Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp và xem xét vấn đề trên trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.97 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mở đầu
Đất nớc ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển theo con đờng công
nghiệp hoá hiện đại hoá ,đi vào chiều sâu . Xuất phát từ thực tiễn ấy , việc
nghiên cứu và thống nhất ý kiến để đi đến nhận định về mối quan hệ giữa khoa
học và lực lợng sản xuất trực tiếp có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan
trọng .
Khi nghiên cứu đề tàiKhoa học là lực lợng sản xuất trực tiếp và xem xét
vấn đề trên trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam vấn đề đặt ra sự
tác động ,ảnh hởng của khoa học đối với lực lợng sản xuất trong thời gian qua
nh thế nào ? Và đòi hỏi sự vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ nh
thế nào cho phù hợp đúng đắn vào công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam .
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1: Mối quan hệ giữa khoa học va` lực lợng sản xuất .
1.1. Lực lợng sản xuất là gi`?
Lực lợng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Lực lợng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con
ngời trong quá trình sản xuất của cải vật chất. Lực lợng sản xuất bao gồm ngời
lao động với kỹ năng lao động của họ và t liẹu sản xuất, trớc hết là công cụ lao
động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con ngời và t liệu sản xuất,
trớc hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lợng sản xuất
1.2. khoa hoc
1.2.1 Trong lịch sử phát triển của t duy nhân loại có rất nhiều quan niệm khác
nhau về khoa học, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội và phụ
thuộc vào trình độ nhận thức. Về phơng diện triết học, theo quan điểm duy vật
biện chứng, khoa học là sản phẩm tinh thần, phản ánh các cấu trúc, thuộc tính
và quy luật vận động của các đối tợng vật chất trong thế giới khách quan..
Khoa học là một hình thái xã hội đặc biệt. Bởi vì khoa học không chỉ phản ánh
sự tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, những chân lý của nó đợc thực
tiễn xã hội kiểm nghiệm, mà khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo


lôgíc, của trực giác thiên tài. Mặt khác khoa học (cùng với công nghệ) là
những yếu tố ngày càng có vai trò đặc biệt quan trọng của lực lợng sản xuất,
quyết định trình độ phát triển của lực lợng sản xuất nói riêng của phơng thức
sản xuất và cuả xã hội nói chung. Về phơng diện nhận thức luận, khoa học là
giai đoạn cao của nhận thức - giai đoạn nhận thức luận.
Ngày nay, quan niệm khoa học đợc phổ biến với những đặc trng cơ bản sau
đây:
- Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con ngời và t
duy của con ngời. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại,
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bản chất của các sự vật, hiện tợng, quá trình, từ đó chỉ ra những quy luật
khách quan của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và t duy.
- Hệ thống tri thức khoa học đợc hình thành trong quá trình nhận thức của
con ngời từ trực quan sinh động, đến t duy trừu tợng, từ t duy trừu tợng đến
thực tiễn, dới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết...Nh vậy, tri
thức khoa học không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực mà còn đợc kiểm
nghiệm qua thực tiễn.
- Hệ thống tri thức khoa học còn có thể đợc hình thành nhờ trực giác hoặc
tuân theo những quy luật của lôgíc học. Do đó, một hệ thống tri thức đợc
coi là tri thức khoa học phải đảm bảo tính đúng đắn, tính chân thực.
- Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt, đ-
ợc phổ biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ tăng truyền đó
tăng lên rất nhiều lần nhờ vào quá trình toàn cầu hóa và công nghệ thông
tin. Nó không chỉ là sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là biểu hiện
sự giàu có, thịnh vợng của mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân.
- Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài, liên
tục của t duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay nó đang
trở thành tài sản chung của xã hội loài ngời.
Nh vậy qua một số đặc trng cơ bản trên đây về quan niệm khoa học, ta thấy

nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực về tự nhiên,
xã hội và t duy.
