Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS pháp luật về môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY

PHÁP LUẬT VỀ MƠI GIỚI KẾT HƠN
CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

Cơng trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự

Phản biện 1:

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Phản biện 2:

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012.

HÀ NỘI - 2012

1



Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm thông tin - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MƠI GIỚI KẾT HƠN CĨ YẾU

6

TỐ NƢỚC NGỒI

1.1.


Cơ sở lý luận và thực tiễn về pháp luật về Mơi giới kết hơn
có yếu tố nước ngồi

6

1.1.1.

Khái niệm về pháp luật điều chỉnh quan hệ Mơi giới kết hơn
có yếu tố nước ngồi

6

1.1.2.

Vai trị của hoạt động mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi
trong xã hội hiện đại

10

1.2.

Hoạt động mơi giới kết hơn ở nước ngồi và ở Việt Nam

19

1.2.1.

Hoạt động môi giới kết hôn ở nước ngồi


19

1.2.1.1. Mơi giới kết hơn ở Hàn Quốc

19

1.2.1.2. Mơi giới kết hôn ở Ấn Độ

22

1.2.1.3. Môi giới kết hôn ở Nhật Bản

22

1.2.1.4. Môi giới kết hôn ở Trung Quốc

24

1.2.2.

Hoạt động môi giới kết hôn ở Việt Nam

26

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MƠI GIỚI KẾT

32

HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM VÀ Ở
NƢỚC NGOÀI


4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


2.1.

Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến mơi
giới kết hơn có yếu tố nước ngồi

32

2.1.1.

Quy định liên quan đến mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi
trong các quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình

32

2.1.2.

Quy định liên quan đến mơi giới kết hôn trong pháp luật chuyên
ngành khác

39

2.1.2.1. Pháp luật kinh doanh

39


2.1.2.2. Pháp luật hành chính

40

2.1.3.

Điều ước quốc tế

44

2.2.

Pháp luật của một số nước trên thế giới về môi giới kết hơn
có yếu tố nước ngồi

45

2.2.1.

Luật quản lý các cơ sở môi giới kết hôn của Hàn Quốc

46

2.2.2.

Luật quy định về mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi năm
2005 của Hoa Kỳ

51


2.2.3.

Quy định về mơi giới kết hơn có yết tố nước ngoài của
Trung Quốc

54

2.3.

Những hạn chế của pháp luật Việt Nam liên quan đến mơi
giới kết hơn có yếu tố nước ngoài

57

2.3.1.

Các biện pháp đang áp dụng hiện nay

58

2.3.1.1. Biện pháp quản lý hành chính - nhà nước

58

2.3.1.2. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và văn hóa
truyền thống dân tộc về hơn nhân và gia đình

62


2.3.2.

Những điểm còn tồn tại của pháp luật Việt Nam liên quan
đến mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi

64

Chương 3:

69

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MƠI GIỚI
KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGỒI

3.1.

Đánh giá thực trạng hoạt động mơi giới kết hơn có yếu tố
nước ngồi ở Việt Nam

69

3.2.

Giải pháp hồn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi

81

3.2.1.


Phương hướng chung

81

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.2.2.

Các giải pháp cụ thể

84

KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

MGKH

: Mơi giới kết hơn

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Danh mục các biểu đồ

Số

Tên biểu đồ

Trang

T l kt hụn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngồi

69


hiƯu
biĨu
®å
3.1

đến năm 2010 theo quốc gia và vùng lãnh thổ
3.2

Số liệu về phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan

70

3.3

Số liệu về phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Hàn Quốc

71

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam đã có từ lâu đời trong lịch
sử. Song chỉ đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, hiện tượng này
mới thực sự phổ biến và là xu thế tất yếu của xã hội trong bối cảnh hội nhập
quốc tế.

Tuy nhiên quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi, đặc biệt là việc kết
hôn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài những năm gần đây diễn biến
phức tạp, có nhiều tiêu cực, khơng bảo đảm được ngun tắc hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, đi ngược lại giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc.
Hình ảnh hàng chục, thậm chí hàng trăm cơ gái Việt Nam đứng xếp
hàng để những người đàn ông Hàn Quốc, Đài Loan xem xét, lựa chọn như
những món hàng khơng còn là hiếm trên các trang báo của Việt Nam và nước
ngồi. Nhật báo Chosun, ngày 21/4/2006 có đăng bài viết "Các trinh nữ Việt
Nam đến Hàn Quốc, đất nước của hy vọng" của phóng viên Chae Sung Woo
trong đó hình ảnh minh họa là tấm ảnh chụp cảnh hai người đàn ông Hàn
Quốc với khoảng hơn mười cô gái Việt Nam rụt rè ngồi chờ "coi mắt", đau
xót thay khi dưới tấm ảnh là chú thích "các hồng tử Hàn Quốc, xin hãy đưa
em về" [4]. Bài báo đã gây ra làn sóng phản đối mạnh mẽ ở cả Việt Nam và
Hàn Quốc, bởi những hình ảnh này khơng đơn giản là "nỗi đau về trách
nhiệm, mà đây còn là nỗi nhục hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người
nước ngoài" [4].
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do sự "nở rộ"
của dịch vụ môi giới kết hôn (MGKH) trái pháp luật. Dịch vụ này hoạt động
dưới "mn hình vạn trạng", thủ đoạn tinh vi, phức tạp rất khó kiểm sốt. Tất
nhiên cũng có những dịch vụ MGKH hoạt động lành mạnh, cung cấp các dịch

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


vụ hữu ích như: giúp những người có nhu cầu kết hơn có cơ hội gặp gỡ, tiếp
xúc, tìm hiểu để tiến tới hôn nhân; hỗ trợ làm các thủ tục pháp lý liên quan
đến kết hơn có yếu tố nước ngồi,… nhưng con số này rất hiếm. Đã có khơng

