Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

LUẬN VĂN: Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và vận dụng xem xét công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.94 KB, 15 trang )













LUẬN VĂN:


Khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và vận dụng xem xét
công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam












Mở Đầu



Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra bước nhảy vọt lớn trong lực lượng
sản xuất. Vị trí của khoa học trong lực lượng sản xuất ngày càng tăng lên. thực chất của
cuộc cách mạng là ở chỗ đã tạo ra kỉ nguyên mới của sản xuất tự động hóa với việc phát
triển và ứng dụng điều khiển học và vô tuyến điện tử. Khoa học trở thành điểm xuất
phát cho những biến đổi to lớn trong sản xuất, tạo ra những ngành sản xuất mới, kết hợp
khoa học kĩ thuật thành một thể thống nhất đưa đến những phương pháp công nghệ mới
đem lại những hiệu quả cao trong sản xuất, phát hiện và đề ra những phương pháp khai
thác nguồn năng lượng mới, chế tạo vật liệu mới, tạo ra sự thay đổi trong chức năng của
người sản xuất. Con người không còn thao tác trực tiếp trong hệ thống kinh tế mà chủ
yếu là sáng tạo, điều khiển quá trình đó một cách tự động, tri thức khoa học trở thành
một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất. Và hiện nay khoa học đang là lực lượng
sản xuất trực tiếp.
Nhận thức được điều đó, các nước đang tập trung phát triển khoa học của mình
và ứng dụng vào sản xuất tạo thế và lực riêng cho mỗi quốc gia. Mà Việt Nam không
phải là ngoại lệ.



Nội dung
1. Khoa học là gì? Khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp.
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ:
Khoa học là một khối liên kết kiến thức được gom góp từ những nỗ lực năng
động của con người để hiểu được thế giới dựa trên quan sát và thí nghiệm.
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được hiểu như là mối quan hệ giữa
thông tin và công nghệ.
Nền sản xuất xã hội là phương thức trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin
giữa xã hội và tự nhiên. Chính trong quá trình sản xuất, con người bằng trí tụê và lao
động được định hướng bởi trí tuệ đã không ngừng biến đổi các dạng vật chất, năng
lượng, thông tin. Năng lượng là số đo của các dạng vật chất trong các dạng khác nhau.

Trong phương thức sản xuất xã hội, sự vận động biến đổi của vật chất được thực hiện
thông qua các hệ thống công nghệ. Bởi vậy, bất kỳ một bước nhảy vọt nào của hệ thống
năng lượng cũng đều diễn ra với một cuộc cách mạng trong công nghệ. Thông tin- là
một dạng biểu hiện của vật chất đang vận động. Thông tin xã hội gắn liền với sự vận
động của dạng vật chất có tổ chức cao nhất - bộ óc con người.
Trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội loài người đã từng diễn ra năm bước
nhảy vọt về chất của thông tin xã hội, được biểu hiện dưới năm hình thức thông tin điển
hình từ thấp đến cao: tiếng nói, chữ viết, kỹ thuật in ấn, các thiết bị truyền thông bằng
điện và điện tử, mạng internet. Cùng với đó là năm giai đoạn phát triển của công nghệ
với năm hệ thống công nghệ khác nhau về chất và phù hợp với chúng là những hệ thống
năng lượng đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội. Đó là giai đoạn một với hệ thống
công nghệ tự nhiên thô sơ, giai đoạn hai với hệ thống công nghệ cơ khí thủ công, giai
đoạn ba với hệ thống công nghệ cơ khí máy móc ở trình độ cơ khí hoá, giai đoạn bốn
với hệ thống công nghệ cơ khí máy móc ở trình độ điện khí hoá tự động hoá bậc thấp,
giai đoạn năm với hệ thống công nghệ trí tuệ, bao gồm công nghệ thông tin và các loại
công nghệ cao khác.
So sánh các giai đoạn phát triển cơ bản của thông tin và công nghệ, chúng ta thấy
chúng có mối quan hệ chặt chẽ và phù hợp với nhau cả về mặt thời gian và nội dung,
tính chất. Các cuộc cách mạng này biểu hiện trình độ phát triển ngày càng cao hơn của
vật chất.



