5


Thứ tư, ngoài ra trong nền kinh tế thị trường khi Nhà nước không phải là chủ
thể duy nhất cung cấp dịch vụ y tế mà những khoản thanh toán bằng tiền túi của các
hộ gia đình tăng mạnh, do đó, mức độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
giảm đi phần nào khi Nhà nước cung cấp dịch vụ y tế cho mọi đối tượng trong xã
hội (đoạn này tự tóm gọn ý nhá chứ tơi cũng chẳng biết tóm sao)
1.1.3. Vai trị của chi ngân sách nhà nước cho sự nghiêp y tế

Thứ nhất, chi ngân sách Nhà nước cho sự nhiệp y tế có ý nghĩa to lớn đối với
quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hoạt động của ngành y tế khơng chỉ
có ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của mỗi người dân mà sức khoẻ là tiền đề tạo ra trí
tuệ, sức khỏe tài sản quý giá nhất trong các tài sản. Trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội ở mỗi quốc gia, quốc gia nào có lợi thế về nguồn nhân lực (sức khỏe và
trình độ chuyên mơn) sẽ có lợi thế rất lớn trong q trình phát triển và sẽ phát triển
nhanh hơn các quốc gia hạn chế về điều kiện này. Tốc độ phát triển kinh tế xã hội
phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực chuyên môn của mỗi người lao động. Đội
ngũ lao động không nắm vững khoa học công nghệ hiện đại, khơng có những phẩm
chất nhân cách phù hợp với cơng việc thì rất khó có thể nâng cao trình độ sản xuất
và tốc độ phát triển kinh tế.
Qua đó ta thấy chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế không chỉ là một
dịch vụ xã hội đơn thuần mà nó có tác động rất lớn đến sự phát triển của một quốc
gia.
Thứ hai, chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cịn có một vai trò xã hội
rất lớn và cũng rất dễ nhận biết đó là thực hiện cơng bằng xã hội, cụ thể có thể hiểu
ở đây chính là hoạt động chi cho Bảo hiểm y tế. Trong xã hội ta, sự phân biệt giàu
nghèo cịn khá lớn đó cũng là một quy luật tất yếu của nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường. Những người giàu thì khả năng thanh toán bằng tiền túi của họ cho
dịch vụ y tế là rất cao, điều kiện chăm sóc sức khoẻ tốt. Bên cạnh đó cịn một tầng
lớp người nghèo có nguy cơ bị thiệt thịi khơng được khám chữa bệnh khi ốm đau.
Nguyên nhân của tình trạng này là hầu hết các bệnh viện đều đặt ở thành thị thuận
lợi hơn cho người dân thành thị đến khám chữa bệnh, bên cạnh đó chi phí trực tiếp

6


của cá nhân cho việc sử dụng các dịch vụ ở bệnh viện là lớn nên thường những cá
nhân có thu nhập khá hơn sử dụng.
Do đó, chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế là để đảm bảo cho mọi

người dân đều được chăm sóc sức khoẻ ở một mức độ cơ bản theo khả năng tối đa
của ngân sách Nhà nước. Thơng qua các chính sách để hỗ trợ ưu tiên cho người
nghèo khơng có khả năng chi trả cho dịch vụ y tế cũng chính là đảm bảo sự công
bằng cho các thành viên trong xã hội. Chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
cịn nhằm duy trì , phát triển những chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng
và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, hơn nữa đó cũng là chiến lược
để đạt được mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đã để ra
thông qua việc xác định cơ cấu, tỷ trọng các khoản chi cho sự nghiệp y tế.
Thứ ba, qua chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế, Nhà nước kiểm tra
được việc sử dụng các khoản chi cho hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân, thu
hút được sự đóng góp của các tầng lớp trong xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp
y tế, phát huy một cách tối đa hiệu quả các khoản chi của Ngân sách Nhà nước cho
sự nghiệp y tế thực hiện một cách tốt nhất các mục tiêu đã đề ra. Trên đây là một số
vai trò cơ bản của chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế, song để phát huy tốt
các vai trò này thì địi hỏi cơng tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
y tế phải được tăng cường và hoàn thiện.

1.2. Các nguyên tắc chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế.
Chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế là khoản chi thường xuyên của
ngân sách Nhà nước cho nên quá trình tổ chức quản lý chi Ngân sách Nhà nước
cho sự nghiệp y tế cũng phải tuân theo nguyên tắc của các khoản chi thường xuyên
nhằm nâng cao hiệu quả chi, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước trong điều kiện
ngân sách Nhà nước đó là : gồm 3 nguyên tắc
Nguyên tắc quản lý theo dự toán chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
phải được thực hiện theo dự toán. Đây là nguyên tắc bắt buộc của một chu trình
Ngân sách . Mọi nhu cầu chi cho sự nghiệp y tế phải được xác định trong dự toán
kinh phi từ các đơn vị cơ sở. Thông qua các bước xét duyệt của các cơ quan quyền

