Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS quyền con người và đảm bảo quyền con người ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THU HẰNG

QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI Ở
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THU HẰNG

QUYỀN CON NGƢỜI
VÀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Ưc

HÀ NỘI - 2013

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Thu Hằng

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI
1.1.
Mối liên hệ giữa cá nhân, xã hội, nhà nước và quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
1.1.2. Địa vị pháp lý của cá nhân trong xã hội

1
6
6
6
8

1.2.

Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền và nhà nước
pháp quyền
1.2.1. Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền

11

1.2.2. Lịch sử phát triển của nhà nước pháp quyền
1.3.
Các thế hệ quyền con người
1.4.
Các chuẩn mực quốc tế về quyền con người
Chương 2: LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM


15
26
29
40

2.1.
Truyền thống nhân nghĩa khoan dung của dân tộc
2.2.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người
2.2.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người

40
43
45

2.2.2. Những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về quyền con người
2.3.
Quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam về
quyền con người
2.4.
Những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam và những vấn đề
đặt ra trong việc phát triển, đảm bảo và bảo vệ quyền con người
2.4.1. Những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam
2.4.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát triển, bảo đảm và bảo vệ
quyền con người

47
57


MỞ ĐẦU

11

65
65
74

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 3:

CÁC CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI

77

Ở VIỆT NAM

3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.3.
3.4.
3.5.
3.6.


Hiến pháp, cơ chế bảo hiến và vai trị của nó trong việc bảo vệ
quyền con người
Bảo đảm và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hành pháp

77

Bảo đảm quyền con người qua cơ chế khiếu nại, tố cáo
Bảo vệ quyền con người qua cơ chế cải cách hành chính
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật tố tụng dân sự
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự
Bảo đảm quyền con người thơng qua vai trị của chính quyền
địa phương
Chuyển hóa các điều ước quốc tế về quyền con người vào
pháp luật Việt Nam

81
93
98
105
111

KẾT LUẬN

120
121

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

81


115

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CƯQT

: Công ước quốc tế

ĐƯQT

: Điều ước quốc tế

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là một trong những yếu tố cơ bản, nền tảng của một
xã hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người đã hình thành từ rất
sớm trong lịch sử nhân loại; tuy nhiên không phải trong bất cứ hình thái - xã
hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và được thừa nhận
một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con người là một phạm trù lịch sử và là kết
quả của cuộc đấu tranh khơng ngừng của tồn nhân loại nhằm vươn tới những
lý tưởng, giải phóng hồn tồn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sự
công bằng, dân chủ và nhân đạo.
Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi quyền con
người như một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong
kiến và để tập hợp lực lượng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề về
quyền con người đã được giai cấp tư sản đề cập đến như Tuyên ngôn độc lập
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Pháp năm 1789.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị
đập tan năm 1945, vấn đề quyền con người trở thành mối quan tâm của cả
Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức
Liên hợp quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề
quyền con người. Liên hợp quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng
định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt là Hiến chương Liên
hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 thì vấn đề về
quyền con người đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại,
trở thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế.
Đến nay thì quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong
Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Vấn đề đảm bảo quyền con người

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



ở mọi lĩnh vực hoạt động cụ thể cũng được tất cả các quốc gia trên thế giới
coi trọng.
Ở Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập năm 1945, Đảng và Nhà
nước ta luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba
Đình ngày 02/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương
diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người được ghi
nhận trong Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ 1946, 1959, 1980 và 1992.
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 của nước ta khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa và xã hội được tôn trọng và bảo đảm thực hiện" [33].
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc đảm bảo quyền con người lại
càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội
nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền
tồn cầu.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên
cứu để làm rõ khái niệm, bản chất và cấu trúc của quyền con người; lịch sử tư
tưởng về quyền con người ở Việt Nam; đồng thời làm rõ các cơ chế pháp lý
bảo đảm quyền con người trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài trong nƣớc và nƣớc ngoài
Quyền con người và đảm bảo quyền con người là một vấn đề cơ bản,
được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt coi trọng trong lĩnh vực nghiên
cứu lý luận cũng như thực tiễn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, các giá
trị về quyền con người và đảm bảo quyền con người luôn gắn liền với những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được.

8


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trên thế giới, từ cơ sở Luật quốc tế về quyền con người, các khu vực
quốc gia đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy quyền
con người trên thực tế.
Cùng với các căn cứ pháp lý về quyền con người, các quan điểm, tư
tưởng và quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã phản ánh hết sức
phong phú và đa dạng như: tác phẩm "Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị" của Lippman Matther, tạp chí
Quốc tế California, số 10 - 1980; tác phẩm "Việc áp dụng Hiệp ước Châu âu
về quyền con người của Tòa án Pháp" của Steiner Eva, tạp chí luật Kings
Collages, số 6-1996; tác phẩm "Các đảm bảo quyền cá nhân theo Hiến pháp
Liên bang Mỹ" của Scialia Antomin, nhà xuất bản Martinus Nijhoff publishers,
Dordrecht 1994…
Các tác phẩm nêu trên đề cập đến các vấn đề lý luận về quyền con
người nói chung, quyền con người ở từng lĩnh vực nói riêng, về tổ chức và
hoạt động thực tiễn đảm bảo quyền con người ở các quốc gia trong Cộng
đồng Châu Âu, cũng như các quốc gia, tổ chức khác trên thế giới.
Ở nước ta, việc nghiên cứu về quyền con người và đảm bảo quyền con
người là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước ta cùng các nhà khoa học xã hội
hết sức quan tâm trong thời kỳ đổi mới. Có thể kể đến những cơng trình như
sau: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền",
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, do TSKH. Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ
biên; tác phẩm "Quyền con người trong thế giới hiện đại", của GS.TS Hồng
Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; tác phẩm "Một số suy nghĩ về xây dựng nền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay", của Đỗ Trung Hiếu; tác phẩm "Quyền con
người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam", của GS.TS Trần Ngọc Đường; Luận văn Thạc sĩ: "Đảm bảo pháp lý về