ít những tổ chức, cá nhân lợi dụng danh nghĩa MGKH để hoạt động mua bán
phụ nữ hoặc tổ chức, môi giới mại dâm.
Do pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố
nước ngồi là hoạt động hợp pháp nên mặc dù các hoạt động này trong những
năm gần đây phát triển rất mạnh nhưng hoàn tồn tự phát và có nhiều tiêu
cực. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận lại vấn đề này: Thừa nhận hay khơng
thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài là hợp pháp? Xác định rõ
quan điểm về vấn đề này mới có thể xây dựng khung pháp lý phù hợp, kiểm
soát chặt chẽ hoạt động MGKH bằng công cụ pháp luật.
Từ cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, việc lựa chọn và nghiên cứu
đề tài "Pháp luật về mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi" tác giả mong
muốn góp phần phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện về thực trạng các quy
định của pháp luật Việt Nam về MGKH có yếu tố nước ngồi; phân tích kinh
nghiệm về quản lý MGKH quốc tế của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra
giải pháp cho vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu của Đề tài
Ở Việt Nam và trên thế giới vấn đề hơn nhân và gia đình (HN&GĐ)
có yếu tố nước ngoài được nhiều nhà luật gia quan tâm nghiên cứu dưới các
góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các cơng trình
này chỉ tập trung nghiên cứu về: quan hệ kết hôn, quan hệ ly hơn, quan hệ gia
đình, vấn đề ni con ni,.... có yếu tố nước ngồi như: Nguyễn Hồng Bắc
(2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Luận án tiến sỹ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Nơng Quốc Bình (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn
nhân có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Trường

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Đại học Luật Hà Nội; Lê Thị Thu (2007), Quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận văn thạc sỹ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội,…
Hoạt động MGKH có yếu tố nước ngồi đã trở thành vấn đề "nóng",
mang đậm tính thời sự hiện nay. Thực trạng hoạt động này được phản ánh rất
nhiều trên báo chí, các phương tiện truyền thơng đại chúng cũng như trong
các hội thảo chuyên đề về bảo vệ quyền phụ nữ hay các hội thảo về HN&GĐ
có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ dừng ở việc nêu vấn
đề thông qua các vụ việc đơn lẻ, chưa thực sự nghiên cứu toàn diện, chuyên
sâu về vấn đề này. Có thể nói, cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu một cách tồn diện, hệ thống và cụ thể về thực trạng hoạt động MGKH có
yếu tố nước ngồi ở Việt Nam cũng như quy định của pháp luật Việt Nam về
MGKH có yếu tố nước ngồi.
Trước tình hình đó, việc lựa chọn nghiên cứu các quy định của pháp
luật Việt Nam về MGKH có yếu tố nước ngồi, tác giả mong muốn góp phần
làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về hoạt động này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá một cách toàn diện thực
trạng pháp luật Việt Nam về MGKH có yếu tố nước ngồi, từ đó đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật về MGKH có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu này, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về MGKH
có yếu tố nước ngồi.

11


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về MGKH có yếu
tố nước ngồi.
- Phân tích kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quản lý môi
giới hôn nhân quốc tế.
- Đánh giá một cách tồn diện về thực trạng hoạt động MGKH có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về quản lý hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: pháp luật về MGKH có yếu tố
nước ngồi ở Việt Nam và của một số nước trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về
MGKH có yếu tố nước ngồi; nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế
giới về quản lý môi giới hôn nhân quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của triết học Mác- Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, cũng như quan điểm đường lối
của Đảng và Nhà nước về chính sách pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ có
yếu tố nước ngoài.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như: thống kê, phân tích, tổng hợp, luật học so sánh,...


12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


6. Ý nghĩa và những đóng góp mới của ¬uận văn
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu đã đề ra, luận văn có
một số đóng góp mới sau đây:
- Phân tích lý luận cơ bản về MGKH có yếu tố nước ngồi.
- Đánh giá tổng qt thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về
MGKH có yếu tố nước ngoài.
- Nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới về quản lý hoạt
động môi giới hơn nhân quốc tế.
- Kiến nghị giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quản lý hoạt động MGKH có yếu tố nước ngồi.
Luận văn mong muốn góp phần trong việc hồn thiện các quy định
pháp luật nhằm quản lý, kiểm soát chặt chẽ hoạt động MGKH có yếu tố nước
ngồi, đáp ứng nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở pháp lý về mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Chương 2: Các quy định của pháp luật về môi giới kết hơn có yếu tố
nước ngồi ở Việt Nam và ở nước ngoài.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về quản
lý hoạt động môi giới kết hơn có yếu tố nước ngồi.

13


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MƠI GIỚI KẾT HƠN
CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT VỀ MƠI GIỚI KẾT
HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI.

1.1.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh quan hệ Mơi giới kết hơn có
yếu tố nƣớc ngồi
Kết hơn là quyền cơ bản của con người, pháp luật các quốc gia đều ghi
nhận: mỗi người đều có quyền lựa chọn, quyết định hạnh phúc và người bạn
đời riêng cho mình. Quyền tự kết hơn thể hiện ở chỗ con người có quyền tự
do kết hơn với người cùng dân tộc hoặc với người không cùng dân tộc; với
người cùng tôn giáo hoặc không cùng tôn giáo; với người cùng quốc tịch hoặc
không cùng quốc tịch. Pháp luật các nước đều tôn trọng và bảo vệ quyền tự
do kết hôn của con người.
Để hỗ trợ, tạo cầu nối cho con người thực hiện quyền kết hôn một cách
trọn vẹn, đầy đủ hơn; giúp những người có nhu cầu kết hơn có nhiều sự lựa
chọn cũng như có đầy đủ thơng tin trước khi quyết định lựa chọn đối tượng để
kết hơn cho mình thì khơng thể thiếu vai trị của MGKH.
Vậy, thế nào là MGKH? Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết chúng ta
cùng tìm hiểu nghĩa của 02 từ: "mai mối" và "môi giới". Theo Từ điển tiếng
Việt, "mai mối" và "mơi giới" đều có nghĩa là Người trung gian [36]. Tuy
nhiên, mai mối là hoạt động trung gian cho hai bên trai gái gặp gỡ với mục
đích tiến tới hơn nhân. Cũng diễn tả về hành vi này cịn có từ "làm mai" và
"làm mối". Làm mai là "đứng trung gian trong việc hơn phối". Cịn làm mối là
"đứng giữa làm môi giới cho hai bên trai gái" [36]. Ngồi ra, cịn có diễn giải