7



lực Nhà nước từ thấp đến cao, sau đó quyết định cuối cùng cho dự toán chi thường
xuyên thuộc về Quốc hội. Quá trình tổ chức thực hiện chỉ cho sự nghiệp y tế cũng
phải căn cứ vào dự toán đã được duyệt mà phân bổ và sử dụng, khâu cuối cùng là
khẩu quyết toán cũng phải lấy dự toán làm căn cứ đối chiếu và so sánh .
Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Tiết kiệm, hiệu quả là nguyên tắc quan trọng
của quản lý kinh tế tài chính và quản lý các khoản chi thường xuyên trong đó có
chi cho sự nghiệp y tế. Ngân sách Nhà nước luôn có giới hạn nhưng yêu cầu chi
cho các lĩnh vực không ngừng tăng lên với tốc độ cao. Chi ngân sách Nhà nước cho
sự nghiệp y tế cũng vậy, cùng với sự phát triển dân số, những nhiệm vụ chăm sóc
sức khoẻ cho nhân dân ngày càng cao cùng với sự phát triển của nền khoa học địi
hỏi khơng ngừng phải trang bị lại thiết bị y tế, cơ sở vật chất,... Trong khi đó Nhà
nước khơng thể tăng chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cùng với một tốc
độ như vậy, do đó trong q trình chi đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc này để đáp
ứng được nhu cầu chi tiêu thường xuyên .
Nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước. Các khoản chi ngân sách
Nhà nước cho sự nghiệp y tế phải được thực hiện chi trực tiếp qua Kho bạc Nhà
nước nhằm nâng cao việc kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi cho sự nghiệp y tế.
Thực hiện kiểm soát chi ngân sách Nhà nước sẽ nâng cao trách nhiệm, cũng như
phát huy vai trò của các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị có liên quan đến cơng
tác quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước góp phần lập lại kỷ cương tài chính .

1.3. Những quy định pháp luật về chi ngân sách cho sự nghiệp y tế
1.3.1. Điều kiện chi ngân sách Nhà nước:
Các điều kiện chi ngân sách nhà nước được quy định tại khoản 2 Điều 12
Luật ngân sách nhà nước năm 2015:
Thứ nhất, có trong dự tốn ngân sách được giao (trừ trường hợp quy định tại
điều 51 Luật Ngân sách nhà nước): Dự toán ngân sách nhà nước được lập ra để bảo
đảm việc chi ngân sách theo đúng dự toán, kế hoạch, hạn chế tối đa bội chi. Vì vậy,
trong việc chấp hành chi ngân sách cần bảo đảm khoản chi có trong dự tốn ngân


8


sách được giao, đúng mục đích vận hành, nhu cầu để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan sử dụng ngân sách. Để quản lí, kiểm sốt chi ngân sách nhà nước,
cần phải đặt ra điều kiện khoản chi phải có trong dự tốn.
Thứ hai, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người có thẩm quyền
quyết định chi: Thủ trưởng đơn vị là người có trách nhiệm trong việc quản lí sử
dụng ngân sách và tài sản của nhà nước, có nhiệm vụ trong việc đưa ra quyết định
chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức trong phạm vi dự tốn của đơn vị mình. Khi
chi ngân sách nhà nước, cần phải có quyết định của thủ trưởng đơn vị thì mới có
thể xác định trách nhiệm và tăng cường khả năng kiểm soát khoản chi tại đơn vị sử
dụng ngân sách (hình thức: kí duyệt chi).
Thứ ba, các điều kiện cụ thể khác :
- Theo khoản 6 Điều 34 Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách Nhà nước. Đối với trường hợp sử
dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang
thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm
định giá thì trước khi khoản chi được thực hiện, cịn phải tổ chức đấu thầu hoặc
thẩm định giá theo quy định của pháp luật. Đây chính là khoản chi hành chính đảm
bảo cho hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước. Quy định này đảm bảo chi
hoạt động chi trong lĩnh vực này là chi đúng, chi đủ, tổ chức đấu thầu hoặc định giá
tài sản với mục đích xác định giá trị thực sự của tài sản, từ đó thực hiện khoản chi
hợp pháp, đúng đắn và minh bạch để tránh trường hợp giá cả báo cáo không rõ
ràng tạo ra sự thất thoát.
- Tại khoản 4 Điều 34 Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước. Quy định các khoản chi có
tính chất thường xun được chia đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất
thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua

sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất khơng thường xun khác phải
thực hiện theo dự tốn q được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán
năm. Quy định này đưa ra nhằm đảm bảo thêm tính rõ ràng và phù hợp với dự tốn
năm của những khoản chi khơng mang tính chất thường xuyên đối với các đơn vị