Sự biến đổi phù hợp này là cơ sở để có thể gọi các cuộc cách mạng đó là cuộc
cách mạng thông tin - công nghệ. Thông qua các cuộc cách mạng này mối quan hệ khoa
học - công nghệ ngày càng bền chặt và sâu sắc hơn.
Mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ với LLSX. Vấn đề khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Khoa học và công nghệ tham gia vào quá trình biến đổi, cải tạo thế giới tự nhiên
và phát triển xã hội vì chúng là những yếu tố quan trọng của LLSX xã hội, chúng có

mặt ở tất cả mọi thành phần của LLSX: trong TLSX ( công cụ, kỹ thuật ), trong con
người. Cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học và công nghệ ( KH - CN ) ngày
càng có vai trò quan trọng trong LLSX xã hội.
Mối quan hệ giữa cách mạng thông tin - công nghệ và cách mạng LLSX.
Với cuộc cách mạng thông tin - công nghệ ( CM TT - CN ) lần thứ nhất đã dẫn
đến cuộc cách mạng LLSX lần thứ nhất. Con người biết chế tạo công cụ sản xuất (
CCSX ) từ những vật liệu có sẵn trong tự nhiên: gỗ, đất đá, xương - thành các công,
tên, hòn đá mài thành các công cụ để săn bắt thú rừng.
Bằng những CCSX thô sơ đó, bầy người nguyên thuỷ đã tách mình ra khỏi thế
giới động vật.
Cuộc CM TT - CN lần thứ hai, LLSX của xã hội đã có sự thay đổi về chất. Con
người biết chế tạo ra CCSX bằng kim loại thủ công: cày cuốc, cối xay nước, cối xay gió
- nhờ đó việc khai thác tự nhiên của con người có hiệu quả hơn.
Cuộc CM TT - CN lần thứ ba làm đảo lộn LLSX xã hội. CCSX cơ khí máy móc
ra đời, nó trải qua ba trình độ phát triển: cơ khí hoá, điện khí hoá và tự động hoá. Nhờ
đó, đã tạo ra những bước tiến khổng lồ trên con đường chinh phục tự nhiên và phát triển
xã hội.
Cuộc CM TT - CN lần thứ năm chuyển sang sử dụng nguồn tiềm năng trí tuệ - trí
lực, LLSX có một bước đột biến quan trọng chưa từng có trong lịch sử. Lần đầu tiên, trí
năng được trao cho máy móc. Đây là thời kỳ tri thức khoa học trở thành LLSX trực tiếp.
Như vậy, ngày nay, khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp.
Khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp trong nền sản xuất hiện đại.
Trước đây, nền sản xuất xã hội còn ở trình độ thấp, khoa học không thể trực tiếp
đi vào sản xuất mà phải qua khâu thực nghiệm khoa học. Quá trình này diễn ra rất chậm



chạp, khoa học chỉ có thể biểu thị như một LLSX tiềm năng. Hiện nay, khi sản xuất xã
hội đạt đến trình độ phát triển cao, sản xuất đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi
khoa học phải có phương thức sản xuất phù hợp. Khoa học không phục vụ sản xuất, nó

đã tham gia một cách tích cực và chủ động và trở thành yếu tố quan trọng nhất của quá
trình sản xuất.
Mặt khác, hiện nay, xu hướng phát triển của khoa học là thống hợp khoa học,
tổng hợp tri thức. Vì vậy khoa học đã phát triển đến một trình độ nhất định và đủ sức
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Khoa học trở thành LLSX được biểu hiện dưới nhiều hình thức:
1.3.1. Tri thức khoahọc được vật thể hoá thành các công cụ, máy móc tinh vi hiện
đại như: máy vi tính, siêu tính, các loại công nghệ tự động hoá, rôbốt; các loại công
nghệ mới: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. điều này đã mang lại hiệu quả và
năng suất lao động cao, chất lượng tốt. Mặt khác tạo ra các loại vật liệu mới không có
sẵn trong tự nhiên, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Thực tế sản xuất ở các nước
công nghiệp phát triển, tri thức khoa học ngày càng chiếm một hàm lượng cao trong giá
trị sản phẩm. Lao động cơ bắp từng bước được thay thế bởi lao động trí tuệ. Cụ thể
những năm đầu của thế kỷ 20 khi sự phát triển của khoa học công nghệ chưa gắn chặt
với sản xuất thì lao động chân tay chiếm một tỷ lệ cao tới 9/10 giá trị sản phẩm. Đến
những năm 90 khi ở nhiều nước đang diễn ra cuộc CM KHKT thì tỷ lệ đó giảm xuống
còn 1/5 trong khi số lượng sản phẩm tăng 10 lần. Dự kiến tỷ lệ đó còn tiếp tục giảm
mạnh. Ngày nay, đối tượng lao động là sản phẩm của lao động, của khoa học công nghệ
trong đó hàm lượng vật liệu tự nhiên giảm. Vì vậy, nền kinh tế tiết kiệm được tài
nguyên, tài nguyên thiên nhiên không còn là điều kiện tiên quyết mà phụ thuộc chủ yếu
vào tài nguyên con người với năng lực trí tuệ cao. Hiện nay lợi thế về tài nguyên thiên
nhiên, lao động cơ bắp vì thế ngày càng mất giá.
Một tác nhân vô cùng quan trọng đối với sản xuất trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay là thông tin, đặc biệt là thông tin khoa học công nghệ và thông tin thị
trường. Nhờ nắm bắt được thông tin mới có thể kịp thời thay đổi công nghệ để sản xuất
ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng giúp cho lưu
thông hàng hoá nhanh chóng. Trong thời đại thông tin, chỉ cần chậm một bước trong