quyền con người ở Việt Nam hiện nay", của Trần Thị Phương Hảo, 2008;
Luận án tiến sĩ: "Pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã hội ở

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Việt Nam", của Lê Hoài Trung, 2011; Luận án tiến sĩ: " Bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam",
của Lại Văn Trình, 2011.
Như vậy, trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về quyền con người và đảm bảo quyền con người nói chung hoặc
đảm bảo quyền con người trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể. Các cơng trình
nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con
người, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của quyền con người, về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, về việc xây dựng pháp luật để đảm bảo
quyền con người… Vì thế, các cơng trình này là nguồn tham khảo quan trọng
đối với tác giả trong q trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ chủ yếu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở
lý luận và thực tiễn đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay. Thơng qua
đó, nêu lên những giải pháp nhằm đảm bảo quyền con người ở Việt Nam trên
mọi lĩnh vực đạt được hiệu quả cao hơn nữa.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu về khái niệm, bản chất của quyền con người, lịch sử hình
thành và phát triển tư tưởng nhân quyền và nhà nước pháp quyền nói chung.
- Nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng nhân quyền

ở Việt Nam.
- Nghiên cứu các cơ chế pháp lý để đảm bảo quyền con người ở Việt
Nam, thơng qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường việc đảm bảo
quyền con người ở Việt Nam.

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng những quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và về quyền
con người. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng
hợp, hệ thống, tiếp cận lịch sử và phương pháp so sánh.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền con người.
Chương 2: Lịch sử tư tưởng về quyền con người ở Việt Nam.
Chương 3: Các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI


1.1. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁ NHÂN, XÃ HỘI, NHÀ NƢỚC VÀ QUYỀN
CON NGƢỜI

1.1.1. Khái niệm quyền con ngƣời
Ngày nay, quyền con người được thừa nhận là một khái niệm toàn cầu
như được ghi nhận trong tuyên bố của Hội nghị thế giới Vienna về quyền con
người năm 1993 và các nghị quyết của Liên hợp quốc đã được thông qua
nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người năm 1998. Kể từ đó, ngày càng có nhiều quốc gia bày tỏ sự ủng hộ của
mình đối với Tun ngơn quốc tế về quyền con người và đã phê chuẩn Công
ước quốc tế (CƯQT) về các quyền dân sự và chính trị cũng như CƯQT về các
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội được dựa trên nền tảng của Tuyên ngôn.
Điểm bắt đầu của khái niệm về quyền con người là khái niệm về phẩm
giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi
nhận trong Tun ngơn thế giới và các công ước năm 1966. Các công ước này
cũng ghi nhận ý tưởng về con người tự do khỏi sự sợ hãi, tự do làm điều
mong muốn và được hưởng các quyền bình đẳng và khơng thể chuyển nhượng.
Theo đó, quyền con người mang tính phổ qt và khơng thể chuyển nhượng,
có nghĩa là chúng được áp dụng khắp nơi mà không thể lấy đi. Như Tổng thư
ký Liên hợp quốc Boutros-Ghali đã nói trong Hội nghị Thế giới Vienna về
quyền con người vào năm 1993: "quyền con người là các quyền bẩm sinh".
Các quyền con người là không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau. Các
chiều hướng hay phạm trù nhân quyền khác nhau có thể được phân biệt theo
các quyền dân sự và chính trị như là quyền tự do bày tỏ và các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa. Trước đây, một số quốc gia hay nhóm các quốc gia cụ thể
như là các quốc gia XHCN đã ưu tiên các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