khác đó là: Làm mối hay còn gọi là làm mai là việc đóng vai trị trung gian để
thu xếp nhằm tiến tới một cuộc hôn nhân. Người làm mối gọi là ông mối, bà

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


mối hay từ cổ là băng nhân. Làm mối là khâu quan trọng trong q trình kết
hơn theo phong tục Việt Nam thời phong kiến và có nguồn gốc từ văn hóa
Trung Quốc [48].
Khác với "mai mối", "mơi giới" thường được dùng nhiều trong hoạt
động thương mại. Môi giới là "Người làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc,
giao thiệp với nhau" [47]. Người môi giới là "loại thương nhân trung gian
giữa người mua và người bán, được người bán hoặc người mua ủy thác tiến
hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ" [48].
Cịn Kết hơn là viƯc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Từ các khái niệm trên, tác giả đưa ra định nghĩa về MGKH: MGKH là
một loại hình dịch vụ, trong đó Người cung cấp dịch vụ MGKH đóng vai trị
trung gian giới thiệu cho những người có nhu cầu tìm kiếm đối tượng kết hơn
gặp gỡ, tìm hiểu nhau tiến tới hôn nhân. Khách hàng phải trả phí khi tham gia
dịch vụ này.
MGKH có những đặc điểm chính sau:
 Là hoạt động làm trung gian tạo điều kiện cho hai bên nam giới và

phụ nữ tiếp xúc, tìm hiểu nhau.
 Người MGKH có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
 Người sử dụng dịch vụ MGKH là cá nhân.
 Mục đích của dịch vụ MGKH là tiến tới kết hơn.


Hiện nay, MGKH nói chung và MGKH với người nước ngồi ln có
tính hai mặt. Mặt tích cực là tạo điều kiện cho hai bên có điều kiện làm quen,
tiếp xúc và tìm hiểu nhân thân của nhau. Đó cũng là những yếu tố cần thiết để
hình thành giai đoạn tiền hôn nhân, nhất là trong xã hội cơng nghiệp. Nhiều
người đã tìm được bạn đời qua những hình ảnh và thơng tin của các dịch vụ
mơi giới. Nhưng tính trung thực của các loại thơng tin này (hình ảnh, số
liệu,..) khơng phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Mặt trái của MGKH có yếu tố

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nước ngồi là áp đặt, cung cấp thơng tin sai lệch và kiếm lời. Họ tìm mọi cách
để thành cơng với mục đích kiếm được tiền, bất kể cả việc cung cấp thông tin
sai, lừa dối đôi bên dẫn đến hậu quả khơn lường, làm nhiều gia đình tan vỡ,
trong đó chịu thiệt thịi hơn cả là người phụ nữ. Nhiều vấn đề thuộc hành vi,
văn hóa, lối sống khơng được cung cấp đầy đủ và trung thực. Mặt khác,
chuyện "kết tóc xe dun" của đơi bên trong trường hợp này cần có cơ quan tư
vấn chuyên nghiệp và cần tính đến những rủi ro trước khi đi đến quyết định.
Chính vì vậy, cần có các tổ chức MGKH hợp pháp, đáng tin cậy và
nguyên tắc đầu tiên phải là cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để khách hàng
có cơ sở tin cậy cùng với gia đình đưa ra quyết định đúng đắn cho cuộc hơn
nhân của mình.
Vậy, thế nào là một dịch vụ MGKH có yếu tố nước ngồi đáng tin cậy?
Khơng có câu trả lời chính xác tuyệt đối cho vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn có
những đặc điểm chung nhất để nhận biết một dịch vụ MGKH có yếu tố nước
ngồi đáng tin cậy, đó là: Dịch vụ này phải được cung cấp bởi một cơng ty, tổ
chức có đăng ký hợp pháp theo quy định của nước sở tại nơi cơng ty, tổ chức

đó có trụ sở; cam kết chịu trách nhiệm về tính trung thực, đầy đủ, tồn vẹn
của thơng tin cung cấp; tuyệt đối giữ bí mật thơng tin của khách hàng…
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật chính là cơng cụ hữu hiệu nhất
để quản lý, định hướng xã hội. Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề
MGKH có yếu tố nước ngồi, tóm lược lại có hai luồng quan điểm chính: Một
là, tuyệt đối cấm hoạt động MGKH có yếu tố nước ngồi dưới mọi hình thức.
Hai là, thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố nước ngồi là hoạt động hợp
pháp và có cơ chế phù hợp để quản lý chặt chẽ hoạt động này. Hiện quan
điểm thứ hai đang được đại đa số các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý ủng hộ,
tác giả cũng nhất trí với quan điểm đó.
Theo quy định tại Điều 758, Bộ luật Dân sự năm 2005, quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi là: (i) Ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; (ii) giữa các