việc nắm bắt thông tin cũng có thể phải trá giá đắt như thua lỗ mất bạn hàng, thiệt hại,
thậm chí dẫn đến phá sản.
1.3.2 Một biểu hiện quan trọng của việc khoa học trở thành LLSX trực tiếp
là ở chỗ, khoa học cùng với quá trình giáo dục và đào tạo đã tạo ra những người lao
động mới: những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri thức chuyên sâu một
ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát, nhạy bén, vững vàng trong
nghề nghiệp. Hiện nay, ngoài chủ thể của quá trình sản xuất, con người là đối tượng
khai thác của chính bản thân mình. Trí tuệ con người trở thành nguồn năng lượng vô tận
của mọi sự biến đổi KH-CN và sản xuất. Mặt khác, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm
không còn là công việc của riêng người lao động mà là của một bộ phận người: Những
người trực tiếp quản lý, những kỹ sư, những nhà công nghệ. Người lao động chính là
lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động
lực của mọi động lực phát triển xã hội
1.3.3 khoa học học cò n trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý
điều hành sản xuất. đó cũng là một biểu hiện của việc biến khoa học thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Việc tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất ngày nay ở bất kỳ
cấp độ nào: trong một dây chuyền sản xuất, một xí nghiệp, một phân xưởng, hay trong
một liên hợp các xí nghiệp đều cần đến tri thức khoa học, nhất là tri thức khoa học
quản lý. Lao động quản lý chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp trong nền
kinh tế tri thức. Sự xích lại gần nhau giữa người lao động và nhà quản lý làm cho giá trị
thặng dư được tạo ra do lao động sống sản xuất trực tiếp và lao động vật hoá, lao động
quản lý. Như vậy LL-SX có tính xã hội hoá, quốc tế hoá cao.
Việc khoa học đang trở thành LL-SX trực tiếp là một đặc trưng cơ bản của nền
sản xuất hiện đại, đồng thời cũng chứng tỏ rằng khoa học công nghệ ngày càng gắn bó
và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
2. Tại sao KH-CN lại trở thành LLSX trực tiếp?
Trong những giai đoạn lịch sử trước đây, do sự phát triển còn lệch pha giữa KH-
CN với sản xuất mà phần nào sức mạnh của KH-CN đối với sản xuất nói riêng, đối với
sản xuất xã hội nói chung còn bị hạn chế. Ngày nay, khi sự phát triển đồng điệu của
KH-CN đã tạo nên cuộc cách mạng KH-CN hiện đại làm biến đổi tận gốc LLSX xã hội