12


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hơn là các quyền dân sự và chính trị, trong khi Hoa Kỳ và các quốc gia thành
viên của Hội đồng châu Âu lại thể hiện sự ưu tiên các quyền cơng dân và
chính trị hơn. Tuy nhiên, tại Hội nghị quốc tế về quyền con người ở Vienna
vào năm 1993, cuộc tranh luận khơng có ý nghĩa này đã được giải quyết bởi
việc công nhận cả hai phạm trù hay xu hướng về quyền con người này là quan
trọng như nhau. Tại Hội nghị Teheran năm 1968, hai nhóm quyền này được
ghi nhận là không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau vì sự hưởng thụ đầy đủ
các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa dường như là khơng thể nếu như
khơng có các quyền dân sự, chính trị và ngược lại.
Vào những năm 1980, một nhóm các quyền con người nữa được ghi
nhận là quyền được hưởng hịa bình, quyền phát triển và quyền được sống
trong một môi trường khỏe mạnh. Những quyền này tạo ra một khn khổ
cần thiết kể cả khi có sự đồng ý của cá nhân đó cho cho việc hưởng thụ đầy
đủ các quyền khác. Nhóm quyền thứ ba là sự thể hiện tốt nhất tính thống nhất
của các quyền, vì chúng địi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế và hướng tới việc
xây dựng cộng đồng.
Trong khi quyền con người là quyền của tất cả cá nhân, cho dù họ có
quyền cơng dân của một nước cụ thể nào hay không, quyền công dân là các
quyền cơ bản được đặc biệt bảo đảm cho các công dân của một quốc gia cụ
thể, ví dụ như quyền bầu cử hay quyền được tiếp cận với các dịch vụ công
cộng tại một quốc gia nào đó.
Cần phân biệt quyền con người các quyền thiểu số, tức là quyền của
các thành viên trong một nhóm với các đặc điểm khác biệt về dân tộc, tôn
giáo hay ngôn ngữ. Tự bản thân họ hay trong cộng đồng với các thành viên
của nhóm, họ có quyền con người về hưởng nền văn hóa riêng của mình,
được bày tỏ hay thực hiện tơn giáo của riêng mình, được bày tỏ hay thực hiện
tơn giáo của riêng mình hay để sử dụng ngơn ngữ của riêng mình.

Ngày nay, khái niệm quyền con người được chia sẻ ở cấp độ tồn cầu
và nhờ đó được coi như một nền tảng cho các quốc gia của cộng đồng quốc tế,

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


các tổ chức quốc tế và các phong trào xã hội, tất cả đều với tư cách là thành
viên của xã hội quốc tế. Quyền con người cũng có thể là một phương tiện mà
mọi người có thể sử dụng như một cơng cụ biến đổi xã hội. Do đó, khái niệm
quyền con người gắn bó chặt chẽ với khái niệm về dân chủ.
1.1.2. Địa vị pháp lý của cá nhân trong xã hội
Mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân sống trên lãnh thổ là mối quan
hệ nền tảng trong mỗi quốc gia. Quan hệ đó thể hiện trong các quyền và nghĩa
vụ được quy định tạo thành địa vị pháp lý của cá nhân. Địa vị pháp lý này
nhiều, ít tùy thuộc vào tính chất của Nhà nước (quân chủ chuyên chế, dân chủ
tư sản hay dân chủ XHCN) và vào tính cơng dân của người đó (là cơng dân,
người khơng quốc tịch hay người nước ngồi). Do đó việc xác định tính cơng
dân (quốc tịch) của một cá nhân là một yếu tố trong việc quy định địa vị pháp
lý của cá nhân.
Công dân là bộ phận dân cư của một Nhà nước bao gồm những người
được xác định lệ thuộc pháp lý đối với Nhà nước đó. Người là cơng dân của
Nhà nước sở tại thì được hưởng đầy đủ những quyền và lợi ích tương xứng,
đồng thời phải gánh vác những nghĩa vụ do Nhà nước quy định. Những cá
nhân không phải là công dân thì chỉ được hưởng một số quyền lợi và gánh
vác những nghĩa vụ không đầy đủ so với những người là công dân theo pháp
luật nước sở tại và các hiệp ước được ký kết hoặc phê chuẩn.
Khái niệm công dân được gắn liền với khái niệm quốc tịch. Người là
cơng dân của nước nào thì mang quốc tịch nước đó. Điều 49 Hiến pháp nước

ta quy định "cơng dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam" [33]. Khái niệm quốc tịch được dùng để phân biệt công
dân của một nước với công dân của nước khác và với người không phải là
công dân của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Khái niệm quốc tịch được quy định thông dụng trên thế giới. Theo từ
điển Bách khoa Luật của Liên Xơ cũ thì:

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp lý và chính trị của
một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại giữa
Nhà nước và cá nhân. Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là
cơng dân của mình, bảo vệ và bảo hộ cơng dân đó ở nước ngồi. Về
phần mình, cơng dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước và
hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước [53, tr. 75].
Luật Quốc tịch Việt Nam định nghĩa:
Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá
nhân đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước
và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đối với cơng dân Việt Nam [40].
Như vậy, quốc tịch là trạng thái pháp lý xác định mối quan hệ lệ thuộc
giữa một cá nhân với một Nhà nước nhất định. Người có quốc tịch sẽ chịu sự
tài phán tuyệt đối của Nhà nước, đồng thời được hưởng đầy đủ mọi năng lực
pháp lý với sự bảo hộ của Nhà nước cả trong nước cũng như ở nước ngoài.
Trong trạng thái pháp lý trên, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân
có quốc tịch được thể hiện như sau: Thứ nhất, Nhà nước bằng pháp luật, quy

định quyền và nghĩa vụ của công dân, trong số các quyền đó, cơng dân có
quyền tham gia quyết định các công việc Nhà nước một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua những người đại diện do Nhân dân bầu ra; thứ hai, cơng
dân phải có nghĩa vụ tuân theo pháp luật mà Nhà nước của mình đặt ra dù họ
ở trong hoặc ngồi nước; thứ ba, Nhà nước có quyền phán xét, xử lý tuyệt đối
các hành vi của cơng dân nước mình đồng thời phải có trách nhiệm bảo hộ
quyền và lợi ích của cơng dân cả ở trong và ngồi nước.
Khi nói quốc tịch hay cơng dân là nói tới sự lệ thuộc của một cá nhân
vào một Nhà nước nhất định chứ không phải đối với một đất nước. Trên một
đất nước, qua các giai đoạn lịch sử có thể có những chế độ Nhà nước khác
nhau tồn tại. Quan hệ Nhà nước công dân bao giờ cũng là quan hệ giữa công