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngồi;
(iii) tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [31].
Căn cứ vào định nghĩa về MGKH cũng như các đặc điểm của MGKH,
tác giả đưa ra định nghĩa về quan hệ MGKH có yếu tố nước ngồi như sau: (i)
Ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người của nước đó nhưng định cư ở nước ngồi; (ii) giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức của một nước nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngoài; (iii) tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm về MGKH và quan hệ MGKH có

yếu tố nước ngoài, tác giả đưa ra định nghĩa về Pháp luật điều chỉnh quan hệ
MGKH có yếu tố nước ngồi như sau: Pháp luật điều chỉnh quan hệ MGKH
có yếu tố nước ngoài là tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh quan hệ MGKH giữa các bên chủ thể khác quốc tịch; sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ MGKH ở nước ngoài;
hoặc tài sản liên quan tới quan hệ MGKH ở nước ngồi.
Hiện nay, Việt Nam chưa có bất kỳ đạo luật chuyên biệt nào quy định
về MGKH nói chung và MGKH có yếu tố nước ngồi nói riêng. Hoạt động
MGKH nhằm mục đích kiếm lời bị nghiêm cấm dưới mọi hình thức. Pháp
luật Việt Nam chỉ khuyến khích các hoạt động hỗ trợ kết hơn có yếu tố nước
ngoài hoạt động phi lợi nhuận để tư vấn, hướng dẫn các hoạt động liên quan
đến hơn nhân có yếu tố nước ngồi.
Hơn nhân có yếu tố nước ngồi là một xu thế tất yếu trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay và là một vấn đề bình thường trong quá trình phát triển,
giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hóa. Và MGKH chính là nhân tố góp phần
thúc đẩy hơn nhân có yếu tố nước ngồi phát triển một lành mạnh hơn.
Trong thế giới tồn cầu hóa, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
công nghệ đã giúp cho tất cả nhân loại như cùng sống dưới một mái nhà

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chung, khoảng cách địa lý bị thu hẹp lại nhưng mặt trái của tiến bộ khoa học,
cơng nghệ lại chính là biến con người ngày càng lệ thuộc nhiều vào máy móc,
tất cả mọi hoạt động của con người gần như là một chu trình khép kín.
MGKH góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như: giải quyết sự mất cân
bằng về giới, tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc di dân từ nơi có điều
kiện kinh tế- xã hội chưa phát triển đến những vùng kinh tế - xã hội phát triển

hơn; thúc đẩy giao lưu giữa các nền văn hóa; tăng cường hội nhập kinh tế
quốc tế.
Từ những cơ sở lý luận về MGKH có yếu tố nước ngoài, thiết nghĩ, đã
đến lúc các nhà lập pháp Việt Nam cần xem xét lại việc nên hay khơng nên
thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố nước ngồi là hoạt động hợp pháp để
từ đó ban hành quy định pháp lý phù hợp để điều chỉnh hoạt động này.
1.1.2. Vai trị của Mơi giới kết hơn có yếu tố nƣớc ngồi trong xã
hội hiện đại
Hơn nhân là hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm từ khi hình thành xã
hội lồi người. Khơng có tộc người nào trên thế giới lại không coi trọng vấn
đề HN&GĐ. Hôn nhân không chỉ thuần túy là sự kết hợp giới tính mà cịn
qua hơn nhân thể hiện những sắc thái văn hóa của một tộc người. Hơn nhân
có vai trị quan trọng tái sản xuất dân cư và góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống.
Hôn nhân xuyên quốc gia hay hơn nhân có yếu tố nước ngồi xét trên
bình diện thế giới và ngay cả ở Việt Nam không phải là một hiện tượng mới.
Hiện tượng này xuất hiện rất sớm, có lẽ cùng với q trình di dân làm cho
tình trạng sống xen kẽ giữa các thành viên của các tộc người tăng dẫn đến sự
giao lưu văn hóa tộc người và dẫn đến "hôn nhân ngoại tộc" mà quá trình di
dân lại xảy ra rất sớm cách ngày nay hàng chục ngàn năm. Trong lịch sử Việt
Nam cũng đã từng xuất hiện những cuộc hơn nhân có yếu tố nước ngồi như
trường hợp Huyền Trân cơng chúa được gả cho vua Chăm để được nhận hai
châu Ơ, Rí thuộc Chămpa. Chúng ta cũng đã biết đến cuộc hôn nhân của công

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chúa Ngọc Vạn ở phía Nam để chúa Nguyễn có điều kiện mở rộng vùng lãnh

thổ. Hay như cuộc di dân của người Hoa do Trần Thượng Xuyên, Dương
Ngạn Địch, Hoàng Tiến dẫn đầu đã đến vùng Đồng Nai Gia Định vào năm
1679 đã dẫn đến hơn nhân có yếu tố nước ngồi ở đồng bằng sơng Cửu Long
giữa người Hoa với cư dân bản địa, cụ thể giữa người Hoa với người Việt và
người Khmer - lớp cư dân đã có mặt trước đó. Đây có thể được coi là một
trong những cuộc hơn nhân có yếu tố nước ngồi tương đối đơng đảo xảy ra ở
Việt Nam cho đến thời điểm đó [26].
Ngày nay, hơn nhân có yếu tố nước ngồi được hình thành theo hai
cách: đơi nam nữ tự tìm hiểu dẫn đến hơn nhân hoặc thơng qua trung gian giới
thiệu. Trong trường hợp thứ nhất đó là mối quan hệ hôn nhân tự nguyện cao
và xuất phát từ cơ sở tình cảm; hiểu biết lẫn nhau trên các vị trí cơng tác, học
tập. Trường hợp thứ hai thông qua trung gian giới thiệu. Trường hợp này chia
làm hai loại: Thứ nhất, thông qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè để hai
bên gặp gỡ, tìm hiểu nhau. Ở đây, tuy đôi bên nam nữ không có sự quen biết
từ trước mà qua người thứ ba. Nhưng quan hệ hôn nhân ở đây vẫn được xây
dựng trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ tình yêu, sự hiểu biết lẫn nhau sau quá
trình gặp gỡ, tìm hiểu đi đến quyết định kết hôn. Thứ hai, thông qua các hình
thức MGKH: trung tâm/cơng ty mơi giới hơn nhân hoặc cá nhân thực hiện
dịch vụ MGKH. Quyết định đi đến hôn nhân của đôi nam nữ trong trường
hợp này, tất nhiên vẫn xuất phát trên cơ sở tự nguyện của cả hai bên sau quá
trình gặp gỡ, tìm hiểu nhau. Tuy nhiên, khơng ít tổ chức, cá nhân hoạt động
MGKH thiếu trách nhiệm, chỉ quan tâm đến lợi nhuận, cung cấp thiếu thơng
tin thậm chí thơng tin sai lệch về đối tượng kết hôn, thời gian cho đối tượng
tìm hiểu nhau lại rất ngắn nên đã dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc của thời kỳ
"hậu kết hôn". Ngồi ra, cịn có trường hợp lợi dụng hình thức MGKH trá
hình để mua bán phụ nữ; tổ chức, mơi giới mại dâm gây hậu quả nghiêm trọng.
Để hiểu sâu hơn về vai trị của MGKH có yếu tố nước ngồi, chúng ta
cùng tìm hiểu về lịch sử phát triển của nghề mai mối ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới.