9


dự tốn cấp dưới. Đối với những khoản chi có tính chất thường xuyên ( là khoản
thu mang tính định kì) thì quy định này đảm bảo cho thực hiên chi một cách đầy đủ
và đúng đắn nhất.
- Khoản chi dự định thực hiện phải có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán đầy đủ. Đây là
một điều kiện cụ thể, theo đó các khoản chi dự định thực hiện (bao gồm các khoản
chi thường xuyên; chi sự nghiệp kinh tế; chi chương trình mục tiêu; chi kinh phí uỷ
quyền và các khoản chi khác của ngân sách nhà nước) phải có đủ hồ sơ, chứng từ
thanh tốn hợp lệ. Tùy theo tính chất của từng khoản chi mà hồ sơ, chứng từ được
yêu cầu khác nhau.
Tuy đây không phải là điều kiện chính nhưng cũng là điều kiện rất cần thiết. Nó tạo
cơ sở chắc chắn, cụ thể, chính xác cho các khoản chi khi thực hiện vì đã có chứng
từ, hóa đơn kèm theo. Hơn nữa, việc này sẽ tạo ra các đối tượng sử dụng ngân sách
một thói quen sử dụng chứng từ khi có các nhu cầu chi phát sinh, đảm bảo tính
minh bạch cho những khoản chi, và còn dễ dàng hơn cho việc thống kê hay điều
tra.
1.3.2.Dự toán ngân sách
Lập dự toán ngân sách Nhà nước là quá trình xây dựng và quyết định dự toán
thu, chi ngân sách của nhà nước trong thời hạn 1 năm. Thực chất bản dự toán ngân
sách nhà nước là những chương trình, kế hoạch hay chính sách của nhà nước trong
một tài khóa xác định. Dự tốn ngân sách rất quan trọng và khá phức tạp, trong đó
bảo đảm tính thống nhất, tồn diện và tính cân đối: các khoản chi là mục tiêu phải
thực hiện, các khoản thu là phương tiện để thực hiện các mục tiêu đó. Mỗi một

khoản chi của ngân sách nhà nước đều hết sức quan trọng và nó tác động, ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội…
Căn cứ vào chỉ thị của Thủ tướng Chính Phủ, thơng tư hướng dẫn và số kiểm
tra về dự tốn ngân sách của Bộ Tài Chính. Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội cụ thể của địa phương, khả năng cân đối ngân sách địa phương, Sở hướng
dẫn và thông báo số kiểm tra về dự toán cho các đơn vị sự nghiệp y tế và UBND
cấp dưới.Trên cơ sở số kiểm tra về dự toán ngân sách và phương hướng phát triển

10


của tỉnh dựa trên Nghị quyết Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết của HĐND tỉnh, thực tế
hoạt động của ngành y tế, các đơn vị dự toán tiến hành lập dự tốn của đơn vị
mình.
-

Tại điểm b, khoản 3 Điều 3 Thông tư 122/2021/TT-BTC quy định về tổ

chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2022:
“ b) Bố trí ngân sách cho y tế dự phịng, y tế cơ sở, bệnh viện vùng khó khăn,
biên giới, hải đảo, các lĩnh vực phong, lao, tâm thần và các lĩnh vực khác theo quy
định tại điểm a khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 01/2021/UBTVQH15 ngày 01 tháng
09 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về các nguyên tắc, tiêu chí
và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022.
Đồng thời, chủ động bố trí kinh phí đảm bảo cho cơng tác phịng, chống dịch bệnh
Covid - 19. ”
-

Tại Khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 01/2021/UBTVQH15 quy định về các

nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự tốn chi thường xuyên ngân sách nhà

nước năm 2022
“ a) Căn cứ khả năng ngân sách địa phương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định phân bổ cho y tế dự phòng đạt tối thiểu 30% ngân sách y
tế, ưu tiên cho y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, các lĩnh
vực phong, lao, tâm thần và các lĩnh vực khác theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường
cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
b) Phân bổ theo tiêu chí bổ sung: Dự tốn chi sự nghiệp y tế, dân số và gia
đình được xác định bao gồm kinh phí ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ đóng
bảo hiểm y tế cho các đối tượng năm 2021 theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế. ”

11


1.3.3.Quy trình thực hiện (vẽ cái bảng bên dưới vào)

Bước 1: Lập dự toán
Sở Y tế và các bệnh viện tuyến tỉnh lập dự tốn gửi Sở Tài chính.

12


Sở Tài chính giao số kiểm tra cho Sở Y tế trên cơ sở dự toán sơ bộ về chi
ngân sách y tế kỳ kế hoạch. Sở Tài chính xác định các định mức chi tổng hợp dự
kiến sẽ phân bổ cho các đơn vị dự toán cấp dưới, trên cơ sở đó hướng dẫn các đối
tượng này tiến hành lập dự tốn ngân sách y tế.
Sở Tài chính báo cáo UBND tỉnh trình HĐND tỉnh quyết định phân bổ ngân
sách cho các đơn vị dự toán thuộc tỉnh. Căn cứ vào nghị quyết của HĐND tỉnh,
UBND tỉnh tiến hành giao dự toán cho từng đơn vị.
Bước 2: Chấp hành dự tốn