1.2.2.Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật
Từ khi loài ngời xuất hiện cho đến cuối thế kỷ XV, sự phát triển của
khoa học và kỹ thuật diễn ra rất chậm chạp và tơng đối độc lập với nhau. Sự
phát triển của kỹ thuật chủ yếu đợc thực hiện trên cơ sở hoàn thiện những kinh
nghiệm, những bí quyết nghề nghiệp đợc la truyền. Về phía mình, khoa học lại
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thờng đợc phát triển không phụ thuộc vào những nhu cầu của sản xuất, mà
phục tùng một cách lôgíc nội tại của riêng mình.
Đến những năm đầu thế kỷ XVI ,sự phát triển khoa học diễn ra tơng đối
nhanh , là thời kỳ mà ở châu Âu, kinh tế xã hội phát triển rất sôi động. Và
kéo dài khoảng đến thế kỷ XVIII. Những nhu cầu của thơng mại, hằng hải,
công trờng thủ công đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các vấn đề thực tiễn. Sự
phát triển của lực lợng sản xuất không thể đợc thực hiện trên cơ sở của các kỹ
thuật cũ. Việc chuyển từ sản xuất thủ công sang sản xuất cơ khí đặt ra vấn đề
là phải phát triển khoa học để ứng dụng những kết quả của nó vào phát triển
kỹ thuật.
Những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật có thể chia thành những giai
đoạn lớn, gắn liền với những thay đổi về chất của lực lợng sản xuất. Những
giai đoạn ấy đợc xem nh những giai đoạn của cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn khi mà nhờ những tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, ngời ta đã tiến hành cơ khí hoá nền sản xuất, giải phóng con ngời khỏi
lao động chân tay nặng nhọc và nâng cao năng suất lao động lên nhiều lần.
Giai đoạn này bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII với sự ra đời của máy hơi nớc và đ-
ợc biết đến nh là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất. Từ giữa thế kỷ XX
trở đI, bắt đầu giai đoạn hiện đại của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, khi
mà nhờ những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, ngời ta bắt đầu tiến hành tự
động hoá nền sản xuất, làm thay đổi tận gốc rễ lực lợng sản xuất của xã hội và

tăng năng suất lao động lên mức cha thấy. Xã hội phơng Tây gọi những thay
đổi mang tính bớc ngoặt ấy của khoa học - kỹ thuật là cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật lần hai. Trong khi đó, tại Hội Nghị Trung ơng tháng Sáu năm
1955 của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng Cộng sản Liên Xô, lần đầu tiên khái
niệm cách mạng khoa học - kỹ thuật đợc đa ra dùng để chỉ toàn bộ những
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiện tợng và những quá trình liên quan đến sự phát triển chóng của khoa học -
kỹ thuật.
Trong mọi lĩnh vực sản xuất xã hội, đều có thể quan sát thấy những luân
phiên đặc sắc của cuộc nhảy vọt và sự phát triển tuần tự trong nhiều lĩnh vực
nh:
Trong ngành năng lợng - từ sử dụng năng lợng nớc, cơ bắp, gió, sang
than điện, dầu lửa, rồi năng lợng nguyên tử và trong thế kỷ XXI sẽ là năng l-
ợng nhiệt hạch...
Trong lĩnh vực sản xuất - từ hợp tác lao động giản đơn qua giai đoạn
công trờng thủ công, rồi tiến lên phơng thức sản xuất đại cơ khí với các quy
trình sản xuất và công nghệ đợc cơ giới hóa rồi cơ giới hoá tổng hợp, xuất hiện
các hệ thống máy móc, tạo ra các máy tự cộng, tự động hoá đồng bộ, hệ thống
sản xuất linh hoạt...
Trong giao thông vận tải - máy và động cơ hơi nớc đợc thay thế bằng
các động cơ đốt trong và động cơ điêzen, tuabin và động cơ phản lực, tàu vũ
trụ, tàu con thoi...
Trong sản xuất vật liệu - chuyển từ các nguyên liệu nông nghiệp, các
vật liệu xây dựng truyền thống (gỗ, gach, đá...) sử dụng kim loại đen (sắt,
gang...) là chủ yếu sang sử dụng các kim loại màu, chất dẻo, bê tông, các vật
liệu kết cấu(composite), vật liệu thông minh, vật liệu siêu dẫn.....