19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Thời phong kiến, mai mối đóng một vai trị rất quan trọng trong các
cuộc hôn nhân truyền thống ở hầu hết các nước phương Đông, đặc biệt tại các
nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Việt Nam,….
Tại Nhật Bản, Omiai (tiếng Nhật: お見合い) hoặc miai (o là kính cẩn)
là một truyền thống lâu đời theo đó các cá nhân gặp gỡ nhau thơng qua mai
mối để tìm hiểu, xem xét khả năng tiến tới hôn nhân. Các bậc cha mẹ ở Nhật
Bản thường nhờ tới sự trợ giúp của các nhà mai mối chuyên nghiệp.
Nakōdo (tiếng Nhật: 仲人) (người trung gian) người mà sẽ được nhận một
khoản hoa hồng để cung cấp ảnh và sơ yếu lý lịch của người có tiêu chuẩn
phù hợp theo yêu cầu của khách hàng. Từ Omiai được sử dụng để mơ tả tồn
bộ q trình mai mối từ sắp xếp cuộc gặp gỡ giữa cặp đôi được mai mối, với
người mai mối và cha mẹ của cặp đôi đó. Các bậc cha mẹ thường là những
người chủ động tìm đến người mai mối chuyên nghiệp khi con cái họ đến độ
tuổi lập gia đình, nhưng đã thể hiện rất ít hoặc khơng có dấu hiệu tìm kiếm
bạn đời cho mình. Ngồi ra, họ cũng có thể thơng qua bạn bè hoặc người quen
để tìm kiếm bạn đời cho con cái họ [46].
Đến giữa thế kỷ XX, các cuộc hôn nhân thông qua Omiai giảm dần,
đặc biệt giữa những người trí thức, những người trẻ tuổi ở thành phố, vì
những người này có điều kiện tiếp xúc gặp gỡ nhiều hơn, hôn nhân được xây
dựng trên sự tự do, tự nguyện của hai bên. Dù vậy hôn nhân qua Omiai vẫn
tồn tại ở các vùng nông thôn Nhật Bản [46].
Trong xã hội truyền thống của Hàn Quốc khi một người đàn ông hay
phụ nữ đến độ tuổi kết hôn, gia đình sẽ tìm kiếm một người bạn đời tương lai
cho con cái họ bằng cách nhờ người mai mối, được gọi là jung- me. Các gia

đình đến gặp người mai mối với sơ yếu lý lịch của con mình và u cầu người
mai mối tìm một người thích hợp. Nếu tìm được người phù hợp với các tiêu
chuẩn mà khách hàng yêu cầu, người mai mối sẽ sắp xếp một cuộc hẹn gồm
đại diện hai bên gia đình, hai người được mai mối để các bên tiếp xúc, tìm

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hiểu về nhau. Người mai mối sẽ nhận được một khoản phí dịch vụ sau mỗi
lần mai mối thành cơng [46].
Mai mối cũng là con đường duy nhất để hôn nhân được thừa nhận
chính thức ở Trung Quốc thời phong kiến. Hôn nhân không chỉ là việc kết
hôn giữa nam và nữ mà là việc trọng đại của gia đình và dịng tộc. Việc kết
hơn khơng dựa trên ngun tắc tự nguyện, bình đẳng mà phải tuân theo sự
quyết định của gia đình. Hơn nhân truyền thống được coi là sự liên minh giữa
các gia đình để củng cố tiềm lực kinh tế, chính trị. Việc kết hơn được thực
hiện thông qua người mai mối. Bà mối căn cứ vào các tiêu chí như: hồn cảnh
gia đình, nền tảng giáo dục, tuổi tác,… sắp xếp cho những đối tượng có cùng
tiêu chí để hai gia đình gặp gỡ, tìm hiểu nhau.
Hoạt động mai mối không chỉ phát triển mạnh ở các nước Phương
Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo mà cịn đóng vai trị khá quan trọng trong
các cuộc hơn nhân truyền thống ở các nước phương Tây. Các vị linh mục giữ
vai trò như một Người mai mối trong hầu hết các nền văn hóa phương
Tây. Mai mối là một trong các chức năng ngoại vi của linh mục thời Trung
cổ. Các vùng nông thôn ở Bắc Mỹ, khi các gia đình ở những trang trại cách xa
nhau, nhà thờ chính là nơi để nam, nữ thanh niên gặp gỡ nhau. Linh mục
chính là người tư vấn cho con chiên tất cả những vướng mắc trong cuộc sống
tinh thần, trong đó có cả chuyện tình u nam nữ.