Tại cấp tỉnh, Sở Tài chính phối hợp với Sở Y tế tổ chức thực hiện chấp hành
chi, cấp phát kinh phí cho các bệnh viện tuyến tỉnh. Các đơn vị thược nghành căn
cứ vào dự toán mà các cấp có thẩm quyền phê duyệt, các chế độ, chính sách chi
tiêu của nhà nước quyết định, lập nhu cầu chỉ tiêu theo mục lục ngân sách gửi Kho
bạc Nhà nước nơi giao dịch và gửi Sở Y tế
Bước 3: Quyết toán chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế
Tại cấp tỉnh: Các đơn vị lập bản báo cáo quyết toán gửi Sở Y tế tổ chức xét
duyệt quyết tốn và thơng báo kết quả quyết tốn cho các đơn vị trực thuộc, đồng
thời gửi Sở Tài chính thẩm tra, phê duyệt. Sở Tài chính tiến hành phê duyệt quyết
tốn và thơng báo kết quả xét duyệt quyết toán gửi cho Sở Y tế.

1.3.4. Tổ chức thực hiện
Điểm d, khoản 3 Điều 4 Thông tư 122/2021/TT-BTC quy định về tổ chức
thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2022:
-

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường

xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường
xuyên:
+ Đối với số thu từ việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, y tế dự
phòng và dịch vụ y tế khác của các cơ sở y tế công lập: sử dụng tối thiểu 35% số
thu được để lại theo chế độ sau khi trừ các khoản chi phí đã được kết cấu trong giá
dịch vụ theo quy định của pháp luật về giá dịch vụ (như: chi phí thuốc, máu, dịch
truyền, hóa chất, vật tư thay thế, vật tư tiêu hao trực tiếp phục vụ cho người bệnh;

13


chi phí điện, nước, nhiên liệu, xử lý chất thải, vệ sinh mơi trường; chi phí duy tu,

bảo dưỡng thiết bị, mua thay thế công cụ, dụng cụ,... và chi phí tiền lương, phụ cấp
đã kết cấu trong giá).
Ngồi ra, về việc ngân sách nhà nước bảo đảm chi hoạt động thường xuyên

3

trong quá trình hoạt động các đơn vị được ngân sách Nhà nước cấp kinh phí để
mua sắm tài sản hay sửa chữa các tài sản hiện có nhằm phục vụ kịp thời nhu cầu
khám chữa bệnh và nâng cao hiệu quả của các trang thiết bị y tế, chất lượng phục
vụ của tài sản không bị giảm sút. Đây là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động bình
thường của bộ máy quản lý ngành y tế.

1.3.5.Thẩm quyền
-

Quốc hội: Quyết định phân bổ ngân sách Trung ương (Điểm b, khoản 5 Điều

19 Luật Ngân sách Nhà nước 2015) “ Dự toán chi đầu tư phát triển, chi thường
xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi viện trợ của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực.”. Cơ quan đứng
đầu cao nhất là Quốc hội ra quyết định phân bổ ngân sách chi cho các vấn đề quốc
gia theo từng lĩnh vực là hợp lí, mang tính quyền lực nhà nước cao buộc các cơ
quan và doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật, kỉ luật và nghiêm chỉnh.
- Chi ngân sách cho sự nghiệp y tế là hình thức chi thường xun đồng thời nó
cũng thuộc thẩm quyền của một trong các cơ quan ở trung ương về lĩnh vực y tế.
Lĩnh vực y tế luôn là lĩnh vực quan trọng cần được phân bổ ngân sách và đầu tư
thường xuyên nhằm duy trì hoạt động của các tổ chức y tế thực hiện các nhiệm vụ
cần thiết. Vì vậy, việc chi thường xuyên cho thấy sự quan tâm của nhà nước đối với
sự nghiệp y tế cả nước nói riêng và đối với sức khoẻ cộng đồng nói chung.
- Đơn vị dự tốn ngân sách: (ghi căn cứ pháp lý) Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn


vị dự toán được quy định rõ ràng tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 4 . Việc
3

(Thông tư 62/2020/TT-BTC ngày 22 tháng 6 năm 2020 Hướng dẫn kiểm soát, thanh toán các khoản chi

thường xuyên từ ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước)
Khoản 2 Điều 32 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 có quy định các đơn vị dự toán tổ chức thực hiện dự
toán thu, chi ngân sách được giao; nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản phải nộp ngân sách theo quy định của
4

14


quy định chi tiết các nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị thực hiện dự toán ngân sách
cho thấy tầm quan trọng của hoạt động lập dự toán, thực hiện, chấp hành đầy đủ,
đúng quy định của pháp luật về dự toán ngân sách các cơ quan, đơn vị sự nghiệp
được quy định tại điều này.
- Thủ tướng Chính phủ: (ghi căn cứ pháp lý) Quy định chi tiết định mức phân bổ
đối với từng tiêu chí, các mốc thời gian, cơ quan cung cấp số liệu làm căn cứ xác
định dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 và các năm trong
thời kỳ ổn định ngân sách mới, bắt đầu từ năm ngân sách 2022.5
=> Vai trị nhiệm vụ của Thủ tướng chính phủ trong việc quy định chi tiết định mức
phân bổ đối với từng tiêu chí là rất quan trọng bởi vì căn cứ vào các quy định chi
tiết, các cơ quan thuộc đối tượng chi ngân sách xác định được các khoản chi mà
nhà nước phân bổ, hỗ trợ phát triển sự nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực y tế.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật chi ngân sách cho sự nghiệp
y tế tại Việt Nam
2.1. Những kết quả đạt được