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


dân với một Nhà nước cụ thể. Hiện nay ở nước ta, đó là mối quan hệ giữa
cơng dân Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Công dân
Việt Nam của các chế độ trước được hưởng quyền và sự bảo hộ kế thừa của
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay.
Sự tồn tại của Nhà nước luôn luôn gắn liền với một quốc tịch thống
nhất. Trong từng trường hợp Nhà nước được tổ chức dưới hình thức liên bang
thì quốc tịch của các lãnh thổ hợp thành đồng thời là quốc tịch của Nhà nước
liên bang.
Để xác định cơng dân của mình, Nhà nước ban hành luật quốc tịch.
Đó là một chế định điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình xác lập tính lệ thuộc giữa một bên là các cá nhân sống trên lãnh thổ và
bên kia là Nhà nước. Luật về quốc tịch là tổng thể các quy phạm quy định về
sự có, mất, thay đổi quốc tịch, quốc tịch của người chưa thành niên, thẩm

quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề quốc tịch.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn luôn gắn liền với vấn đề
quốc tịch là nội dung biểu hiện của vấn đề quốc tịch. Có quốc tịch thì mới có
quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân; khơng có điều ngược lại. Quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân là hạt nhân cơ bản của công dân của quy chế công dân.
Những quyền và nghĩa vụ được quy định trong văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất trong mỗi một Nhà nước được gọi là quyền và nghĩa vụ cơ
bản. Việc quy định như vậy vì những quyền và nghĩa vụ xuất phát từ nhân
quyền; việc thành lập ra Nhà nước tiến bộ để bảo vệ chúng và không được
xâm phạm trong khi thực hiện quyền lực của mình. Nhưng khác với quyền
con người ở chỗ quyền công dân luôn gắn liền với một nhà nước sở tại.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền, nghĩa vụ được quy
định trong Hiến pháp. Những quyền và nghĩa vụ này được hiến pháp quy định
cho tất cả mọi công dân, hoặc cho cả một tầng lớp, một giai cấp, không quy
định cho từng người trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Những quyền này
thường được xuất phát từ quyền con người: "được sống, được tự do, được

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


mưu cầu hạnh phúc, khơng ai có thể xâm phạm được". Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ cụ thể của một công dân.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TƢ TƢỞNG NHÂN QUYỀN VÀ NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN

1.2.1. Lịch sử phát triển của tƣ tƣởng nhân quyền
Ý tưởng về nhân phẩm con người đã có từ xa xưa trong lịch sử của
nhân loại, dưới các hình thức khác nhau, trong tất cả các nền văn hóa và tơn

giáo. Tuy nhiên, ý tưởng về "quyền con người" là kết quả của tư tưởng triết
học thời hiện đại, không chỉ dựa trên triết học của chủ nghĩa duy lý và thời đại
khai sáng, chủ nghĩa tự do và dân chủ, mà còn dựa trên chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử nhân loại, ngay từ thời cổ, đã có các bản văn nhìn nhận
những quyền lợi của con người; nhưng không phải ai ai cũng được hưởng
những quyền đó mà chỉ có một giai cấp nào, một giới nào đó thơi. Việc nhìn
nhận cho hết mọi người, bất kỳ tuổi tác, phái tính, giai cấp nào, cũng được
hưởng một số quyền lợi căn bản như nhau, là một quan điểm hết sức mới mẻ.
Người ta thường cho rằng khởi điểm là Tuyên ngôn của cách mạng Pháp năm
1789: "Hết mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng với nhau". Tuy nhiên,
bản tuyên ngôn các quyền lợi con người của cuộc cách mạng Pháp khơng
thành hình một sớm một chiều, mà nó đã được chín muồi từ bao nhiêu tư
tưởng triết lý, tơn giáo và pháp lý trước đó.
Trong số những văn kiện pháp lý gây ảnh hưởng trực tiếp trên tuyên
ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp là sắc dụ Sublimis Deus (2/6/1537) của
Đức Thánh Cha Phaolo III. Phần đông các nhà thần học Tây Ban Nha thời đó
cho rằng vũ trụ này thuộc về Thiên Chúa, cho nên ai theo đạo Thiên Chúa thì
có quyền chiếm hữu vũ trụ. Tuy nhiên cha Francisco de Vitoria, dòng
Đaminh, giáo sư tại Salamanca (1484-1546), chủ trương rằng chủ quyền đất
đai không dựa trên lý do tơn giáo nhưng dựa trên bản tính con người. Vì thế
các thổ dân có quyền làm chủ lãnh thổ của họ, và hoàng triều Tây Ban Nha

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


khơng có cơ sở pháp lý nào để chiếm cứ. Văn kiện này khơng phải chỉ có tính
cách thần học, mà nó cịn có tính cách pháp lý nữa bởi vì nó ràng buộc chính
sách của hồng triều Tây Ban Nha tại châu Mỹ, và cha Bartolomeo de Las

