Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

CÁC GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.5 KB, 27 trang )

CÁC GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN
CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp
Chính sách, pháp luật hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp giữ một vị trí quan trọng
trong việc đảm bảo các quyền con người và tăng cường tính hiệu quả, hiệu lực trong
hoạt động của cơ quan tư pháp. Chính sách, pháp luật hình sự cần được hoàn thiện theo
hướng đề cao tính nhân đạo trong xử lý tội phạm; hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp
theo hướng nâng cao tính dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người; đề cao trách nhiệm pháp lý của các cán bộ có chức danh tư pháp trong hoạt
động tố tụng.
- Về việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự. Cần tiến hành sửa đổi
BLHS theo hướng phi tội phạm hoá một số hành vi hiện nay Bộ luật coi là tội phạm
như: tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác, tội kinh doanh
trái phép, tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội vô ý gây thiệt hại đến tài sản... Những hành
vi này có thể áp dụng các biện pháp khác để xử lý thay cho các biện pháp hình sự khi
các hành vi đó không còn nguy hiểm cho xã hội, phù hợp với các thông lệ, luật pháp
quốc tế trong điều kiện phát triển mới của đất nước, hội nhập quốc tế và khu vực.
Bên cạnh đó cần điều chỉnh áp dụng loại hình phạt mà người phạm tội phải cách
ly với xã hội và loại hình phạt không phải cách ly với cộng đồng. Tăng số lượng loại tội
phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ 5 đến 7 năm và giảm bớt mức hình
phạt tù tối đa còn quá cao như hiện nay đối với một số loại tội phạm. Giảm áp dụng
hình phạt tù mà chủ yếu là áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối
với một số loại tội, như: các tội phạm về môi trường; một số loại tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình; xâm phạm an toàn công cộng; xâm phạm trật tự quản lý hành
chính; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế... Việc điều chỉnh về loại hình phạt áp dụng và


mức hình phạt đối với một số loại tội phạm, vừa đảm bảo tính răn đe đối với người
phạm tội, vừa tạo điều kiện cho họ khắc phục hậu quả gây ra.
Cần nghiên cứu về việc áp dụng hình phạt tước sinh mạng của người phạm tội
theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình; nghiên cứu những cách thi hành án tử


hình phù hợp. Việc tước sinh mạng của người phạm tội chỉ áp dụng đối với một số ít tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng như một số tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội giết người,
tội chống loài người, tội phạm chiến tranh, tội buôn bán trái phép chất ma tuý... Nghiên
cứu bổ sung thêm đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc không phải thi
hành án tử hình.
Cùng với việc phi tội phạm hoá và nhân đạo hoá hình phạt, thì phải nghiên cứu
tội phạm hoá đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong lĩnh vực
kinh tế, trong lĩnh vực thông tin… do quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập
khu vực và quốc tế.
BLHS cần sửa đổi theo hướng quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn
đối với những người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, tham nhũng. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc hơn để làm gương cho người
khác.
- Hoàn thiện pháp luật về tố tụng tư pháp. Nghiên cứu việc rộng quyền hạn về tố
tụng hình sự cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động thực thi
nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định
và hành vi trong điều tra, truy tố, xét xử. Tiến tới giao cho điều tra viên, kiểm sát viên
thực hiện các quyền hạn tố tụng, trừ quyết định quan trọng, như khởi tố bị can, quyết
định áp dụng biện pháp tạm giam, quyết định truy tố... Thẩm phán có quyền áp dụng
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; ra quyết định thi hành án; cho hoãn việc
chấp hành án, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, quyết định xoá án tích...


Thu hẹp diện người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam;
xác định rõ ràng căn cứ tạm giam. Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
một số loại tội; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các VAHS. Đổi mới
mạnh mẽ thủ tục tố tụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng,
bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước toà án trong việc
đưa ra những đề nghị, yêu cầu, tài liệu, chứng cứ và tranh luận dân chủ tại phiên toà;

nâng cao chất lượng và hiệu lực của các bản án, quyết định của toà án.
Sửa đổi cơ chế xét xử tập thể. Đối với một số vụ án hình sự ít nghiêm trọng, tình
tiết đơn giản, chứng cứ rõ ràng, đầy đủ thì áp dụng cơ chế một thẩm phán xét xử. Tiếp
tục hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc
hai cấp xét xử theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm; quy định rõ trách nhịêm của người ra kháng nghị theo trình tự
giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật tránh
kháng nghị thiếu căn cứ. Nghiên cứu cơ chế, xác định rõ trách nhiệm của toà án nhân
dân các cấp trong việc thụ lý đơn, xem xét, giải quyết đầy đủ, đúng đắn cá khiếu nại
của người dân theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
Từng bước công khai hoá các bản án đặc biệt đối với các bản án dân sự, kinh tế,
lao động và hành chính; trừ những bản án về tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc
liên quan đến thuần phong, mỹ tục để người dân có điều kiện tiếp cận với công lý. Xây
dựng cơ chế để bsor đảm mọi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành; các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm, bị xử lý theo phán quyết của
toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS, Bộ luật
TTHS, sửa đổi Pháp lệnh điều tra hình sự, Pháp lệnh Thẩm phán và HTND.
2. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức
bộ máy các cơ quan tư pháp