2.1.1. Những kết quả đạt được trong giai đoạn từ 2016 đến 2021


Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế 2016-20196

Dự toán chi

pháp luật; duyệt quyết toán đối với các đơn vị dự toán cấp dưới.
5
6

Khoản 2 Điều 6 Nghị Quyết 01/2021/UBTVQH15 Quy định về tổ chức thực hiện

Công khai ngân sách nhà nước – Thông tin công khai ngân sách. Link:

/>
15


ngân sách nhà
nước.
Quyết toán chi
ngân sách nhà
nước.
(kẻ cái bảng này vào)
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2018, dự toán chi ngân sách nhà nước
chi cho sự nghiệp phát triển y tế là 8,9 nghìn tỷ đồng, năm 2017 là 10,16 nghìn tỷ
đồng, năm 2018 dự chi ngân sách nhà nước là 13.65 nghìn tỷ đồng. Dự chi ngân
sách nhà nước có xu hướng tăng chi cho bộ y tế nhưng xét về tỷ lệ chi ngân sách
nhà nước cho tồn ngành y tế có xu hướng giảm trong giai đoạn này. Thảo luận tại

hội trường Quốc hội sáng ngày 29/10/2018, đề cập đến lĩnh vực y tế, đại biểu Quốc
hội Ngô Thị Kim Yến của thành phố Đà Nẵng bày tỏ quan ngại trước tỉ lệ ngân
sách Nhà nước cho tồn ngành y tế có xu hướng giảm. 7Cụ thể, trong đó, năm 2016
là 97.600 tỷ đồng, chiếm 7,67% so với tổng chi ngân sách nhà nước và ước thực
hiện năm 2018 là 92.715 tỷ đồng, chiếm 5,85% tổng chi ngân sách nhà nước.
Tổng dự toán ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp y tế được Quốc hội quyết
định năm 2019 là 14.86 nghìn tỷ đồng, bằng 6,98% tổng chi ngân sách nhà nước.

8

Dự toán chi ngân sách năm 2020 trình lên Quốc hội thơng qua có số liệu về số
tiền chi ngân sách cho Bộ y tế là 15.37 nghìn tỷ đồng và ngân sách chi cho Bộ y tế
tính đến tháng 11 năm 2021 thì tổng dự chi ngân sách nhà nước cho bộ y tế để phát
triển sự nghiệp y tế là 9.14 nghìn tỷ. Virus Covid-19 xuất hiện kéo theo nhiều khó
khăn cho nền y tế, áp lực từ nhiều phía để khi dịch bệnh bùng phát. Với nhiều gói
chi trả từ ngân sách để chống dịch bệnh và hỗ trợ các bệnh nhân gặp khó khăn thì

7

Thu Hằng – Đề nghị Chính phủ tiếp tục tăng chi ngân sách nhà nước cho y tế - Báo điện tử Đảng Cộng

sản Việt Nam. Link: de-nghi-chinh-phu-tiep-tuc-tang-chi-ngan-sach-nha-nuoc-cho-y-te-503089.html
8

Tổng kết công tác y tế năm 2019 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2020. Link:

/>
16



việc dự chi ngân sách nhà nước cho y tế vào năm 2021 thà khá thấp so với các năm
trước do có nhiều lý do trong đó việc thu ngân sách năm 2021 cũng gặp nhiều khó
khăn do tình hình dịch bệnh. Cho nên Dự chi ngân sách nhà nước năm 2021 có
phần thấp hơn so với những năm gần đây.

9

2.1.2. Dự toán ngân sách cho sự nghiệp y tế năm 2022
Dự toán ngân sách nhà nước chi cho Bộ y tế năm 2022 có sự thay đổi tại kỳ
họp thứ nhất Quốc hội thơng qua quyết định Dự tốn ngân sách nhà nước chi cho
Bộ Y tế là 11.2 nghìn tỷ đồng với nhiều chuyển biến phức tạp của các biến thể của
Covid-19 cho nên Quốc hội có sự thay đổi cho thơng qua dự tốn chi cho sự nghiệp
phát triển y tế của Bộ Y tế.
Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về phân bổ ngân sách
Trung ương năm 2022. Trong phương án phân bổ ngân sách Trung ương, mặc dù
ngân sách nhà nước cịn khó khăn, nhưng việc bố trí chi cho lĩnh vực y tế, đặc biệt
là chi cho phòng, chống dịch ln là ưu tiên hàng đầu.
Năm nay, Dự tốn chi sự nghiệp y tế tăng 38,5%:10
Theo báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), trong dự kiến phân bổ ngân sách Trung ương năm 2022, chi sự nghiệp
y tế tăng khá cao so với dự toán năm 2021, cụ thể là 28.560 tỷ đồng, tăng 38,5% so
với dự toán năm 2021 là 20.611 tỷ đồng. Đồng thời, ngân sách đã bố trí dự tốn
khoảng 10.000 tỷ đồng thực hiện chế độ, chính sách cho lực lượng tuyến đầu chống
dịch, kinh phí mua thuốc, vắc xin, trang thiết bị, phương tiện y tế. Nghị quyết số
01/2021/UBTVQH15 về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ chi thường xuyên
giai đoạn 2022-2025 đã quy định tiếp tục bố trí chi cho y tế dự phịng đạt tối thiểu
9