Casas đã dựa vào đó để bảo vệ tự do cho các thổ dân. Tuy bản văn còn mang
nhiều giới hạn về lý thuyết và áp dụng, nhưng nó cũng đã phản ánh ý thức về
những quyền lợi gắn với bản tính con người, tựa như: tự do, sở hữu và thủ đắc
tài sản. Nó là khởi điểm cho việc thiết lập danh sách các quyền lợi căn bản
của con người trong các thế kỷ kế tiếp, chẳng hạn: Quyền con người của Anh
(1689), và những tuyên ngôn độc lập ở Bắc Mỹ. Vào các thế kỷ 16-17, từ ngữ
cịn mơng lung: quyền của công dân, quyền của con người, quyền tự nhiên,
quyền thiên nhiên, v.v... Thế nhưng phải nói rằng chính lý thuyết về quyền tự
nhiên đã trở thành nguồn gốc và nền tảng của học thuyết về nhân quyền.
Từ ngữ "quyền tự nhiên", ắt sẽ gợi lên trong suy nghĩ của mỗi người
một tư tưởng khác nhau. Có người liên tưởng tới những quyền tự do của lồi
người khi cịn sống trong tình trạng tự nhiên, muốn làm gì thì làm, khơng bị
luật lệ nào cưỡng bách gị bó. Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu quyền tự nhiên
theo nghĩa là những quyền lợi gắn với bản tính của con người, nghĩa là bẩm
sinh chứ không do xã hội ban cấp và thu hồi. Ý thức về những quyền lợi bẩm
sinh đã xuất hiện trong các triết gia Hy Lạp, La Mã trước Kitơ giáo. Trong tiến
trình địi hủy bỏ chế độ nô lệ, các triết gia Hy Lạp đã lập luận rằng con người
sinh ra đều bình đẳng với nhau; sở dĩ có người làm chủ nhân và có người làm
tơi mọi là do hồn cảnh thời thế mà thơi. Có thể nêu tên tuổi một vài triết gia
cận đại đã gây ảnh hưởng đến các bản tuyên ngôn nhân quyền như: Thomas
Hobbes (1588-1679), Edward Coke (1552-1634), John Locke (1632-1704). Lập
luận của họ đều dựa trên quan điểm: con người có những quyền lợi gắn liền
với bản tính chứ không phải là do đặc ân của nhà cầm quyền xã hội ban cho.
Như vậy, bản tuyên ngôn nhân quyền cách mạng Pháp đã có những tiền
sử xa gần của nó. Gần hơn cả là những tun ngơn của Anh vào thế kỷ 17.
Tuy nhiên, Tuyên ngôn cách mạng 1789 của Pháp đã đánh dấu một giai đoạn

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



mới, bởi vì khơng những nó được truyền bá và áp đặt trong nước mà còn tại
những quốc gia khác ở Châu Âu do những cuộc chinh phục quân sự của
Napoleon. Bản tuyên ngôn được sử dụng như công cụ để lật đổ các chế độ
quân chủ. Về mặt lý thuyết, có thể thấy có sự tiến triển về quan niệm nhân
quyền so với các bản văn trước đó. Trước đây, để chống lại những luật lệ bất
công hay hà khắc của nhà vua, người ta đã tranh đấu để được hưởng một vài
đặc ân, nhưng mà những đặc ân đó chỉ giới hạn vào một vài điểm cụ thể (ví
dụ: có thể theo một tơn giáo khác với quốc giáo; không bị bắt giam vô cớ…),
hay chỉ dành cho một tầng lớp xã hội (quý tộc, giáo sĩ). Tuyên ngơn cách mạng
Pháp nhìn nhận cho hết mọi con người sinh ra đều được tự do và bình đẳng.
Tuy nhiên, theo thời gian, người ta thấy bản tuyên ngôn cách mạng
Pháp có nhiều giới hạn:
- Chủ thể của những quyền lợi không phải là hết mọi con người sinh
ra trên thế giới này, mà chỉ là những công dân Pháp. Tựa đề của tun ngơn
đã nói rằng đây là những quyền của con người và của công dân (nhân quyền
và dân quyền). Dĩ nhiên các dân ở các nước thuộc địa không thể nào yêu sách
được hưởng những quyền lợi đó, bởi vì họ đâu có phải là cơng dân nước
Pháp, phụ nữ và vị thành niên cũng chưa được hưởng quyền công dân.
- Quyền con người là giới hạn cho sự can thiệp của Nhà Nước, chính
quyền khơng được phép đụng tới khu vực tự do của mọi công dân. Về mặt lý
thuyết thì đó là quan điểm tuyệt vời; nhưng mà khi bối cảnh xã hội thay đổi
thì những quyền tự do đó chỉ bảo vệ cho giới tư sản, cịn lớp dân nghèo thì
vẫn lâm vào cảnh đói kém. Điều này đã xảy ra nhân cuộc cách mạng công
nghệ ở Châu Âu vào thế kỷ 19. Giới tư bản dựa vào các quyền tự do để có thể
thao túng thị trường theo định luật cung cầu, và hậu quả là hàng triệu người
rơi vào tình trạng nghèo đói của lớp vơ sản.
Cuộc cách mạng Pháp đã cho ra đời tun ngơn các quyền lợi chính trị
của cơng dân. Do những thiếu sót vừa nêu, người ta thấy cần phải thêm những