Tiến hành xây dựng các cơ quan tư pháp theo hướng xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp trong đó đề cao vai trò trung tâm của toà án; tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp khác phục vụ cho công tác xét xử của
toà án. Từng bước xã hội hoá một số hoạt động tư pháp, giao cho các cá nhân, tổ
chức xã hội thực hiện, cụ thể.
3.2.2.1. Đối với toà án nhân dân
Tổ chức nghiên cứu về phạm vi thẩm quyền của toà án trong hoạt động xét
xử, đặc biệt là xét xử về hình sự. Theo BLHS năm 1999, tội phạm được phân thành

bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Theo khoản 1, Điều 170 Bộ luật TTHS năm 2003 thì TAND cấp huyện và
Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những VAHS về những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm
sau đây:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293,294, 295, 296, 322 và 323 của BLHS.
Bảng 2.2: Thống kê các khung hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm


1999 gắn với việc phân loại tội phạm
TT

Loại tội

Số khung hình phạt Tỷ lệ trên tổng số khung
hình phạt

1

Tội phạm ít nghiêm trọng


166

24,73%

2

Tội phạm nghiêm trọng

200

29,8%

3

Tội phạm rất nghiêm trọng

207

30,84%

4

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

98

14,6%

Cộng


671

Qua thống kê cho thấy, tổng số khung hình phạt thuộc các tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng là 573 khung
hình phạt. Trong số này, số khung hình phạt phải loại trừ không thuộc thẩm quyền
xét xử của TAND cấp huyện và Toà án quân sự khu vực theo các khoản a, b, c
Điều 170 Bộ luật TTHS là 68 khung hình phạt. Như vậy, thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện và Toà án quân sự khu vực hiện nay là 505 khung hình phạt
chiếm 75,26% trên tổng số 671 khung hình phạt của BLHS năm 1999; thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu theo khoản 2,
Điều 170 Bộ luật TTHS chiếm khoảng gần 25% tổng số khung hình phạt.
Thực tế cho thấy, tội phạm xảy ra thường có xu hướng sẽ tăng lên đối với tội
có khung hình phạt thấp, giảm xuống đối với tội có khung hình phạt cao so với tỷ
lệ thống kê cơ học trong tổng số các khung hình phạt của BLHS. Tuy nhiên, với
việc TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm khoảng 25% khung hình phạt này (chủ yếu là tội
đặc biệt nghiêm trọng) thì ba toà phúc thẩm TAND tối cao hiện nay cũng phải rất vất
vả để xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Cũng chính vì vậy mà áp lực khiếu nại yêu cầu
xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đối với TAND tối cao không ngừng tăng lên và
không có cách giải quyết triệt để.
Qua phân tích số liệu thống kê ở trên cho thấy nên giao cho Toà án sơ thẩm
cấp khu vực thẩm quyền xét xử các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm


trọng, tội phạm rất nghiêm trọng như thẩm quyền của TAND cấp huyện hiện nay
và không nên tăng thẩm quyền cho Toà án này. Đối với Toà án phúc thẩm, nên giao
cho Toà án này thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm như thẩm quyền của TAND
cấp tỉnh hiện nay và không xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Đồng thời để giảm áp
lực cho TAND tối cao, nên giao cho Toà án thượng thẩm thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ

thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm. TAND tối cao chỉ còn xét xử giám đốc thẩm các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật có tầm ảnh hưởng đến toàn quốc1.
Để thực hiện yêu cầu này thì cần phải tổ chức hệ thống toà án không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính mà theo thẩm quyền xét xử gồm: toà án sơ thẩm được
tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện (toà án khu vực); toà án
phúc thẩm được đặt theo đơn vị hành chính cấp tỉnh có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử
phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; toà thượng thẩm được tổ chức theo khu
vực có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm; TAND tối cao có nhiệm vụ tổng kết
kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Cần thành lập một số toà chuyên trách, như: Toà vị thành niên, Toà hôn nhân
và gia đình... cho phù hợp với tính chất, đặc điểm của những vụ việc mà toà án
phải xử lý và bảo đảm tính chuyên sâu của thẩm phán. Việc thành lập toà chuyên
trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp toà án, từng khu vực, không nhất
thiết ở cấp nào, địa phương nào cũng thành lập các toà chuyên trách giống nhau.
Cần đổi mới tổ chức TAND tối cao tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những
chuyên gia đầu ngành về pháp luật có bề dầy kinh nghiệm lâu năm trong ngành
Nghiên cứu xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Toà án Quân sự
theo hướng toà án Quân sự chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa
1 Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135, 11-2008


vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự... Các
Tòa án quân sự nên tổ chức theo cấp theo cấp xét xử, đó là mô hình Tòa án quân sự
cấp sơ thẩm, Tòa án quân sự cấp phúc thẩm và Tòa án quân sự trung ương. Tòa
quân sự có những nét đặc thù riêng trong xét xử, do đó cần ban hành các qui định
pháp luật riêng rẽ qui định về tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự, cũng như
mối quan hệ giữa Tòa quân sự với hệ thống TAND theo luật định.
Cùng với việc cải cách mô hình tổ chức Toà án, thì vấn đề cải cách cơ chế
bổ nhiệm thẩm phán phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu vì thẩm phán là “linh hồn”