Anh Minh – Ngân sách đã chi hơn 56 nghìn tỷ đồng chống dịch và hỗ trợ người gặp khó khăn – Báo


điện tử Chính phủ. Link: />10

Hồng Yến – Phân bổ ngân sách trung ương năm 2022: Ngân sách ưu tiên hàng đầu cho y tế, chống dịch –

Thời báo tài chính. Link: />
17


30% ngân sách y tế và ưu tiên cho y tế cơ sở. Bên cạnh đó, Quỹ phịng, chống
Covid-19 là nguồn lực quan trọng cho cơng tác phịng, chống dịch.
Tuy nhiên, để tiếp tục tăng cường nguồn lực trong bối cảnh dịch Covid-19
vẫn diễn biến phức tạp, UBTVQH đã đề nghị Chính phủ trong điều hành ngân sách
Nhà nước năm 2022, chủ động cân đối nguồn lực, tiếp tục thực hiện tiết kiệm; cắt,
giảm những nhiệm vụ chi chưa cần thiết để dành nguồn bổ sung cho lĩnh vực y tế,
đặc biệt là y tế cơ sở, y tế dự phòng.
Phương án phân bổ ngân sách Nhà nước năm 2022 trình Quốc hội đã tăng
cường tiết kiệm chi, giảm bình quân 10% chi thường xuyên; đối với các cơ quan,
đơn vị đang áp dụng cơ chế tài chính, thu nhập đặc thù theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền cũng yêu cầu giảm bình quân 15% chi thường xuyên.

2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quy định pháp luật về ngân
sách cho sự nghiệp y tế
Hiện nay, bên cạnh sự hỗ trợ ngân sách Trung ương thơng qua bổ sung ngân
sách hỗ trợ, Chính phủ cũng thiết lập một loạt các chương trình mục tiêu quốc gia
(CTMTQG), mặc dù nước ta đã và đang chú trọng vào việc chi ngân sách cho lĩnh
vực y tế nhưng vẫn còn gặp nhiều hạn chế, bất cập:
-

Thứ nhất, trong những khó khăn hiện nay khi thực hiện các chương trình


mục tiêu quốc gia về y tế đặc biệt là sự đầu tư vẫn cịn rất hạn chế. Ngồi ra, còn
chưa tương xứng với nhiệm vụ, vẫn còn một số bệnh viện hay trung tâm y tế huyện
chưa được đầu tư, trang thiết bị còn thiếu, lạc hậu. Trên thực tế hiện nay tính
khoảng cịn 40% trạm y tế xã chưa đạt tiêu chí quốc gia.
-

Thứ hai, việc phân bổ cũng như mức phân bổ ngân sách chưa thật sự hợp lý.

Khi ban hành định mức phân bổ ngân sách địa phương cho y tế dự phòng, y tế cơ
sở nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể nên nhiều địa phương chưa bảo đảm 30% ngân
sách y tế cho y tế dự phịng, có địa phương phân bổ chi cho y tế dự phòng theo biên

18


chế với mức như phân bổ chi quản lý hành chính nên khơng có kinh phí để hoạt
động.
-

Thứ ba, hạn chế có thể kể đến đó là năng lực quản lý và điều hành ở các

tuyến còn rất yếu.
-

Thứ tư, các quyết định dự toán và phân bổ ngân sách cho ngành y tế vẫn còn

sự trùng lắp, chồng chéo và mang tính hình thức.
-

Thứ năm, về quy trình như lập, xem xét, xét duyệt, phê duyệt quyết định


ngân sách còn khá phức tập và phiền phức.
-

Thứ sáu, khi quy trình ngân sách địa phương phức tạp, rườm rà thì cũng kéo

theo việc chấp hành cũng gặp nhiều vướng mắc.
-

Thứ bảy, tổ chức bộ máy quản lý ngân sách hiện nay còn phân tán, năng lực

phối hợp hoạt động thấp. Tổ chức bộ máy quản lý ngân sách địa phương hiện nay
có 3 đầu mối: Sở Tài chính, Thuế, Kho bạc, nhưng chỉ có Sở Tài chính trực thuộc
Ủy ban nhân dân tỉnh, còn lại cơ quan Thuế và Kho bạc trực thuộc trung ương
(ngành dọc). Sự phối hợp giữa các cơ quan nói trên, có nơi thực hiện tốt, nhưng
cũng có nơi cịn gặp các khó khăn, vướng mắc chưa được xử lý và tháo gỡ kịp thời.
-

Thứ tám, trong hoạt động thanh tra kiểm tra vẫn còn nhiều vướng mắc.