Trong công nghiệp sản xuất, chế tạo - từ sản xuất thủ công, tiến lên nửa
tự động rồi tới công nghệ tự động hoá (tự động hoá thiết kế - chế tạo nhờ sự
trợ giúp của máy tính điện tử (CAD/CAM), công nghệ thông tin (tin học,

truyền thông cà viễn thông vũ trụ...), công nghệ không gian, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi điện tử...
1.3. Khoa học - lực l ợng sản xuất trực tiếp
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.3.1. Sự tác động của khoa học tới lực lợng sản xuất.
Bằng quá trình phát triển của nhận thức khoa học, con ngời đã vẽ nên
bức tranh về thế giới hiện thực. Chính sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ, luôn
vận động, biến đổi không ngừng của thế giới tự nhiên và thực tiễn xã hội đã
tạo nên nguồn cảm hứng nhận thức vô tận của con ngời và điều đó đã tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển của khoa học. Song, con ngời đi nhận thức thế giới
không chỉ để nhận thức thuần túy, mà chủ yếu là để thỏa mãn các nhu cầu về
vật chất và tinh thần ngày càng cao của mình. Do đó, cùng với quá trình nhận
thức càng cao của mình, là quá trình biến đổi và cải tạo thế giới, "nghĩa là thế
giới không thỏa mãn con ngời, và con ngời quyết định biến đổi thế giới bằng
hành động của mình "(V.I.Lênin. Toàn tập). Về điều này, C.Mác cũng đã
khẳng định rằng, con ngời phải tác động tích cực phải chiếm lĩnh thế giới bên
ngoài nhờ sự tác động vào các đối tợng đã biết và bằng cách nh vậy, con ngời
mới có thể thỏa mãn những nhu cầu của mình. Sở dĩ khoa học và cùng với
khoa học là công nghệ tham gia đợc vào quá trình biến đổi, cải tạo giới tự
nhiên và phát triển bởi vì khoa học và công nghệ là những yếu tố quan trọng
của lực lợng sản xuất xã hội, chúng có mặt ở tất cả mọi thành phần của lực l-
ợng sản xuất: trong t liệu sản xuất (công cụ, kĩ thuật), trong con ngời. Cùng
với sự phát triển của xã hội, khoa học công nghệ càng ngày càng có vai trò
quan trọng hơn trong lực lợng sản xuất xã hội. Thâm nhập vào khoa học và
công nghệ hiện đại đã đảm bảo cho lực lợng sản xuất phát triển nhanh chóng
theo hai hớng chủ yếu: 1) Thay đỏi chức năng và vị trí của con ngời trong sản
xuất trên cơ sở dịch chuyển từ nền tảng điện-cơ khí sang nền tảng cơ-vi điện
tử; 2) Chuyển sang sản xuất trên cơ sở các ngành công nghệ cao có thân thiện
với môi trờng.