của Toà án. Việc chuẩn bị nhân sự cho việc bổ nhiệm thẩm phán cần theo nguyên
tắc “thà ít mà tốt” chứ không thể vì yêu cầu số lượng mà phải “…vơ vét, tận dụng
những lực lượng đã có để bổ nhiệm cho đủ” như có lần Chánh án TAND tối cao trả
lời chất vấn trước Quốc hội.
Theo quy định của pháp luật, hiện nay có hai cơ chế bổ nhiệm thẩm phán.
Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm thẩm phán các TAND địa phương, Toà án quân
sự khu vực; Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán TAND tối cao, Toà án quân sự
trung ương. Cơ chế bổ nhiệm nhiệm hiện nay vẫn mang tính “khép kín”, chưa tạo
cơ hội cho người có phẩm chất, năng lực trong hệ thống chính trị trở thành Thẩm
phán (nguồn bổ nhiệm chủ yếu vẫn từ khối thư ký Toà án), chưa phát huy được vai
trò của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thể hiện chủ
quyền nhân dân, chưa gắn công tác giám sát tư pháp của Quốc hội, HĐND với
công tác cán bộ của cơ quan tư pháp. Mặt khác, việc giao cho Chánh án TAND tối
cao bổ nhiệm Thẩm phán chưa phải là phương án tối ưu để nâng cao chất lượng
hoạt động của Toà án, nhất là đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của mỗi cấp
Toà án.
Để đảm bảo tính dân chủ, minh bạch, trong bổ nhiệm thẩm phán phải có sự
điều chỉnh theo hướng giao cho UBTVQH bổ nhiệm thẩm phán TAND tối cao,
thẩm phán Toà án quân sự trung ương. Bởi vì theo qui định hiện nay Ủy ban


Thường vụ Quốc hội là cơ quan quyết định biên chế, chế độ tiền lương của ngành
Toà án, quyết định một số thẩm phán làm thành viên của Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao, giám sát hoạt động của TAND tối cao giữa hai kỳ họp Quốc hội.
Đối với việc bổ nhiệm thẩm phán Toà án thượng thẩm, thẩm phán Toà án phúc
thẩm, Toà án sơ thẩm khu vực nên giao cho Thường trực HĐND cấp tỉnh bổ
nhiệm. Để tập trung cho hoạt động xét xử, không nên giao cho Chánh án TAND tối
cao thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán ở bất kỳ cấp nào2.
Cùng với việc sắp xếp tổ chức và phân định thẩm quyền thì trong hoạt động
xét xử Tòa án cần tuân thủ và tiếp tục thực hiện tốt và hoàn thiện các nguyên tắc

sau đây:
- Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố
tụng. Hoạt động xét xử của Tòa án phải đảm bảo tính công minh, do đó trong xét
xử những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng cần có thái độ vô tư, chống
lại những biểu hiện thiên lệch. Để bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng hoặc người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử đòi hỏi phải xây dựng cơ chế
và hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự minh bạch, dân chủ.
- Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia. Theo quy định tại Điều 129 Hiến
pháp năm 1992 thì việc xét xử của TAND có HTND, của Tòa án quân sự có Hội
thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, HTND ngang
quyền với Thẩm phán. Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia được coi là một
nguyên tắc dân chủ, thể hiện tính nhân dân của Tòa án. Để thực hiện nguyên tắc
này đòi hỏi Tòa án phải phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ
chức chính trị - xã hội cử người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật tham
gia xét xử, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ tham gia xét xử và khi xét xử họ
được ngang quyền với Thẩm phán.
2 Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135, 11/2008.


- Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Điều 130 Hiến pháp năm 1992 và Điều 16 Bộ luật TTHS đều quy định: “Khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là nguyên
tắc Hiến định, nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án không bị chi phối bởi bất cứ
sự tác động nào khi ra bản án hoặc những quyết định. Nội dung của nguyên tắc này
là Thẩm phán và Hội thẩm hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong khi
tiến hành chức năng xét xử các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng, cũng
như khi ra bản án hoặc quyết định khác. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
hoặc bất cứ ai khác không được can thiệp vào hoạt động xét xử.
- Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Xét xử tập thể và quyết
định theo đa số là một nguyên tắc được quy định tại Điều 131 Hiến pháp năm 1992

và Điều 17 Bộ luật TTHS. Nguyên tắc xét xử tập thể được bảo đảm bằng các quy
định của Bộ luật TTHS về thành phần Hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm ít nhất là ba
người, đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc đối với bị cáo
3.2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là một trong các cơ quan có vị trí, vai trò, chức năng quan trọng
trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các
cơ quan chức năng khác. Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND có nhiều nội
dung như xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi,
phương thức hoạt động. Cùng với sự thay đổi về bộ máy Toà án thì tổ chức của
VKSND cần phải được thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống
cơ quan tư pháp. Trước hết cần đổi mới căn bản tổ chức và hoạt động của VKSND
hiện nay bằng việc thành lập Viện công tố để thực hiện tốt hơn chức năng công tố
nhà nước và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thực chất mô hình Viện công tố không còn là vấn đề mới trong lịch sử tư
pháp Việt Nam, mô hình này đã từng xuất hiện ở Việt Nam do người Pháp du nhập


vào và nó tiếp tục tồn tại sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau khi giành độc lập,
do hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc đó nên Hiến pháp 1946 chỉ đề cập đến tổ chức
tòa án. Tòa án có các công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh nhà nước
trước phiên tòa trong các VAHS, đến năm 1958 Viện công tố Trung ương trực
thuộc Chính phủ đã được thành lập trên cơ sở tách các công tố viên ra khỏi Tòa án.
Viện công tố là cơ quan giữ chức năng công tố nhưng cũng bao hàm một số yếu tố
của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
xử và kiểm sát giam giữ cải tạo. Mô hình tổ chức Viện công tố ở nước ta ở giai
đoạn này cho thấy cơ quan công tố không chỉ thực hành quyền công tố mà còn
giám sát các hoạt động tư pháp; cơ quan Công tố không chỉ thực hiện chức năng,
nhiệm vụ trên lĩnh vực hình sự mà còn cả lĩnh vực dân sự, thi hành án, giam giữ,
cải tạo; có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra vụ án hình sự mà khi cần thiết
còn trực tiếp tiến hành điều tra hoặc một số hoạt động điều tra…