2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trên
Thứ nhất, khi Luật ngân sách nhà nước quy định ngân sách địa phương có
trách nhiệm đầu tư cho y tế địa phương nhưng do ngân sách khó khăn nên nhiều
tỉnh chưa bố trí, trong khi chưa có nguồn vốn riêng, đủ mạnh từ ngân sách trung
ương để hổ trợ ngân sách địa phương đầu tư cho y tế cơ sở.

11

Chế độ chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng, về cơ bản như y tế tuyến tỉnh,
trung ương, có khi còn thấp hơn phụ cấp trực chẳng hạn; phụ cấp ưu đãi cho y tế xã

mặc dù cao hơn y tế tỉnh, huyện nhưng còn thấp, chưa tạo ra sự khác biệt lớn để
khuyến khích cán bộ y tế về tuyến cơ sở. Nhiều địa phương giao tự chủ chi thường
xuyên cho cả bệnh viện hay trung tâm y tế huyện có số thu khơng đủ chi nên phần
lớn cán bộ y tế cơ sở chỉ được hưởng lương theo mức lương cơ sở và hệ số lương,
11

Một số chính sách lớn về y tế của Việt Nam hiện nay – Thư viện y khoa.

19


chế phụ cấp theo quy định, khơng có thu nhập tăng thêm ngồi lương. Chưa có các
giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng bác sỹ tuyến cơ sở được cử đi đào tạo
nhưng lại xin chuyển hoặc thôi việc để làm việc tại các bệnh viện tuyến trên hoặc
các bệnh viện tư; chuyển từ tuyến dưới lên tuyến trên, từ các chuyên khoa ít hấp
dẫn sang các chuyên khoa hấp dẫn, từ nông thôn, miền núi về các thành phố lớn.
Thứ hai, phân bổ chi thường xuyên ngoài lương cho trạm y tế xã cịn thấp, có
địa phương chỉ đạt 10-20 triệu đồng/trạm/năm. Phân bổ và giao ngân sách trung
ương hỗ trợ để thực hiện chương trình mục tiêu y tế - dân số còn chậm và chưa đầy
đủ, nhiều tỉnh chưa bố trí ngân sách địa phương cho các hoạt động của chương
trình theo Quyết định 1125/QĐ-TTg của Thủ tướng. Nhiều hoạt động dự phòng,
nâng cao sức khỏe, chăm sóc sức khỏe ban đầu chưa được phân bổ kinh phí để
triển khai hoặc có nhưng rất thấp. Các trung tâm y tế huyện đa chức năng bao gồm
cả khám bệnh, dự phòng, nâng cao sức khỏe, dân số, an toàn thực phẩm, trực tiếp
quản lý trạm y tế xã nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể về nguồn và cơ chế quản lý
tài chính.
Việc phân bổ ngân sách chưa thật sự hợp lý cụ thể như tại một số tỉnh đồng
bằng mặc dù khơng có dịch sốt rét song vẫn được nhận một khoảng kinh phí trợ
cấp từ Trung ương cho chương trình phịng chống sốt rét, từ đó ta thấy được tình
trạng phân bổ ngân sách chưa hoàn toàn dựa trên nhu cầu hợp lý (khi xét về tỷ lệ

mắc và chết, điều kiện dân tộc và miền núi, khả năng cung cấp dịch vụ,…)
Thứ ba, nguyên nhân bởi trong năng lực quản lý và hệ thống thông tin quản
lý, hệ thống theo dõi y tế cơ sở còn chậm và chưa được đổi mới. Thiếu đi hệ thống
đánh giá chính sách, khiến cho việc điều hành hiệu quả thấp.
Thứ tư, tính trùng lặp và chồng chéo thể hiện rất rõ khi Quốc hội quyết định
dự toán ngân sách nhà nước là đã bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. 12Trong khi đó, căn cứ tại Điều 12 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân hiện hành thì Hội đồng nhân dân quyết định dự toán ngân sách
Nguyễn Phương Thảo – Một số hạn chế, bất cập trong quy trình ngân sách trong Luật ngân sách nhà
nước
12

– Trang thông tin điện tử tổng hợp. Link: />fbclid=IwAR3l4bQerPnGfwFLZoK-O2h8Qh5Kb0zfC6RFkfi0J0ERHiWeA_Y_B7Z5oeM