quyền lợi kinh tế xã hội. Điển hình với bản tun ngơn nhân quyền của Liên

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hợp quốc được biểu quyết ngày 10/12/1948 sau gần hai năm thảo luận trải qua
18 dự thảo. Điều 1 của văn kiện viết như sau: "Mọi người đều sinh ra tự do và
bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và
phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ". Dựa trên nền tảng này, bản
tuyên ngôn loại trừ hết mọi kỳ thị về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ,
tơn giáo, chính kiến, tư tưởng. Trong số các quyền lợi được liệt kê chúng ta
có thể phân biệt hai nhóm:
- Những quyền tự do cá nhân, bao gồm: sinh sống, an ninh bản thân
(Điều 3), không bị làm tôi mọi (Điều 4), không bị hành hạ tra tấn, đối xử trái
với nhân đạo (Điều 5), không bị giam giữ hay trừng phạt trái phép (Điều 9-11),
không bị xâm phạm vào đời tư (Điều 12), cũng như những quyền được kết
hôn và lập gia đình (Điều 16), quyền tư hữu (Điều 17), quyền tự do tư tưởng,
lương tâm, tín ngưỡng (Điều 18), quyền tự do có ý kiến và phát biểu (Điều
19), quyền hội họp và lập hội (Điều 20). Những quyền này đã được nhìn nhận
trong hiến pháp của các nước dân chủ.
- Những quyền chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, từ Điều 21 trở đi,
bao gồm: tham gia chính quyền, an sinh, làm việc và nghỉ ngơi (Điều 23-24),
bảo hiểm sức khỏe và tai nạn rủi ro (Điều 25), giáo dục và văn hóa (Điều 26-27).
Trước đây, những quyền tự do chính trị đặt ra những giới hạn cho sự
can thiệp của Nhà nước vào đời sống của tư nhân. Ngày nay, các quyền lợi
kinh tế xã hội thì lại địi hỏi Nhà nước phải hành động, tạo ra những điều kiện
phục vụ cho các quyền lợi ấy (công ăn việc làm, nhà ở, bệnh viện, trường học...).
Rõ ràng, nhân quyền qua những tuyên ngôn và hiệp ước của Liên hợp

quốc có rất nhiều điểm tiến bộ, nhất là khi so sánh với bản tuyên ngôn 1789
của cách mạng Pháp. Tuy nhiên, đằng sau những bản liệt kê khác nhau về các
quyền lợi ta thấy có một quan niệm như nhau về chủ thể của chúng, đó là cá
nhân con người. Con người bẩm sinh đã có một số quyền lợi mà xã hội khơng
những khơng được xâm phạm đến mà cịn có nghĩa vụ phải bảo vệ nữa. Thế
nhưng quan niệm như vậy lại hình dung cá nhân con người tách rời ra khỏi

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cộng đồng xã hội, con người hiện hữu trước và ngồi xã hội. Chính vì thế các
học giả bắt đầu hình thành quan điểm con người xét như là thành phần của một
cộng đồng. Từ đó, vấn đề nhân quyền kèm theo quyền của các cộng đồng, đặc
biệt là cộng đồng thiểu số, quyền của các cộng đồng (ngôn ngữ, văn hóa, tơn
giáo) được hiện hữu và hoạt động. Theo chiều hướng đó, Liên hợp quốc đã
đưa ra khơng chỉ quyền độc lập tự quyết của các dân tộc mà còn quyền của
những thành phần chịu thiệt thòi, chẳng hạn: trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ.
Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX, thế giới giống như tất cả
đều sống chung trong một ngôi làng nhỏ, và bất cứ biến cố nào xảy ra tại một
vùng trên thế giới cũng đều gây ảnh hưởng cho toàn thể cộng đồng nhân loại.
Bắt đầu từ khi chiến tranh vùng Vịnh đã gây ra cơn sốt giá cả về dầu lửa, sau
đó là những vụ di cư, tị nạn, khủng bố và đặc biệt là môi trường. Các nước
nghèo chặt cây đốt rừng để sinh sống và sự phá rừng này gây những ảnh
hưởng đến thời tiết nhiệt độ của địa cầu. Vì vậy mà việc bảo vệ nhân quyền
mặc nhiên bao gồm cả bảo vệ quyền của toàn thể cộng đồng nhân loại, đặc
biệt là những thế hệ tương lai. Đến đây quyền sống của cá nhân và cộng đồng,
quyền được hưởng hịa bình, quyền của các dân tộc được phát triển về văn
hóa và kinh tế,... được ghi nhận. Liên hợp quốc trở thành cơ quan thúc đẩy

việc tổ chức những hội nghị về môi sinh, phát triển.
1.2.2. Lịch sử phát triển của nhà nƣớc pháp quyền
Các nhà tư tưởng tiến bộ thế kỷ XVIII-XIX đã đưa ra quan niệm Nhà
nước pháp quyền nhằm chống lại Nhà nước chuyên chế, cực quyền phong
kiến, chống lại sự độc đoán, lạm quyền và nằm trong trào lưu chung của hệ tư
tưởng giải phóng. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền địi hỏi phải thay đổi
hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ dựa trên ngun tắc tơn trọng tính tối cao
của pháp luật và pháp chế. Với tính cách là một hình thức chính trị pháp lý
hợp lý, Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị quý báu chung của
toàn nhân loại, được xếp ngang với những giá trị khác như nhân quyền, dân
chủ và chế độ lập hiến.