Nhưng đến Hiến pháp 1959, trước yêu cầu của tình hình cách mạng mới, mô
hình Viện công tố đã phải thay đổi bằng mô hình VKSND. VKSND có chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đây là bản Hiến pháp lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta đã ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ
quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước đó là hệ thống cơ quan VKSND. Sự
lựa chọn mô hình VKSND ở nước ta là sự lựa chọn có cân nhắc, có ý thức, bởi vì
vào thời điểm này chỉ có VKSND mới có khả năng thực hiện chức năng bảo đảm
pháp chế thống nhất, bảo đảm tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh trong phạm vi cả
nước nhờ có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù của nó.
Các bản Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 có một số bổ sung về tổ chức,
hoạt động của VKSND như quy định Viện trưởng VKS các cấp phải báo cáo công
tác trước HĐND địa phương về tình hình thực thi pháp luật ở địa phương và trả lời


chất vấn, quy định về Ủy ban Kiểm sát có quyền hạn lớn hơn Viện trưởng. Hiến
pháp 1992 (sửa đổi) đã thu hẹp phạm vi hoạt động của VKSND chỉ còn “thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. VKSND từ chỗ được Hiến pháp
nhìn nhận như là nhân tố chính “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất “ thì bây giờ hoạt động của VKSND chỉ là nhân tố “góp phần”
cho quá trình đó mà thôi. VKSND theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã tiến gần đến
mô hình Viện công tố vì hoạt động đặc trưng nhất của nó là kiểm sát tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước không còn nữa. Khi Luật tổ chức
VKSND năm 2002 ra đời thì chức năng, nhiệm vụ và tổ chức, bộ máy của Viện
kiểm sát nhân dân đã có một bước thay đổi. Tiếp đó, khi Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác
định: “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách
nhiệm của Viện công tố trong hoạt động điều tra” thì vấn đề chức năng, nhiệm vụ
và tổ chức của VKSND được đặt ra một cách cấp bách.
Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của VKSND hiện nay thì ngoài việc

xác định tên gọi còn cần phải xác định rõ nhiệm vụ của VKSND trên các lĩnh vực
TTHS, kiểm sát hoạt động xét xử, thi hành án; quan hệ giữa VKSND với cơ quan
điều tra, với toà án và với cơ quan thi hành án. Theo chúng tôi, để cải cách tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát có hiệu quả cần nghiên cứu và xử lý một số vấn đề
sau:
- Xác định cụ thể mô hình tổ chức của VKSND phù hợp với hệ thống tổ
chức TAND.
- Xác định rõ địa vị của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, quan
hệ giữa công tố và điều tra và tòa án. Cụ thể, cần làm rõ các vấn đề:
+ Vai trò của VKSND trong việc nắm, xử lý thông tin về tội phạm.


+ Phân biệt rõ quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng.
+ Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm các chức danh pháp lý trong
TTHS.
+ Làm rõ mối quan hệ giữa VKSND với các cơ quan tố tụng. Đối với cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, yêu cầu cơ
quan điều tra và điều tra viên đề cao trách nhiệm thực hiện đúng các quy định
trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, điều tra, chứng minh hành vi phạm tội theo đúng
các quy định của pháp luật bảo đảm không để lọt tội phạm và không có oan, sai.
Đối với Toà án, Viện kiểm sát là cơ quan truy tố, buộc tội bị cáo, người bào chữa...
đưa ra. Nếu cho rằng Toà án xét xử sai thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu toà án
cấp phúc thẩm, toà án giám đốc thẩm thụ lý, giải quyết. Để thực hiện đúng trách
nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát (Viện công tố) đối với việc đấu tranh chống
tội phạm, không để lọt tội phạm và không xử lý oan người vô tội, thì phải nghiên
cứu làm rõ và xác định đúng vai trò, mối quan hệ của Viện công tố với cơ quan
điều tra. Viện công tố phải có đủ khả năng để quyết định việc điều tra, việc truy tố
bị can; có quyền hạn để cơ quan điều tra thực hiện theo yêu cầu của mình; cần giải
quyết tốt về mối quan hệ tổ chức, nhân sự giữa viện công tố và cơ quan điều tra.
Cần quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của VKSND trong hoạt động điều

tra. Trong các tài liệu gần đây thì có lúc dùng “công tố chỉ đạo điều tra”, có lúc thì
“công tố gắn với điều tra”, có chỗ dùng “tăng cường trách nhiệm của công tố đối
với điều tra”… Theo quy định như hiện nay thì Viện kiểm sát có trách nhiệm rất
cao trong việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường nếu xảy ra oan. Trong lúc đó Cơ quan
điều tra ra lệnh nhưng xảy ra oan thì Viện kiểm sát phải bồi thường, còn người ra
lệnh vô can. Khi VKSND yêu cầu điều tra nếu không được đáp ứng, đáp ứng
không đầy đủ thì việc xác định tính khách quan của vụ án là hết sức khó khăn,
chưa kể đến việc các cơ quan bổ trợ tư pháp không đáp ứng yêu cầu của Viện kiểm