1.3.2. Điều kiện để khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trớc đây đến cách mạng khoa
học - công nghệ hiện nay, khoa học ngày càng thể hiện vai trò của mình một
cách rõ ràng dới dạng thực tiễn xã hội trực tiếp, nhờ quá trình không ngừng
biến đổi của nó, từ chỗ là lực lợng sản xuất tiềm năng thành lực lợng sản xuất
trực tiếp.Có sự chuyển đổi này là nhờ các điều kiện sau :
Điều kiện về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt đến trình độ phát
triển nhất định. Trong nền sản xuất xã hội còn ở trình độ thấp từ cộng sản
nguyên thuỷ cho đến phong kiến , khoa học không thể trực tiếo đi vào sản xuất
mà phải qua khâu trung gian: khâu thực nghiệm khoa học. Từ những thành tựu
thu đợc qua thực tiễn thực nghiệm khoa học, con ngời tìm cách vận dụng
chúng vào trong sản xuất. Quá trình này diễn ra chậm chạp. Trong điều kiện
nh vậy, khoa học chỉ có thể biểu hiện nh một lực lợng sản xuất tiềm năng mà
thôi chứ cha thể trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Ngợc lại, khi sản xuất xã
hội đã đạt đến trình độ phát triên cao, chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề
mới, phức tạp đòi hỏi khoa học phải có phơng thức giải quyết phù hợp , để
thúc đẩy sản xuất phát triển và qua đó, khoa học cũng phát triển theo. Nh vậy,
trong điều kiện này, sản xuất đã tạo ra những cơ sở quan trọng, những nhu cầu
cấp thiết cho sự xuất hiện của những tri thức khoa học mới. Khoa học không
phục vụ sản xuất một cách thụ động theo kiểu khoa học cũng đợc mà không
khoa học cũng chẳng sao; khoa học đã tham gia một cách tích cực, chủ động
và trở thành một yếu tố không thể thiếu của quá trình sản xuất xã hội. Và, chỉ
đến lúc này, khoa học mới có điều kiện để trở thành lực lợng sản xuất trực
tiếp.
Điều kiện về trình độ phát triển của khoa học : Trong nền sản xuất cũ
trình độ khoa học rất thấp ,và nó không ảnh hởng lớn đến sản xuất . Trong nền
sản xuất ngày nay , có một vấn đề nào của ngành sản xuất đặt ra mà tri thức
của ngành khoa học; thậm chí là của vài ngành khoa học cụ thể không thể giải

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quyết đợc hoàn toàn. Tổng hợp khoa học, tổng hợp tri thức là xu hớng phát
triển của khoa học ngày nay và điều kiện này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu
của thực tiễn hiện đại. Ngày nay, trong khoa học đang diễn ra một quá trình t-
ơng tác mạnh mẽ giữa các khoa học, quá trình liên kết khoa học theo hớng
tổng hợp tri thức của khoa học hiện đại và đó là điều kiện quan trọng và tối
cần thiết để biến khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, mà nếu biểu hiện
về mặt sản xuất thì đó chính là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất
và hoạt động khoa học. Thực tiễn, trớc đây là thực tiễn xã hội, là nguồn gốc, là
động lực của nhận thức khoa học, đồng thời cũng là tiêu chuẩn của chân lý.
Do vậy, việc khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp sẽ là con đờng
ngắn nhất và đáng tin cậy nhất để xác định độ chính xác,đúng đắn, tính chân
lý của tri thức khoa. Sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất và hoạt động cơ bản
của xã hội hiện đại đợc xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện đại và khoa
học tiên tiến.
Nh vậy cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của khoa học ngày
càng đợc tăng cờng, nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học vừa là sự biến đổi, vừa là
quyền lực, vừa là sự giàu có, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết
định sự phát triển, sự thịnh suy của một công ty, một dân tộc, một đất nớc, một
khu vực trong cuộc cạnh tranh khốc liệt cuả thế giới hiện đại.
1.3.3. Khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp.
Từ lâu khoa học đã trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Có thể nói
rằng nó xuất hiện cùng với con ngời khôn ngoan tức là con ngời thực sự có
hành vi lao động sản xuất đầu tiên, với công cụ lao động sản xuất đầu tiên.