thì ảnh hưởng của những cuộc cách mạng này nên sự phát triển của thế giới là vô cùng
mạnh mẽ, quyết liệt và cũng có thể nói là vô hạn.
Vậy, tại sao cuộc cách mạng KH-CN ngày nay lại có được sức mạnh kì diệu đó?
Một là, trong cuộc cách mạng KH-CN hiện đại, các yếu tố KH-CN và sản xuất
đã thâm nhập, gắn bó bền chặt với nhau với vai trò dẫn đường của khoa học. Nó không
chỉ được hiểu đơn thuần là kĩ thuật ( các phương tiện vật chất kĩ thuật) mà gồm 4 yếu tố
cơ bản: phần cứng của công nghệ( kĩ thuật) và 3 yếu tố của phần mềm là con người,
thông tin và tổ chức quản lý. Với việc KH-CN trở thành LLSX trực tiếp và việc khai
thác và sử dụng triệt để 3 yếu tố của phần mềm đã làm cho cuộc cách mạng của KH-CN
thực sự trở thành cuộc cách mạng về trí tuệ với vai trò quyết định của tri thức( kinh tế
tri thức, vốn tri thức, năng lượng tri thức hay trí năng, vật liệu tri thức ). sự khai thác
nguồn trí năng là đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng KH-CN hiện đại. đó chính là sự
biến đổi tận gốc LLSX xã hội - làm tiền đề, cơ sở cho mọi sự biến đổi khác trong xã
hội.
Hai là,với cuộc cách mạng khoa học_ công nghệ hiện đại , các yếu tố riêng biệt
của quá trình sản xuất được kết hợp chặt chẽ hưu cơ với nhau thành một hệ thống liên
hoàn : máy công tác - máy động lực - các phương tiện vận chuyển vừa tiết kiệm được
thời gian, công sức, vừa nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
Ba là, cuộc cách mạng KH-CN đã cho ra đời những hệ thống công nghệ mới với
bốn trụ cột chính:công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Các
hệ thống công nghệ đã liên kết đồng bộ với nhau vơi vai trò dãn đầu là công nghệ thông
tin đẻ cùng tác động mạnh mẽ , có hiẹu quả cao lên nền sản xuất xã hội.
Bốn là, cuộc cách mạng KH-CN hiẹn đại đã làm thay đổi về chất quá trình sản
xuất. Con người ngày càng có vai trò quan trọng và quyết định đối với sản xuất. Con
người dược tách dần ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp. Trí năng- năng lực trí tuệ của
con người đã trở thành nguồn năng lượng mới của công nghệ và sản xuất và dã hình
thành nên nhưng con ngươi lao động kiểu mới, có tri thức, có kĩ năng,kĩ xảo và năng lực

toàn diện.
Năm là,cuộc cách mạng KH-CN dã tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc của năng
suất lao động nhờ sự thay đổi cua cơ cấu LLSX, của phân công lao đông xã hội trong
phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới.



Những đặc trưng trên cho thấy KH-CN đã tác động đén sự thay đỗi có tính chất
cách mạng trong LLSX và tác đọng mạnh mẽ ,sâu sắc toàn diện lên mọi mặt cũa đòi
sống xã hội
3. .Thực tế sự phát triễn kính tế Mỹ là một dẫn chứng quan trọng ,tiêu biẽu
cho quan điẽm :KH-CN đang là LLSX trực tiếp .
Trước đây ,đã có những lúc thế giói chứng kiến sự bùng nổ kinh tế Mỹ .Nhưng
đến những năm 70,khi công nghiệp hoá thế giới đạt đến đỉnh cao thì kinh tế Mỹ lại
chững lại do đây là nền kinh tế chủ yếu dựa vào cơ sở nguồn tài nguyên vật chất ,sức
lao động- đang mất dần ưu thế cạnh tranh.lập tức KH-CN vào cuộc .Những năm 80 tập
trung nghiên cứu công nghệ cao:công nghệ thông tin ,công nghệ sinh học ,năng lượng
,vật liệu mới.việc ứng dụng vào sản xuất dã làm cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế ,hình
thành nền kinh tế mới(kinh tế tri thức )tạo ra bước ngoặt mới cho nền kinh tế Mỹ .Theo
tổng thống Mỹ:đầu tư vào KH-CN chính là đầu tư vào tương lai nước Mỹ.Nguyên nhân
tăng trưởng nhanh do công nghệ cao tạo ra năng suấ cao và nhiều việc làm mới .Kết quả
là làm giảm chi phí sản xuất ,hạ giá thành sản phẩm ,tăng thu nhập cho người lao động
.Công nghệ cao tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị trên cơ sở sử dụng tài nguyên phi vật
chất mà tốn ít tài nguyên vật chất và sức lao động . Công nghệ cao tạo ra nhiều việc làm
mới ,ngành nào cũng cần dùng tới nó và là việc làm có thu nhập cao.Cơ cấu lao động
cũng có sự thay đổi ,tỉ lệ lao động áo xanh chiếm 17%,lao động áo trắng chiếm 83%
tổng lao động xã hội .Khoa học công nghệ
đã làm cho Mỹ giỡ được vai trò đầu tàu của mình trong nền kinh tế thế giới.Thực
tiễn các ở các nước cho thấy vai trò của khcn là đầu tàu cho sự phát triển kinh tế đất
nước .ở các nước phát triển đó là nguyên nhân tạo ra những thứ bậc kinh tế đầu thế giới.