sát về thời gian, về chất lượng giám định, về Luật sư trong những trường hợp pháp
luật quy định… Đây là những vấn đề cần làm rõ để xác định cụ thể hơn trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng khi xảy ra oan, sai.
3.2.2.3. Cơ quan điều tra
Trong quá trình CCTP việc xác định mô hình tổ chức và hoạt động thích hợp
cho cơ quan điều tra là điều hết sức cần thiết, bởi vì cơ quan điều tra là nơi cung
cấp đầy đủ các chứng cứ ban đầu để xác định sự thật khách quan của vụ án. Mặt
khác, hoạt động điều tra thường gắn liện với việc hạn chế các quyền tự do của con
người, do đó, để khắc phục và giảm dần tình trạng oan, sai thì trước hết cơ quan
điều tra phải được tổ chức khoa học, hoạt động hiệu lực và hiệu quả.
- Về sắp xếp tổ chức cơ quan điều tra. Hiện nay mô hình tổ chức cơ quan
điều tra của chúng ta còn chưa rạch ròi; công an không phải là hoạt động tư pháp,
mà công an là cơ quan quản lý nhà nước về trật tự trị an; cơ quan điều tra mới là cơ
quan tư pháp. Sở dĩ có việc lẫn lộn hành chính - tư pháp như vậy vì trước đây việc
điều tra giao cho Bộ Nội vụ làm, sau là Bộ Công an. Để cơ quan điều tra hoạt động
có hiệu quả thì phải tách bạch thẩm quyền tư pháp và hành chính; đảm bảo sự độc
lập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra. Muốn vậy trước hết cần phải
tách cơ quan điều tra ra khỏi Bộ Công an thành cơ quan điều tra quốc gia. Các
chức danh trong cơ quan điều tra phải xác định là chức danh tư pháp, không nên
xem là chức danh hành chính như hiện nay. Lãnh đạo các cơ quan này sẽ do Chủ

tịch Nước bổ nhiệm, thông qua một trình tự chặt chẽ, nhằm hạn chế việc để lọt
những người non kém nghiệp vụ hoặc đạo đức.
Cần tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chuẩn bị điều kiện để tổ chức lại các cơ
quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát
và hoạt động điều tra TTHS. Cơ quan điều tra được tổ chức phù hợp với tổ chức
của Toà án, Viện kiểm sát, không bắt buộc việc tổ chức cơ quan điều tra gắn liền


với đơn vị hành chính.
- Xác định rõ thẩm quyền của cơ quan điều tra. Cần xác định rõ nhiệm vụ
của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số
hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra tất cả các
VAHS, một số cơ quan khác (kiểm lâm, biên phòng, hải quan, cảnh sát biển, cảnh
sát giao thông, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy...) chỉ tiến hành các hoạt động điều
tra sơ bộ như: lập biên bản về sự việc tội phạm xảy ra; bảo vệ hiện trường, thu giữ
tang vật, giữ người phạm tội... và chuyển tài liệu, tang vật, người bị bắt giữ cho cơ
quan điều tra để điều tra vụ án. Cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ
quan điều tra và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ; giữa
các cơ quan điều tra với nhau.
1.1.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp
Tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa cơ quan điều tra với VKSND và
TAND. Đối với Viện kiểm sát, khi vụ án đã xác định được người phạm tội nếu
quyết định khởi tố bị can thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can và gửi
ngay quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, đối với những vụ án quan trọng
và phức tạp, hoặc trong những trường hợp cần thiết, trước khi quyết định khởi tố bị
can, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cần trao đổi về căn cứ, về tội danh của
người bị khởi tố. Trong trường hợp Viện kiểm sát thấy việc khởi tố bị can của cơ
quan điều tra là không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật thì trong thời hạn 3
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố, Viện kiểm sát phải trao đổi với cơ
quan điều tra để cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố hoặc hủy quyết định khởi

tố. Nếu không nhất trí được với nhau thì phải báo cáo lên cấp trên của hai ngành
chỉ đạo giải quyết.
Theo quy định của pháp luật TTHS, khi bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt bị can để tạm giam, tạm giữ, gia hạn tạm giam giữ hoặc áp dụng biện pháp


đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo (đối với người nước ngoài) thì phải có phê chuẩn
của Viện kiểm sát. Do đó, khi quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát cần thống nhất và quyết định lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn phù
hợp. Những trao đổi giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát sẽ cung cấp thông tin
cho Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, lệnh gia
hạn tạm giam, hoặc phê chuẩn lệnh khám xét chính xác.
Đối với những vụ án quan trọng và phức tạp, để đảm bảo cho việc kết thúc
điều tra là có căn cứ thì trước khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra cần tổ chức
họp báo cáo kết quả điều tra với sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát để xem xét
hồ sơ, chứng cứ. Su khi nhận được bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án mà cơ
quan điều tra chuyển sang thì Viện kiểm sát có trách nhiệm xem xét nghiên cứu,
nếu phát hiện vấn đề chưa rõ thì Viện kiểm sát chủ động yêu cầu cơ quan điều tra
báo cáo thêm.
Trong trường hợp báo cáo của cơ quan điều tra vẫn chưa làm rõ được vấn đề
yêu cầu thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ
cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra bổ sung chỉ trong trường hợp: Hồ sơ vụ
án thiếu những chứng cứ quan trọng mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung
được; hoặc khi phát hiện bị can phạm thêm tội danh khác hay vụ án có thêm những
người đồng phạm; hoặc phát hiện có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng.
Đối với TAND. Để đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả thì sự kết
hợp giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và Tòa án là hết sức cần thiết. Mặc dù
thực hiện những nhiệm vụ khác nhau trong các giai đoạn tố tụng, nhưng hoạt động
của các cơ quan này nằm trong một quá trình giải quyết VAHS. Khi vụ án hình sự

xảy ra, tùy theo tính chất của tội phạm phức tạp hay nghiêm trọng mà cơ quan điều
tra chủ động phối hợp với Viện kiểm sát và Tòa án để họp bàn thống nhất và định
tội danh, thẩm quyền xét xử của Tòa án, làm cơ sở cho việc quyết định điều tra,


truy tố.
Đối với những vụ án nghiêm trọng xảy ra, cơ quan điều tra, ngoài việc phải
phối hợp với VKSND, còn phải thông báo ngay TAND cùng cấp biết. Ba ngành
phải tổ chức ngay cuộc họp để bàn về hình thức xét xử và tập trung chỉ đạo kịp
thời công tác điều tra, truy tố, xét xử. Riêng đối với những vụ án hình sự được xác
định là vụ án trọng điểm thì ba ngành phải phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu cho đến
khi vụ án được xét xử xong. Sự bàn bạc thống nhất giữa cơ quan điều tra với
TAND ngay từ khi VAHS xảy ra là cần thiết vì nó tạo thuận lợi cho các bên chủ
động trong việc điều tra và xét xử, tránh được những sai lầm có thể xảy ra trong
thu nhập chứng cứ chứng minh theo những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ
án hình sự3.
Sự phối hợp giữa các cơ quan tố tụng là cần thiết, nó đảm bảo cho quá trình
tố tụng diễn ra nhanh chóng, chính xác, việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì vậy, sự phối hợp này cần phải được thiết lập
trên dựa cơ sở bình đẳng, đảm bảo tính độc lập về thẩm quyền, hoạt động của từng
loại cơ quan tố tụng, tránh trường hợp các cơ quan tố tụng phối hợp với nhau để
đưa ra các bản án “bỏ túi”, hoặc bao che cho nhau khi có sự vi phạm tố tụng xảy
ra.
1.1.2.4. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp theo hướng
phục vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động xét xử nói
riêng. Trong đó, đặc biệt chú ý đến tổ chức và hoạt động của luật sư; cần xác định
rõ vị trí của luật sư trong hoạt động tố tụng, đặc biệt trong tranh tụng tại phiên tòa.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp cần được tiến hành theo tính
nâng cao tính chuyên sâu, đồng thời xã hội hoá rộng rãi đối với những hoạt động có

3 Đỗ Quang Ngọc, Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội tr. 99.


thể xã hội hoá được.
- Hoàn thiện chế định luật sư:
Hoàn thiện cơ chế tranh tụng dân chủ, xây dựng chế pháp lý và bảo đảm trên
thực tế các quyền của luật sư trong việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền
và lợi ích cho các đương sự.
Xây dựng, phát triển đội ngũ luật sư ngày càng đông đảo, có phẩm chất
chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn cao. Tiếp tục nghiên cứu mở
rộng, đa dạng hoá các hình thức hành nghề của luật sư để thu hút, tạo điều kiện cho
những người có kiến thức, tâm huyết theo nghề luật sư đáp ứng nhu cầu tư vấn
pháp luật, bào chữa, trợ giúp pháp lý của nhân dân.
Từng bước phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước về luật sư
và chế độ tự quản của tổ chức luật sư. Nhà nước tạo điều kiện pháp lý để phát huy
chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối
với các thành viên của mình; tăng cường tính tự quản và trách nhiệm của tổ chức
luật sư.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ
chức luật sư nhằm tạo điều kiện phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam đủ về số
lượng, mạnh về chất lượng và phát huy vai trò của họ trong quá trình dân chủ hoá
hoạt động tố tụng, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và
công dân.
- Tiếp tục hoàn thiện chế định giám định tư pháp
Giám định tư pháp là hoạt động khoa học, có tính chuyên môn cao. Kết luận
giám định là ý kiến của nhà chuyên môn đánh giá về sự kiện, về bản chất vụ việc
dưới góc độ khoa học chứ không mang tính pháp lý. Việc đánh giá về mặt pháp lý
kết luận giám định là công việc các cơ quan và cán bộ tư pháp có thẩm quyền. Việc

hoàn thiện các chế định giám định tư pháp cần tập trung vào một số vấn đề sau:


Đối với một số lĩnh vực giám định có nhu cầu lớn, chưa có điều kiện xã hội
hoá được thì Nhà nước cần đầu tư để đáp ứng thường xuyên và kịp thời cho hoạt
động tố tụng (pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự...).
Đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên
thì cần xã hội hoá bằng cơ chế thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các
chuyên gia giỏi trong khu vực nhà nước cũng như ngoài khu vực nhà nước tham
gia vào hoạt động giám định tư pháp.
Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, cơ quan tiến hành, thời hạn
trưng cầu và thực hiện giám định. Trên cơ sở những quy định chung đó, tiến hành
ban hành quy chuẩn thực hiện giám định cụ thể phù hợp với những đặc thù riêng
của lĩnh vực đó để làm cơ sở đánh giá và sử dụng những kết luận giám định được
chính xác.
Xác định rõ cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định trong trường hợp
kết luận giám định là nguồn chứng cứ chủ yếu làm căn cứ cho việc định tội, lượng
hình trong tố tụng hình sự hoặc làm căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận
yêu cầu của đương sự, xác định lỗi, trách nhiệm của các đương sự trong tố tụng
dân sự.
Nghiên cứu các chế tài xử lý, bồi thường trong trường hợp tổ chức, cá nhân
giám định sai sót. Nghiên cứu quy định quyền giám định tư pháp của một số người
tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền tự mình yêu cầu giám định của các bên đương
sự trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm dân chủ, công bằng trong hoạt động tố tụng.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế yêu cầu người giám định có mặt tại phiên toà để họ
trình bày về kết luận giám định - nguồn chứng cứ mang tính khoa học để làm sáng
tỏ những vấn đề cần phải xác định tại phiên toà.
3.2.3. Xây dựng mô hình tư pháp tranh tụng thông qua việc nâng cao
vai trò của Luật sư



Xây dựng mô hình tranh tụng theo hướng công khai, dân chủ là một bước đi
quan trọng trong quá trình CCTP hiện nay. Để xây dựng mô hình này thì việc phát
huy vai trò của đội ngũ Luật sư là hết sức cần thiết. Nhằm đảm bảo việc tranh luận,
bào chữa của Luật sư thì trước hết cần phải xây dựng những quy định cụ thể về chế
tài ràng buộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
đối với việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Cần có những biện pháp tổng thể trên cả phương diện nhận thức, quy định
pháp luật... để tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư được sớm tiếp xúc với khách
hàng mà họ nhận bào chữa. Cần nâng cao nhận thức cho đông đảo người dân trong
xã hội hiểu về quyền được nhờ Luật sư bào chữa, hình thành thói quen trong nhận
thức “không thể điều tra, truy tố và xét xử một người nếu người đó không có sự
trợ giúp về mặt pháp lý”.
Để thực hiện tốt vai trò của mình thì ngay từ khi nhận bào chữa Luật sư phải
nghiên cứu kỹ các tình tiết của vụ án một cách khách quan và toàn diện, không bỏ sót
bất cứ chi tiết nào liên quan đến vụ án. Đặc biệt chú ý đến các tình tiết mà phía cơ
quan tiến hành tố tụng đưa ra nhằm buộc tội người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để từ đó
đưa ra những biện luận bác bỏ lại sự buộc tội thiếu căn cứ hoặc không hợp pháp. Luật
sư cần kết hợp giữa việc tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng với việc nghiên cứu
kỹ từng tài liệu có trong hồ sơ vụ án; cần phải chủ động, tích cực tìm ra những chứng
cứ để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Luật sư cần chủ động tìm hiểu thêm về nhân thân, tâm tư của họ liên
quan đến vụ án, về diễn biến của sự việc phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân
và điều kiện phạm tội cũng như các tình tiết khác liên quan nhằm gỡ tội cũng như để
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho khách hàng. Luật sư phải lắng nghe những thông
tin mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đưa ra hoặc hỏi họ về những tình tiết có lợi cho
việc chứng minh vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Khi tranh tụng tại phiên tòa Luật sư phải đưa ra những biện luận có tính chính



xác cao, có căn cứ pháp lý thuyết phục. Cần tránh sự bào chữa theo kiểu suy diễn và bất
nhất trong lập luận. Đây là cuộc đấu lý giữa bên buộc tội và gỡ tội, có sự đối kháng rõ
rệt và phần thắng sẽ thuộc về bên nào có những chứng cứ thuyết phục, lý lẽ sắc bén hơn
để HĐXX và người tham dự phiên toà chấp nhận.
Để bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, xác định sự
thật khách quan của vụ án đòi hỏi quá trình tố tụng phải bảo đảm tiến hành công
khai, dân chủ và hợp pháp. Để nâng cao vai trò của Luật sư trước hết cần tạo ra các
cơ chế bảo đảm để Luật sư tham gia đầy đủ vào toàn bộ quá trình tố tụng. Cần có
những quy định về việc cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích ngay cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo biết về quyền được mời Luật sư bào chữa. Luật sư cần được
tham gia vào việc lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, giải thích và
lưu ý người bị tạm giữ, bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời về một vấn đề mà
điều tra viên hỏi và sự từ chối trả lời đó của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước
các câu hỏi của điều tra viên mang tính chất truy bức, mớm cung, bức cung...; được
xem và có ý kiến về nội dung biên bản lấy lời khai, hỏi cung; xác định tình trạng sức
khỏe và tâm thần của người bị tạm giữ khi lấy lời khai, của bị can khi hỏi cung...
Nhà nước cần có chính sách tăng thù lao bào chữa trong các vụ án chỉ định luật
sư. Hiện nay quy định Luật sư bào chữa theo chỉ định được hưởng mức 120.000 đồng
trên một ngày làm việc (khoản 1 Điều 11 Nghị định số 28/NĐ ngày 26/2/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư). Cần
có những quy định mới nhằm tăng mức thù lao cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã
hội và thỏa đáng với công sức mà luật sư bỏ ra để bào chữa trong một vụ án.
3.2.4. Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan, cán bộ và
hoạt động tư pháp là yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình CCTP hiện nay.
Hội nghị Trung ương 4 khoá X chỉ rõ nhiệm vụ này: “kiện toàn tổ chức các ban
cán sự đảng, đảng đoàn để các tổ chức đảng này thực hiện tốt hơn chức năng,


nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng. Nơi không lập ban cán sự đảng, đảng