21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Từ thời cổ đại, người ta đã bắt đầu tìm kiếm nguyên tắc, hình thức và
cơ cấu để thiết lập quan hệ qua lại, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau
giữa pháp luật và quyền lực.
Trào lưu của quan niệm ngày càng sâu sắc, sớm hình thành tư tưởng
về sự hợp lý và công bằng của việc tổ chức một hình thức chính trị của đời
sống xã hội, trong đó nhờ vào sự thừa nhận và ủng hộ của quyền lực, pháp
luật trở thành sức mạnh của quyền lực, cịn sức mạnh của quyền lực được tổ
chức có trật tự, thừa nhận pháp luật và bị hạn chế, ràng buộc bởi pháp luật, trở
thành quyền lực nhà nước công bằng (tức phù hợp với pháp luật). Sự nhận
thức như vậy về Nhà nước như một tổ chức pháp lý của sức mạnh quyền lực
công khai là tư tưởng cơ bản về Nhà nước pháp quyền. Học thuyết về Nhà
nước pháp quyền thực tế được xây dựng muộn hơn trong cuộc đấu tranh
chống lại sự lộng quyền, độc đoán của giai cấp phong kiến. Tuy vậy, ý tưởng

về Nhà nước pháp quyền có cội nguồn xa xưa trong lịch sử nhân loại.
Xét về phương diện lịch sử, vấn đề nhà nước pháp quyền xuất hiện
sớm nhất ở Trung Quốc cổ đại, vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc
với người khởi xướng là Thân Bất Hại, sau đó được Quản Trọng, Tử Sản,
Thương Ưởng, Hàn Phi bổ sung và phát triển. Đây chính là tư tưởng pháp trị
và trường phái tư tưởng này được gọi là "Pháp gia".
Tuy chủ trương chung là dùng pháp luật để trị nước, song các nhà tư
tưởng thuộc pháp gia có những ý kiến không thống nhất. Thận Đáo nhấn
mạnh tầm quan trọng của "thế" nghĩa là coi trọng địa vị, uy tín, trình độ của
những người nắm pháp luật mà cụ thể là Vua và hệ thống quan lại. Thân Bất
Hại đứng đầu nhóm duy pháp, cho rằng "pháp luật" là yếu tố quan trọng nhất;
bởi vì: nếu pháp luật đầy đủ, nghiêm minh thì nước mạnh, nếu pháp luật
thiếu, yếu, lỏng lẻo thì nước yếu. Thương Ưởng khẳng định rằng, "thuật" là
nhân tố có tầm quan trọng trong đường lối trị nước, đó là "thuật" bổ nhiệm
quan lại dựa trên chính danh, trên nhu cầu thực tế, "thuật" giám sát và thưởng
phạt dựa trên nguyên tắc "theo danh mà trách thực", "theo việc mà trách

22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


công" là quan lại phải chịu trách nhiệm và bổn phận về việc mình làm, khơng
đổ lỗi cho người khác, cho hồn cảnh, khơng trốn tránh trách nhiệm.
Với tư cách là đại biểu điển hình, là linh hồn của pháp gia, Hàn Phi đã
thống nhất được nội dung của cả ba quan điểm trên. ông cho rằng, người lập
pháp và thi hành pháp luật phải có cái thế riêng của mình, tức phải chính danh,
đồng thời phải có thuật trị nước, sau đó vận dụng pháp luật phải hợp thời.
Theo Hàn Phi Tử, trong pháp luật có ba đối tượng (chủ thể pháp luật)
tham gia: Vua là người đặt ra pháp luật; bề tôi (hệ thống quan lại) là những người

triển khai và giám sát pháp luật; dân là những người phải tuân thủ nhất quán
pháp luật, trong đó hệ thống quan lại có một vai trị quan trọng [16, tr. 428].
Tư tưởng Pháp gia đã có ảnh hưởng sâu rộng về phương diện thực tiễn
trong xã hội Trung Quốc đương thời, tuy còn những hạn chế nhất định, song
tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã tạo tiền đề lý luận cho việc hình thành tư
tưởng về nhà nước pháp quyền của nhân loại về sau.
Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Solon (638 - 559 tr.CN) - nhà thông
thái Hy Lạp - đã áp dụng tư tưởng kết hợp sức mạnh với quyền lực trong việc
tổ chức Nhà nước Ai Cập trên những nguyên tắc dân chủ. Ông diễn đạt tư
tưởng của mình rằng, phải giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực pháp
luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật.
Sau tư tưởng của Solon, nhà tốn học kiêm triết gia Pithagore địi phải
thực hiện mệnh lệnh của nhà nước, tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật
phải đứng cao hơn các phong tục, tập quán truyền thống. Trên quan điểm duy
vật biện chứng, ông cho rằng, pháp luật là phương thức thực hiện các quyền
lợi chung của nhân dân; do vậy, muốn có tự do và bình đẳng thì nhân dân
phải đấu tranh để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của bản thân
mình. Theo ơng, các thành bang phải được thiết lập trên cơ sở pháp luật, mọi
người phải đấu tranh cho pháp luật như đấu tranh bảo vệ thành lũy quê
hương. Một nhà triết học duy vật khác là Democrite cho rằng, nhà nước và
pháp luật là sản phẩm cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân bị đè nén nhằm

23

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


liên kết với nhau thành cộng đồng xã hội để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhà
nước là sự hiện thân quyền lực chung của mọi công dân. Sự tự do của cơng
dân chính là sự tn thủ pháp luật.