Từ nhận thức và thực tiễn trên ,một lần nữa có thể nhấn mạnh :khoa học dang là
LLSX trực tiếp.Khoa học được vật hoá ,được kết tinh trong mọi nhân tố của LLSX:đối
tượng lao động ,tư liệu lao động ,kĩ thuật ,phương pháp công nghệ đến người lao động.
Những cuộc cách mạng vẫn đang diễn ra ,bên cạnh những mặt tích cực còn có
những tiêu cực .Đó là việc các thành tựu của nó được áp dụng vào trong chiến tranh ,các
cuộc khủng bốđang lan tràn khoa họcắp thế giới ,cuộc chiến con người ngày càng khốc
liệt và thiệt hại nặng nề .bên cạnh đó là nguy cơ cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu
.Vì vậy ,KHCN phải hướng vào mục tiêu chung :vì sự sống của con người ,về sự tiến bộ



và phát triển của xã hội .KHCN phải giữ vai trò chủ đạo trong chiến lược phát triển bền
vững (công nghệ xanh ,công nghệ sạch),khcn phải gắn với những giá trị nhân văn
,nhân đạo .Chỉ khi đó ,khcn mới thực sự trở thành chiếc chìa khoá vang của mọi sự biến
đổi ,phát triển của xã hội .
4. khoa học với sự phát triển kinh tế Việt Nam
4.1 .thực trạng chung về LLSX và nhận định mới của Đảng về khoa học.
Nước ta còn nghèo ,tư liêu lao động còn giản đơn ,thủ công ;khoa học còn kém
phát triển so với thế giớí và khu vực ;một số kết quả nghên cứu được đánh giá tốt nhưng
lại chưa phù hợp với hoàn cảnh thực tại của đất nước .Đối tượng lao động chủ yếu từ tự
nhiên yéu tố đang mất dần lợi thế trong nền kinh tế tri thức .Đặc biệt ,con người với tư
cách là chủ thể cao nhất của quá trình sản xuất :thông minh ,sáng tạo ,dễ nắm bắt cái
mới nhưng còn kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ ,chưa đáp ứng được yêu cầu mới
của nền kinh tế do chất lượng giáo dục và đào tạo còn kém .Mặtkhác,trong công tác tổ
chức quản lý chưa thực sự gắn bó với khoa học ,với đào tạo chuyên nghiệp .
Nhận thức được điều đó ,Đảng và Nhà nướcđã có sự thay đổi trong tư duy ,quan
niệm về phát triển khoa học nước ta đang trong thời kì mới - thời kì CNH-HĐH đất
nước .Nghị quyếthội nghị trung ương 2 BTCkhoá 8 xác định : CNH- HĐH phải bằng và
dựa vào KHCN và KHCN là động lực ,nền tảng cho CNH- HĐH đất nước.
Đại hội 9 tiếp tục nhận định :gắn sự phát triển khcn với con người ,phải phát huy

nguồn lực trí tuệ với sức mạnh tinh thần của người Việt ,coi sự phát triển giáo dục và
đào tạo ,KHCN là nền tảng và động lực cho quá trình CNH- HĐH đất nước .
4.2.Bước phát triển mới của KHCN
4.2.1Hoạt động khoa học và việc phát triển ,đổi mới LLSX
-Trong quá trình HĐH,HĐHtrong sản xuất trước hết là hiện đại hoá trong
LLSX.Đi đôi với phát triển nội lực khoa học ,Việt Nam đã tranh thủ tận dụng mọi cơ
hội để tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài .Cụ thể là nhập công nghệ và
đưa vào sản xuất cả phàn cứng :trang thiết bị máy móc và phần mềm là các quy trình
sản xuất .
-Phát tiển các loại hình đào tạo :chính quy,không chính quy,từ xa,phổ cập giáo
dục các các cấp đã góp phần nâng cao trinh độ và hành trang cho quá trình phát triển
đẩt nước.



-Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ nghiên cứu khoa học kích
thích khả năng nghiên cứu của cán bộ .
Số lượng cá nhân ,tổ chức tham gia nghiên cứu khoa học tăng rõ rệt với chất
lượng ngày một cao.Hiện nay,nước ta có khoảng 1150 tổ chức nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ với 1,8 triệu người có trình độ đại học và cao đảng trở lên.Mặt
khoa họcác ,khả năng sử dụng ngoại ngữ và tin học được nâng lên đangs kể .Một số nơi
đã phổ cập tin học ,ngoại ngỡ trở thanh môn học quan trọng trong các nhà trường.
Tỉ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ trong tổng chi của ngân sách Nhà nước
tăng từ 0,78%(1996)lên2,13%(2002).Nhờ đầu tư vào chiều sâu ,cho đến nay,1/3 số
thiết bị khoa học của cơ quan
nghiên cứu là thiết bị thế hệ mới.
4.2.2 KHCN hiện đại đã làm cho LLSX thay đổi đồng bộ giữa TLSX hiện đại
và con người hiện đại ,nâng cao trình độ xã hội hoá nền sản xuất.
- ứng dụng công nghệ phần mềm vào các quy trình sản xuất ,vào viẹc đánh giá
,thiết kế ,xây dựng các hệ thống tin học ứng dụng .

- Nghiên cứu ,ứng dụng một số lĩnh vực chọn lọc ;công nghệ na nô, linh
kiện điện tử, ứng dụng tin học.
- Phổ cập kiến thức và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và
đào tạo ,trong hệ thông cac trương hiện nay đều có trang bị máy vi tinh dáp ứng nhu
cầu công nghệ thông tin .
- Về việc ứng dụng công nghệ sinh học :
ứng dụng công nghệ en-zim,protein vào công nghiệp thực phẩm .
ứng dụng công nghệ vi sinh vào chọn giống và tạo giống mứi trong nông ,lâm
,thuỷ sản. Phát triển các xí nghiệp nhân giống cây, sản xuất hạt giống chất lượng cao,
tập trung vào nhóm cây lương thực , rau , hoa quả , lâm nghiệp ,vật nuôi , thuỷ sản.
úng dụng công nghệ vạt liệu tiên tiến vào việc xử lý môi trường ,sử dụng vật liệu
nhiệt dẻo cho kĩ thuật điện và điện tử .
ứng dụng công nghệ cơ khí chế tạo máy vào việc tạo phôi ,công nghệ gia công .
công nghệ sơ chế được ứng dụng vào trong sơ chế ,phân loại ,lam sạch sản phẩm.
Công nghệ chế biến được ứng dụng trong những ngành sản xuất ra những sản phẩm có
lợi thế và triển vọng xuất khẩu như: gạo, thuỷ sản ,cà phê vv.



công nghệ bảo quản được ứng dụng trong công nghệ làm khô lúa và hoa màu
,đạc biệt là công nghiệp bảo quản lạnh rau quả và sản phẩm chăn nuôi. kết quả nổi
4.2.3 . Những kêt quả nổi bật của hoạt động KHCN nưóc ta.
- KHCN đã góp phần phục vụ sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước thông
qua việc cung cấp dữ liệu, căn cứ khoa học để đổi mới nhận thức và tư duy trong
việc xác định rõ con đường đi lên CNXH. Thí dụ ,70 đề tài thuộc các chương trình
khoa học xã họi cấp Nhà nước đã cung cấp 485 nhóm ý kiến ,kiến nghị khoa học cho
trung ương và các cơ quan Nhà nước .
- Khoa học đã cung cấp căn cớ cho việc xác định phương hướng chiến
lược phát triển kinh tế xã hội đến 2010, xác định những ngành sản xuất, lĩnh vực
hoạt động và những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, tạo điều kiện cho sự tăng