Thời phong kiến, người đứng ra làm mối hầu hết là người có tuổi, giàu
sang, phú quý hoặc có địa vị xã hội, được tin cậy, hiểu biết tường tận gia cảnh
nhà trai, nhà gái. Ông Mai, bà Mối thường là những người "mát tay", khéo ăn
nói. Người này có nhiệm vụ qua lại hai nhà, truyền đạt những thông tin về gia
cảnh, những yêu cầu của bố mẹ hai bên nhằm xác định mệnh số của chàng
trai và cơ gái có tương hợp hay không. Việc quyết định hôn nhân là do cha mẹ
của hai bên định đoạt, song người chắp nối tơ duyên cũng không kém phần
quan trọng quyết định việc thành bại của hôn nhân.
Lễ tạ ơn ông Mai, bà Mối thường là nửa mâm xôi, nửa con gà hoặc
một chiếc áo lụa... Lễ hậu (nhiều) hay bạc (ít) cũng tùy gia cảnh chủ nhà.

21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nghèo q thì ơng Mai, bà Mối cũng khơng nệ chấp, chỉ cần mời họ đến đám
cưới uống chén rượu đã đủ thấy ấm lòng [48].
Người dân ở các nền văn hóa khác nhau, trong quá khứ cũng như hiện
tại, đã tìm kiếm sự giúp đỡ của bà Mối để chọn bạn đời bởi vì các bà mối có
một sự hiểu biết sâu sắc hơn về tính cách của con người, quen biết nhiều
người hơn, có kiến thức và kinh nghiệm hơn trong việc giúp đỡ người khác
chọn bạn đời. Thời xưa, mai mối hôn nhân được xem là một nghề rất cao quý.
Ngày nay, dịch vụ MGKH vẫn không ngừng phát triển trên thế giới, trở thành
cầu nối, đáp ứng nhu cầu tìm bạn đời của khơng ít bạn trẻ. Với sự tiến bộ của
khoa học công nghệ đã khai sinh loại hình mai mối mới đó là computer dating
(hẹn hò qua internet). Đây cũng là cách mà nhiều người sử dụng để tìm kiếm
cho mình một người bạn đời lý tưởng.
Trong xã hội hiện đại, hôn nhân chủ yếu do các bên trực tiếp cấu
thành cuộc hôn nhân quyết định nên việc làm mối theo các nghi thức cũ hầu

như khơng cịn tồn tại. Trai gái được tự do tìm hiểu, tự do yêu đương và chủ
động quyết định việc hôn nhân. Tuy nhiên, do sự phát triển của kinh tế xã hội,
con người phải đối mặt với nhiều lo toan cuộc sống, công việc, học tập và
nhiều mối quan tâm khác, ngày càng có ít thời gian dành cho việc tiếp xúc,
tìm hiểu nam, nữ tiến tới hơn nhân. Vậy nên rất cần có người trung gian đứng
ra xúc tiến cho những người có cùng nhu cầu tiếp xúc, gặp gỡ, tìm hiểu nhau.
Bà Mối trong trong xã hội hiện đại là người đóng vai trị giới thiệu,
tạo điều kiện cho cho những người có cùng nhu cầu kết hôn tiếp xúc, gặp gỡ,
làm quen với mục đích có thể tiến tới hơn nhân. Hoạt động mai mối chỉ dừng
ở việc cung cấp thông tin, giới thiệu, xúc tiến việc gặp gỡ, tìm hiểu cho các
bên, có thể tư vấn thêm nếu các bên có nhu cầu nhưng khơng đóng vai trị của
người làm mối như trong các nghi thức thời phong kiến nữa.
Hoạt động mai mối ngày nay rất đa dạng. Hình thức phổ biến nhất
hiện nay là hình thức giới thiệu để nam nữ có nhu cầu kết hơn gặp gỡ nhau
thơng qua hình thức trực tiếp hoặc có thể chỉ là cung cấp các thơng tin cần
thiết để hai bên có thể liên lạc với nhau như: số điện thoại, nick chat, trang

22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


điện tử cá nhân,… Việc mai mối trên đơn thuần xuất phát từ mối quan hệ thân
tình giữa người làm mối với hai bên. Đây là hình thức làm mối giản đơn nhất
nhưng lại khá hiệu quả có lẽ bởi mục đích hồn tồn trong sáng của cả người
làm mối và người được làm mối.
Ngoài hoạt động mai mối mang tính đơn lẻ ở trên, cịn có hoạt động
mai mối mang tính xã hội hóa cao hơn, được tổ chức bài bản với mục đích tạo
mơi trường tiếp xúc, gặp gỡ cho nhiều người hơn. Những tổ chức này hoạt
động dưới hình thức các câu lạc bộ kết bạn, câu lạc bộ tâm tình hay các diễn

đàn, các website, forum kết bạn, các game show truyền hình,…nhằm tạo điều
kiện cho những người có nhu cầu cơ hội giao lưu, tìm hiểu để tiến tới mối
quan hệ thân thiết hơn.
Những hoạt động trên dù sao vẫn nghiêng nhiều về tính giải trí nên
hiệu quả khơng cao. Trong thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu, quỹ thời gian
dành cho đời sống riêng tư càng eo hẹp, nhu cầu tìm kiếm bạn đời qua trung
gian càng lớn, đòi hỏi hoạt động mai mối phải chuyên nghiệp hơn. Đó cũng là
lý do ra đời một loại hình dịch vụ mới: Dịch vụ MGKH.
Ở Trung Quốc, hiện có 900 đại lý mai mối. Thậm chí có những trung
tâm tổ chức dưới dạng "siêu thị tình yêu" thu hút hàng nghìn lượt khách lui
tới mỗi ngày. Đây là một hình thức giao duyên hiện đại, cho phép những đơi
nam nữ có thể vượt mọi trở ngại về khơng gian để tìm đến nhau. Thay vì bày
bán thực phẩm hay các vật dụng thiết yếu, siêu thị là nơi lưu giữ rất nhiều hồ
sơ cá nhân của những người cịn đang cơ đơn mong muốn tìm bạn đời [5].
Tại một số địa phương khác ở Trung Quốc, nhiều mơ hình tương tự
"siêu thị tình u" cũng đã xuất hiện như "chợ" MGKH tại Thượng Hải hay
hội chợ tình u tại Tây Trực Mơn... Ở đây ln có hàng trăm mẩu giấy được
treo sát nhau, trên đó là những dòng viết tay giới thiệu sơ lược về bản thân và
yêu cầu đối với bạn đời. Thông tin này thường được đăng tải miễn phí nhưng
để "kết nối" được với người bạn đời mình ưng ý, người "đi chợ" phải trả lệ
phí. "Chợ" thường họp vào dịp cuối tuần, thu hút khá đông giới trẻ và cả các