Sự thắng lợi của nền dân chủ Athens nửa sau thế kỷ V (tr.CN) đã tạo
điều kiện cho sự ra đời lý thuyết "pháp luật tự nhiên", theo đó thì nhà nước và
pháp luật là sản phẩm sáng tạo của xã hội, chúng được tạo nên bởi những thỏa
thuận giữa mọi thành viên trong xã hội và có nhiệm vụ bảo vệ an ninh và
quyền lợi chung cho mọi công dân.
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Cuối thế kỷ V
trước Công Nguyên, trong xã hội Hy Lạp xuất hiện nhiều phe phái chính trị,
nền dân chủ Athens lâm vào khủng hoảng. Bằng luận điểm: "Quyền lực căn
cứ không phải trên luật pháp, mà trên thói chuyên quyền của người cầm
quyền, quyền lực như vậy chống lại nhân dân" [46, tr. 17], Socrate cho rằng
dân chủ không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực. Giá trị cao
nhất là công lý, nghĩa là con người ta sống tuân thủ pháp luật của nhà nước.
Theo Aristote, ở vương quốc Ai Cập cổ đại, nền dân chủ được hình thành
từ thời đại Solon. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của người cổ đại nhằm
chống lại quan niệm ấu trĩ, ngụy biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật (tức lẽ
phải thuộc về kẻ mạnh...). Ơng cho rằng nơi nào khơng có sức mạnh của Luật
thì nơi đó khơng có hình thức chế độ Nhà nước. Aristote hiểu luật là luật pháp
quyền (bất cứ đạo luật nào cũng bao hàm trong mình pháp luật, nói về tính tối cao
của luật trong một Nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa của nó). Theo ông,
khái niệm công bằng gắn liền với quan niệm về Nhà nước, bởi vì pháp luật là
tiêu chuẩn của sự công bằng, là quy phạm điều chỉnh mọi giao tiếp chính trị.
Cịn Platon thì cho rằng, "chúng ta thừa nhận rằng những nơi mà luật
được định ra vì lợi ích của một số người thì ở đó khơng có chế độ Nhà nước.
Chỉ có thể gọi là Nhà nước nếu ở đó có sự cơng bằng".
Các nhà tư tưởng cổ đại khơng chỉ chú trọng tới tính tối cao của luật,
của pháp luật mà còn chú trọng tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quản lý

24

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Nhà nước. Cả hai khía cạnh đều có ý nghĩa quan trọng, liên hệ mật thiết với
nhau. Nếu khơng có tổ chức quy củ của Nhà nước, khơng có sự phân định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn; Không quy định trật tự trong mối quan hệ qua lại
giữa các cơ quan Nhà nước thì khơng thể có tính tối cao của pháp luật. Mặt
khác, bản thân tổ chức hệ thống quyền lực của Nhà nước pháp quyền không
thể tồn tại nếu không phù hợp với pháp luật, nếu luật không được tn thủ.
Nhà nước pháp quyền địi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao
của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị. Đó là hai
yếu tố khơng thể thiếu và khơng thể tách rời của Nhà nước pháp quyền.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng cổ đại ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển các học thuyết về phân quyền, Nhà
nước pháp quyền của các nhà tư tưởng thời kỳ trung đại và cận đại. Các học
thuyết này đã đóng vai trị to lớn trong việc phê phán sự bất bình đẳng của chế
độ phong kiến, sự lạm quyền của quan lại phong kiến, khắc phục các quan
điểm thần học về Nhà nước và pháp luật, khẳng định tư tưởng bình đẳng và tự
do của mọi người trong đời sống xã hội, trong tổ chức pháp luật - Nhà nước
của các quan hệ chính trị.
Ý nghĩa quyết định của sự phát triển về lịch sử và lý luận của những
quan niệm mới về Nhà nước pháp quyền vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong
kiến lên chủ nghĩa tư bản, là những vấn đề quyền lực chính trị dưới hình thức
phân quyền phù hợp với tương quan mới của các lực lượng chính trị, xã hội giai cấp, đồng thời loại trừ khả năng độc quyền hóa quyền lực trong tay một
người hay một cơ quan. Thế giới quan pháp lý của giai cấp tư sản đang lên
đòi hỏi những quan niệm mới về tự do của con người thơng qua việc tơn trọng
tính tối cao của pháp luật trong mọi việc công, tư.
Thomas Hobbes (1588-1679) - nhà triết học duy vật Anh cho rằng: từ
buổi mới khai thiên lập địa, loài người sống trong trạng thái tự nhiên hoang
dã, khi đó chưa hình thành xã hội cơng dân, chưa ai có quyền lực kinh tế,
chính trị hơn ai nên mọi người đều bình đẳng cả về thể xác lẫn tinh thần.


25

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×