trưởng và phát triển nhanh của một số ngành, lĩnh vực như thuỷ sản, bưu chính viễn
thông, du lịch, chuyển dịch cơ cấu trong công nghiệp và nông nghiệp, điều chỉnh các
chính sách và cơ chế quản lý kinh tế.
- KH-CN góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và rút ngắn khoảng cách
về trình độ khoa học giữa Việt Nam và các nứơc thông qua việc tập hợp lực lượng
cán bộ khoa học và công nghệ. Qua đó, đã hình thành nhiều tập thể khoa học mạnh,
tập trung vào những hướng nghiên cứu mũi nhọn như công nghệ nano, công nghệ
ren, công nghệ sinh học thông qua hoạt động nghiên cứu, hàng nghìn cán bộ khoa
học bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, đồng thời, thu hút được sinh viên các trường
đại học tham gia nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc đại học.
Việc trao đổi khoa học với nước ngoài ngày càng được tăng cường và mở rộng.
- KH-CN phục vụ phát triển kinh tế xã hội và đời sống thông qua việc áp
dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất tạo ra sản phẩm mới chất lượng cao phục
vụ xuất khẩu tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Các kết quả cụ thể đang
được ghi nhận và đánh giá cao trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, công nghệ điện tử, truyền thông và công nghệ thông tin.
Như vậy, nhờ KH-CN kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. để
thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt là hiện đại hoá trong lực
lượng sản xuất, nhà nước phải xây dựng nền khoa học nội sinh kết hợp với chuyển giao
công nghệ nước ngoài. Song cần phải tỉnh táo tránh trở thành bãi thải công nghệ của các



nước khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, nhà nước cần quan tâm hơn nữa tới hoạt động
khoa học, có chính sách về vốn ngân sách, Chính sách ưu đãi cho người tham gia hoạt
động khoa học dể thúc đẩy quá trình nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào sản xuất. đi
đôi với phát triển khoa học công nghệ là việc đẩy nhanh sự nghiệp giáo dục và đào tạo
nhằm taọ ra những con người mới xã hội chũ nghĩa đáp ứng được nhu cầu về khoa học
công nghệ trong nền sản xuất hiện đại.




Kết luận
Như vậy, khoa học công nghệ đã, đang và sẽ là lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì
vậy, đầu tư cho khoa học công nghệ chính là đầu tư cho tương lai của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên khoa học công nghệ cũng có mặt trái của nó, đó là nguy cơcác cuốc chiến tranh
công nghệ cao, nguy cơ về cuộc khủng hoảng môi trường sinh thái ;nguy cơ phân hoá
xã hội gay gắt Vì vậy trong hoạt đông nghiên cứu và ứng dụng khoa học cần có sự
quản lý mang tính quốc gia quốc tế. Bên cạnh đó là chinhs sách đãi ngộ hợp lý cán bộ
khoa học ;nâng cao chất lượng giaó dục đào tạo tao ra nhưng con người mới vừa là chủ
thể của lao đông vừa là đối tượng cửa lao dộng . Đối với Việt Nam trong thời kì kội
nhập cần có chiến lược đúng đắn cho khoa hoc công nghệ tiên tới hoàn thành mục tiêu
trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Ngay từ bây giờ phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp để phát triển LLSX,đó là :
-Tiếp tục coi giáo dục đào tạo là quốc sách.
-Khai thác hợp lí và có hiệu quả diều kiện tự nhiên.
-ứng dụng nhanh và có hiệu quả thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ .
-Mở rộng hợp tác quốc tếvề kinh tế :đơn phương và đa phương.














Dang mục tài liệu tham khảo:


- Phạm Thị Ngọc Tâm : KHCN với nhận thức biến đổi thế giới ,Nhà xuất bản khoa
học xã hội.
- Tạp chí KH-CN ,số 7 , năm 2001.
- Tạp chí cộng sản ,số 6 ,năm 2004.












Mục lục .

Mở đầu
Nội dung
1 Khoa học là gì ? KH đang trử thành LLSXtrực tiếp
1.1 Mối quan hệ KH-CN.
1.2 Mối quan hệ KH-CN.Vấn đề KH trở thành LLSX trực tiếp.
1.2.1 Mối quan hệ CMTT-CNvà CMLLSX
1.2.2 Vấn đề KH và LLSX
1.3.Biểu hiện là LLSX trực tiếp của KH

1.3.1 Biểu hiện trong TLSX
1.3.2 kết tinh trong người lao động
1.3.3 trong tổ chức ,quản lý
2 . Tại sao KH-CN lai có được sức mạnh đó ?
3. Thực tế KH-CN ở các nước
4.KH với sự phát triển kinh tế VN
4.1 Thực trạng chung về LLSXvà nhanl định mới
4.2 Bước đổi mới
Kết luận

×