23

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


bậc phụ huynh. Để tìm được một người ưng ý không phải là chuyện dễ dàng
nhưng với các ông bố bà mẹ, "chợ" hôn nhân là nơi làm họ yên lịng. Khi đến
"chợ", họ sẽ có cơ hội để giao lưu và chia sẻ với những người cùng chung nỗi

lo con cái mình bị "ế" [5].
Cịn tại Nhật Bản, hiện có khoảng 600.000 thanh niên, trong đó 60%
là nam giới, phải dựa vào trợ giúp của các công ty môi giới để có thể gặp và
tìm bạn đời. Các trung tâm môi giới hôn nhân đã tung ra nhiều loại hình dịch
vụ hấp dẫn, một trong số đó là "Hội nghị hơn nhân" nhằm đáp ứng nhu cầu
tìm bạn đời của những thanh niên bận rộn và có thu nhập thấp. Thay vì phải
trực tiếp đến đăng ký tìm bạn đời, họ có thể ủy quyền cho bố mẹ tham gia hội
nghị. Các ơng bố bà mẹ sẽ tìm người phù hợp cho con mình, sau đó họ tự
đứng ra tổ chức các cuộc gặp cho con [5].
Thời đại của công nghệ thông tin, hàng loạt các website mai mối rủ
nhau ra đời đáp ứng nhu cầu làm quen của các bạn trẻ. Ngay tại các quốc gia
lưu giữ nhiều phong tục truyền thống như Ấn Độ, các bậc làm cha làm mẹ
cũng đã làm quen với việc tìm con dâu, con rể trên mạng internet.
Kết hợp kiểu mai mối truyền thống và văn hóa internet cũng đang
phát triển mạnh mẽ tại Hàn Quốc. Hơn 1.000 đại lý mai mối đang hoạt động
tại xứ sở Kim Chi. Còn ở Nhật Bản, Match.com là một website đóng vai trị
"bà mối" rất nổi tiếng, với đề tựa "Khi bạn muốn yêu nghiêm túc" (When
you’re serious about love) và website này còn đặc biệt ở chỗ: nó thu hút rất
nhiều người cao tuổi tại xứ sở hoa anh đào - nơi người ta ln kín kẽ và cịn
giữ nhiều định kiến về tuổi tác. Chính thức gia nhập thị trường Nhật Bản từ
năm 2004, Match.com đã thu hút được ít nhất 840.000 thành viên thường
xuyên. Trong đó, website rất chú trọng vào bộ phận người cao tuổi, vì một lẽ
đương nhiên, Nhật Bản là nơi có dân số già lấn át dân số trẻ [5].
Ở Việt Nam, mai mối là hoạt động rất được coi trọng trong xã hội
phong kiến. Trong các cuộc hơn nhân khơng thể thiếu vai trị của Người làm
mối. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chế độ phong kiến được

24

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



thay bằng chế độ Dân chủ cộng hòa. Những tàn dư của xã hội phong kiến dần
bị xóa bỏ. Hơn nhân do cha mẹ định đoạt không dựa trên cơ sở tự nguyện bị
nghiêm cấm. Hoạt động mai mối không còn giữ vai trò như trước nữa và dần
bị mai một. Đến giữa thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam chuyển sang xây
dựng nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn theo xu thế
tồn cầu hóa. Nhu cầu kết hơn với người nước ngồi tăng mạnh, kéo theo nó
là sự phát triển của hoạt động MGKH.
Trong 10 năm trở lại đây, tình trạng hơn nhân có yếu tố nước ngồi ở
Việt Nam gia tăng đột biến nhưng hầu hết qua môi giới. Xu hướng chủ yếu
trong hơn nhân có yếu tố nước ngồi là các cô dâu Việt Nam kết hôn với nam
giới mang quốc tịch các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các nước Đông Á.
Hầu hết các cuộc hôn nhân đều thông qua mai mối của người quen hoặc thông
qua các cá nhân, tổ chức MGKH bất hợp pháp. Đa số các trường hợp quen
biết nhau chỉ dưới 03 tháng, rất hiếm trường hợp quen biết trực tiếp. Nhiều
cuộc hôn nhân diễn ra trong khi hai bên không hề gặp gỡ dù chỉ một lần. Hoạt
động kinh doanh MGKH nhằm mục đích trục lợi, bất hợp pháp diễn ra dưới
hình thức chọn vợ tập thể, thiếu văn hóa, vi phạm thuần phong mỹ tục dân tộc
Việt Nam, hạ thấp danh dự, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam. Đó cũng là
nguyên nhân hình thành những đường dây mua bán người xuyên quốc gia, xuất
hiện nhiều vụ xem mặt, chọn vợ bất hợp pháp, gây dư luận xấu trong xã hội.
Hiện nay, MGKH nói chung và MGKH với người nước ngồi ln có
tính hai mặt. Mặt tích cực là tạo điều kiện cho hai bên có điều kiện làm quen,
tiếp xúc và tìm hiểu nhân thân của nhau. Đó cũng là những yếu tố cần thiết để
hình thành giai đoạn tiền hôn nhân, nhất là trong xã hội công nghiệp. Nhiều
người đã tìm được bạn đời qua những hình ảnh và thơng tin của các dịch vụ
mơi giới. Nhưng tính trung thực của các loại thơng tin này (hình ảnh, số
liệu,..) không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Mặt trái của MGKH có yếu tố
nước ngồi là áp đặt, cung cấp thông tin sai lệch và kiếm lời. Họ tìm mọi cách