20


địa phương. Tuy nhiên, Hội đồng nhân dân chỉ bỏ phiếu thông qua các nguồn thu
và nhiệm vụ đã được cấp trên quyết định. Hội đồng nhân dân không tự quyết định
thu - chi ngân sách cấp mình mà phải tuân theo sự phân bổ, giao dự toán của cấp
trên, phải quyết định dự toán ngân sách địa phương vào thời gian theo quy định của
Chính phủ, điều chỉnh lại theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch
UBND cấp trên. Như vậy, vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp đối với ngân sách
địa phương hoàn tồn bị động, gị bó. Hơn nữa, cũng do Quốc hội quyết định dự
toán ngân sách nhà nước nên ngân sách phải được lập từ dưới lên (xã lên huyện,
huyện lên tỉnh, tỉnh lên trung ương) và khi giao nhiệm vụ thu, chi lại theo chiều
ngược lại nên đây là một quy trình hết sức khó khăn, phức tạp, dẫn tới tình trạng dự
tốn ngân sách giao cho các đơn vị ngân sách cấp dưới không bảo đảm về chất
lượng cũng như thời gian theo quy định.
Thứ năm, việc xây dựng dự tốn được bắt đầu từ cơ sở, trình tự lập và trách

nhiệm của mỗi cấp chưa rõ ràng, do đó thường khơng đảm bảo theo u cầu, chậm,
phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều nấc, nhiều lần cùng một cấp, một trình tự. Hơn
nữa, quỹ thời gian lập ngân sách, xem xét quyết định ngân sách là rất ngắn nên
không đủ đảm bảo quyền dân chủ và chất lượng của dự tốn ngân sách, lại mang
tính áp đặt nên gây khó khăn cho việc lập dự tốn ngân sách chủ động tích cực. Cơ
sở tính tốn các khoản thu, chi ngân sách chưa có căn cứ khoa học vững chắc. Hệ
thống định mức tiêu chuẩn chi tiêu lạc hậu, thiếu và chưa đồng bộ.
Việc xét duyệt, quyết định ngân sách của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cịn
mang tính hình thức, chưa có thực quyền. Có ngun nhân do dự toán ngân sách địa
phương đã được trung ương quyết định. Nhưng cũng có nguyên nhân do các thành
viên của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân nên việc thơng qua ngân sách đã được thực hiện trước đó. Thơng thường,
trước khi trình Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã thông qua nhiều lần ở Hội
nghị chủ tịch với các phó chủ tịch, hội nghị Uỷ ban nhân dân; sau đó hồn chỉnh báo
cáo Thường vụ Tỉnh ủy, thậm chí Hội nghị Tỉnh uỷ. Vì vậy, các vấn đề chung đã được
tập thể xem xét khá kỹ. Hơn nữa, thời gian họp của Hội đồng

21


nhân dân có hạn, các đại biểu chưa có điều kiện được thơng báo trước về dự tốn
ngân sách địa phương để nghiên cứu và phát biểu ý kiến có chất lượng.
Và vì quá nhiều hệ thống cơ quan khác nhau trên cùng một việc, quá nhiều
mối quan hệ, dẫn đến rất chậm về thời gian. Cơ quan Kho bạc kiểm sốt chi; cơ
quan tài chính duyệt quyết tốn lại chồng lên cơ quan Kho bạc; trong khi hệ thống
kiểm tra, thanh tra cịn yếu. Cơ quan kiểm tốn cịn hạn chế về nhân lực và trình
độ, chủ yếu kiểm tốn tính tn thủ, chưa kiểm tốn tính hiệu quả của việc chi tiêu
ngân sách; hơn nữa, số lượng các khoản chi ngân sách chưa được kiểm tốn cịn rất
lớn nên chưa đủ cơ sở tin cậy để Quốc hội và Hội đồng nhân dân phê duyệt quyết
toán một cách chính xác. Chế độ trách nhiệm về sai, đúng trong chi tiêu của ngân

sách chưa rõ ràng, ít có trường hợp phải xuất toán trả lại ngân sách khi chi tiêu sai
luật, sai chế độ, sai chính sách.
- Lập dự tốn ngân sách nhà nước là khâu mở đầu có tính chất quyết định
đến
hiệu quả trong q trình điều hành, quản lý ngân sách. 13Vì vậy kế hoạch ngân sách
được xây dựng một cách đúng đắn, từ đó thơng qua lập kế hoạch ngân sách để
thẩm tra tính đúng đắn, hiện thực và tính cân đối của kế hoạch, đảm bảo về mặt tài
chính để thực hiện các tiêu chí, cũng vì thế cho thấy việc lập ngân sách đóng vai trị
cực kỳ quan trọng và khơng được sai sót. Và để lập được dự toán phải căn cứ qua
nhiều vấn đề: căn cứ vào quy định về phân cấp quản lý ngân sách; căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh của nhà nước; căn
cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của ngành, của địa phương; căn cứ vào chính sách,
chế độ và pháp luật hiện hành; căn cứ vào hướng dẫn của Chính phủ và Bộ tài
chính về kế hoạch ngân sách hằng năm; căn cứ vào kết quả thực hiện ngân sách của
các năm trước. Từ đó cho thấy tính phức tạp ở khâu này. Sau khi lập dự tốn được
trình lên thì phải trải qua các khâu xem xét, xét duyệt, phê duyệt duyệt thì trải qua
khâu này cũng khá mất nhiều thời gian, công sức.
Thứ sáu, nhìn chung, quy trình ngân sách địa phương là phức tạp, dàn trải qua
nhiều khâu với nhiều thủ tục hành chính nên khơng chỉ mất thời gian của các cơ
quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động chấp
hành của các cơ quan nhà nước.
13

Tài liệu học tập Luật Tài chính – Đại học Luật, Đại học Huế.

22


×