Vấn đề chỉ là ở chỗ xu hớng ấy ngày càng phát triển lên và trở nên đậm nét
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trong xã hội ngày nay. Khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp đợc biểu
hiện dới nhiều hình thức:
Một là, tri thức khoa học đợc vật thể hóa thành các công cụ, máy
móc tinh vi, hiện đại nh các loại máy vi tính, siêu tính, các máy công nghệ tự
động hóa, các thế hệ ngời máy (rôbốt). C.Mác là ngời đã chỉ ra cơ sở kỹ thuật
của nền kinh tế công nghiệp là máy móc mà trong đó việc đa năng suất lao
động tăng vọt là máy công tác, nhờ đó chuyển nền kinh tế nông nghiệp thủ
công lên công nghiệp. Còn máy điều khiển tự động mà trong đó, máy tính điện
tử nối mạng quốc gia và quốc tế là quan trọng nhất, là yếu tố quyết định sự
chuyển nền kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức (kinh tế sau công nghiệp),
đồng thời tạo ra các loại công nghệ mới nh công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới... Điều này không chỉ mang lại hiệu quả và
năng suất cao hơn, chất lợng cao hơn mà còn góp phần quan trọng vào việc tiết
kiệm nguyên vật liệu, tạo ra các nguyên vật liệu mới vốn không có sẵn trong
tự nhiên; giảm thời gian lao động phải chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Thực
tế sản xuất ở các nớc công nghiệp phát triển đã cho thấy rằng, tri thức khoa
học ngày càng chiếm một hàm lợng cao trong giá trị sản phẩm, nguồn lợi do
khoa học mang lại cũng ngày càng lớn hơn. Cụ thể là, vào những năm đầu của
thế kỷ XX, khi chỉ có một bộ phận nhỏ của thế giới bớc vào công nghiệp hóa,
khi mà sự phát triển của khoa học cha đợc gắn chặt với kỹ thuật và sản xuất,
thì lao động chân tay, tính trung bình, chiếm một tỷ lệ rất cao, tới 9/10 trong
giá trị sản phẩm. Còn đến những năm 90, khi hầu hết các nớc trên thế giới đã
bớc vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và ở nhiều nớc đang diễn ra cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, thì tỷ lệ
đó đã giảm xuống còn 1/5, trong khi đó, số lợng sản phẩm tăng 10 lần. Với đà
phát triển nh hiện nay của khoa học và công nghệ, tỷ lệ đó còn giảm mạnh,
theo số dự đoán đến năm 2010(thế kỷ XXI) có thể chỉ còn 1/10. Trong thời đại
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thống trị của công nghệ thông tin, trí năng hóa sản xuất đang là xu hớng tất

yếu và cũng là động lực mạnh mẽ của sự phát triển xã hội. Nguồn lợi do công
nghệ thông tin mang lại càng ngày tăng. Trong những năm 90, ở Nhật Bản,
nguồn lợi do tin học mang lại chiếm tới 40% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân.
Chính sự phát triển của công cụ lao động là chỉ số cho thấy những tri thức xã
hội nói chung tức khoa học - đã biến thành lực lợng sản xuất trực tiếp nh
thế nào?(C.Mác. Trích Bách Khoa Triết học - Mátxcơva).
Hai là,khoa học cùng với quá trình giáo dục và đào tạo đã tạo ra
những ngời lao động mới: những con ngời lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri
thức chuyên sâu một ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát,
nhạy bén, vững vàng trong nghề nghiệp. Tự bản thân khoa học không thể tạo
ra bất kỳ một tác động nào mà phải thông qua sử dụng và hành động thực tiễn
của con ngời nó mới phát huy tác dụng. Ngời lao động chính là lực lợng sản
xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực
của mọi động lực phát triển xã hội.
Ba là,khoa học còn trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý,
điều hành sản xuất. Đó cũng là một biểu hiện của việc biến khoa học thành
lực lợng sản xuất trực tiếp. Việc tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất ngày nay
ở bất kỳ một cấp độ nào: trong một dây chuyền sản xuất, trong một phân x-
ởng, một xí nghiệp, hay trong một liên hợp các xí nghiệp... đều cần đến tri
thức khoa học, nhất là tri thức khoa học quản lý. Cùng một thế hệ máy móc
nh nhau, cùng sản xuất ra một loại sản phẩm nh nhau, nếu biết tổ chức quản
lý, điều hành công việc tốt thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
Bốn là thông tin, đây là tác nhân vô cùng quan trọng đối với sản xuất
trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng mang tính quốc gia và quốc tế hiện
nay. Thông tin là sản phẩm phát triển của khoa học, là sự biểu hiện của khoa
học. Trong xã hội thông tin, kẻ giàu, kẻ mạnh, kẻ chiến thắng không phải là kẻ
10

×