để thành cơng với mục đích kiếm được tiền, bất kể cả việc cung cấp thông tin
sai, lừa dối đôi bên dẫn đến hậu quả khôn lường, làm nhiều gia đình tan vỡ,

25

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trong đó chịu thiệt thịi hơn cả là người phụ nữ. Nhiều vấn đề thuộc hành vi,
văn hóa, lối sống không được cung cấp đầy đủ và trung thực. Mặt khác,
chuyện "kết tóc xe dun" của đơi bên trong trường hợp này cần có cơ quan tư
vấn chuyên nghiệp và cần tính đến những rủi ro trước khi đi đến quyết định.
Chính vì vậy, cần có các tổ chức MGKH hợp pháp, đáng tin cậy và
nguyên tắc đầu tiên phải là cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để khách hàng
có cơ sở tin cậy cùng với gia đình đưa ra quyết định đúng đắn cho cuộc hôn
nhân của mình.
Ngồi ra, để hạn chế những tiêu cực của dịch vụ MGKH nói chung và
MGKH có yếu tố nước ngồi nói riêng địi hỏi cần có sự quản lý chặt chẽ của
cơ quan quản lý nhà nước với khung pháp lý hoàn thiện và chế tài cụ thể đủ
sức răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm, không để các cá nhân, tổ chức hoạt
động MGKH bất hợp pháp, đặc biệt là MGKH có yếu tố nước ngồi, hoạt
động với mục đích kiếm lời, phi nhân tính. Những tổ chức cung cấp thơng tin
sai lệch vì mục đích lợi nhuận phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.
Tóm lại, hơn nhân có yếu tố nước ngồi là một xu thế tất yếu trong bối
cảnh tồn cầu hóa hiện nay và là một vấn đề bình thường trong quá trình phát
triển, giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hóa. Trong thế giới tồn cầu hóa, với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đã giúp cho tất cả nhân loại
như cùng sống dưới một mái nhà chung, khoảng cách địa lý bị thu hẹp lại
nhưng mặt trái của tiến bộ khoa học, cơng nghệ lại chính là biến con người
ngày càng lệ thuộc nhiều vào máy móc, tất cả mọi hoạt động của con người

gần như là một chu trình khép kín. Trong guồng quay cuộc sống cơng nghệ
ấy, với bao bộn bề lo toan cuộc sống cùng với ngày càng quá đề cao chủ
nghĩa cá nhân, các bạn trẻ ít có thời gian và điều kiện tiếp xúc, gặp gỡ để tìm
kiếm bạn đời cho mình. Hoạt động MGKH phần nào đã giải quyết được
những vấn đề đó. Xét ở khía cạnh tích cực, MGKH góp phần giải quyết các
vấn đề xã hội như: giải quyết sự mất cân bằng về giới, tạo điều kiện thuận lợi
cho những cuộc di dân từ nơi có điều kiện kinh tế- xã hội chưa phát triển đến

26

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


những vùng kinh tế - xã hội phát triển hơn; thúc đẩy giao lưu giữa các nền
văn hóa; tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI KẾT HƠN Ở NƢỚC NGỒI VÀ Ở VIỆT NAM

1.2.1. Hoạt động mơi giới kết hơn ở nƣớc ngồi
Trong xã hội hiện đại, khái niệm dịch vụ MGKH khơng cịn xa lạ với
phần đông công chúng, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế phát triển. Sống
trong thời đại công nghiệp tiên tiến, với quy luật cạnh tranh gay gắt, con người
hiện đại bị cuốn vào vịng xốy của cơng việc, học tập,… hoặc mơi trường
sống khép kín, khơng có nhiều thời gian và cơ hội giao lưu, tiếp xúc với nhiều
người. Đó chính là điều kiện để MGKH ra đời và phát triển thành ngành dịch
vụ mới, mang lại lợi nhuận cao, đáp ứng đúng nhu cầu mà một xã hội hiện đại
rất cần - nhu cầu tìm bạn đời đáng tin cậy và phù hợp mà không mất quá
nhiều thời gian.
MGKH không chỉ phát triển rầm rộ ở các nước phương Tây - nơi có hệ
tư tưởng phóng khống, hiện đại. Ngay cả các nước phương Đơng, cụ thể là các
nước Châu Á chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo như Hàn Quốc, Trung

Quốc, Nhật bản,… hoạt động MGKH đã trở thành ngành dịch vụ phổ biến.
1.2.1.1. Môi giới kết hôn ở Hàn Quốc
Những thay đổi nhanh chóng diễn ra khắp nơi trên đất nước Hàn Quốc
là một trong những kết quả của công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, nhiều người dựa trên mai mối để tìm cho mình người bạn đời như mong
muốn, và sự phổ biến của các cuộc hôn nhân qua môi giới ở Hàn Quốc đang
ngày càng gia tăng. Một trong những cách truyền thống mà người Hàn Quốc
chọn bạn đời của mình là thơng qua mối quan hệ quen biết của những người
thân quen hoặc thông qua bà mối.
Khi phải đối mặt với những câu hỏi về hôn nhân như: Tôi sẽ kết hôn
với ai? Tôi muốn kết hôn với người như thế nào? Giới trẻ Hàn Quốc mong
muốn nhận được sự giúp đỡ từ nhân viên tư vấn hôn nhân và những bà mối

27

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×