đoàn thì tăng thẩm quyền, trách nhiệm của đảng uỷ cơ quan… phân định rõ giữa
chức năng, nhiệm vụ của ban cán sự đảng, đảng đoàn với chức năng, nhiệm vụ của
lãnh đạo cơ quan, đơn vị”. Để đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư
pháp cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Các cấp uỷ đảng cần tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để thực
hiện chủ trương của cấp trên về CCTP, kịp thời kiện toàn hệ thống cơ quan tư pháp
khi có sự biến động về tổ chức bộ máy, về nhân sự. (thay đổi chức năng của Viện
kiểm sát, thành lập toà án khu vực…).
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động
cuả các tổ chức đảng, đảng viên và chăm lo công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ;
thực hiện tốt công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ; tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng
cán bộ trong các cơ quan tư pháp; tăng cường công tác kiểm tra đối với đội ngũ
cán bộ tư pháp. Hiện nay, TAND được tăng thẩm quyền dẫn đến có sự thay đổi
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan điều tra, VKSND đặc biệt là ở cấp
huyện. Điều đó, đòi hỏi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của những cơ quan này về
chuyên môn, nghiệp vụ phải nhanh chóng hơn, khẩn trương hơn nhưng phải thiết
thực, gắn với những nội dung, yêu cầu mới phù hợp với từng chức danh.
Ngoài chỉ đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, các cấp uỷ đảng mà trước hết là tỉnh
uỷ cần tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, sự gương mẫu của cán
bộ, đảng viên. Trong đó, tăng cường công tác kiểm tra luôn được xem là công cụ
hữu hiệu để Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp. Trong điều kiện xây dựng NNPQ
XHCN, công tác kiểm tra của Đảng cần được đổi mới theo định hướng dân chủ và
công khai; tránh việc xử lý nội bộ với những cán bộ, đảng viên trong ngành tư
pháp bị kỷ luật; đồng thời, có cơ chế bảo vệ cán bộ, đảng viên trước sự vu khống,
tố cáo sai sự thật. Đồng thời, các hình thức kiểm tra phải được vận cụng một cách
linh hoạt, mềm dẻo và đặc biệt, tránh sự chồng chéo với công tác tranh tra, kiểm tra


của Nhà nước
- Xây dựng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc chỉ đạo

giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp trong hoạt động tư pháp. Đảng lãnh
đạo các cơ quan tư pháp thông qua ban cán sự, cấp ủy và các đảng viên. Do đó,
ban cán sự, đảng ủy và các đảng viên trong các cơ quan tư pháp cần nêu cao tính
đảng, ý thức tổ chức kỷ luật, nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Xây dựng cơ
chế phối hợp giữa các tổ chức đảng với cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên
quan theo hướng cấp uỷ định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công
tác tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ
đạo công tác tư pháp.
Đổi mới sự chỉ đạo của cấp uỷ đảng với các cơ quan tư pháp; cấp uỷ phải lãnh
đạo các cơ quan tư pháp góp ý hoàn thiện hệ thống thủ tục tố tụng tư pháp theo
hướng rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ, vừa đề cao nhân tố con người trong mối quan
hệ với các cơ quan tư pháp, vừa đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân có
thẩm quyền trong hoạt động tư pháp.
- Cần đảm bảo tính độc lập của các cơ quan tư pháp; cấp ủy lãnh đạo nhưng
không can thiệp trực tiếp vào hoạt động tư pháp. Độc lập và tuân theo pháp luật là
nguyên tắc xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động tư pháp. Cần chống khuynh
hướng phủ nhận tính độc lập trong hoạt động tư pháp, lợi dụng nguyên tắc Đảng
lãnh đạo để gây tác động hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động tư pháp. Thực
tiễn cho thấy, thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp không có nghĩa là các cơ quan tư pháp thoát ly sự lãnh đạo của Đảng,
áp dụng pháp luật một cách máy móc, cứng nhắc, hình thức. Do đó, cần nghiên
cứu các hình thức và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp, vừa bảo đảm
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa giữ
vững nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cần thể chế hóa bằng pháp luật


phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp nhằm bảo
đảm Đảng lãnh đạo tư pháp nhưng tôn trọng nguyên tắc tư pháp độc lập - nguyên
tắc và là đặc trưng cơ bản của NNPQ.
3.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh

“Cán bộ là gốc của mọi công việc”, do đó, trong lãnh đạo CCTP, cấp ủy
Đảng của các cơ quan tư pháp, các cơ quan tham mưu phải xây dựng được chiến
lược cán bộ cho cả hệ thống chính trị nói chung và của các cơ quan tư pháp nói
riêng. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có đức, có tài là nội dung rất quan trọng và
cấp bách. Từ thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay cho thấy nếu không có sự
quan tâm đầu tư, đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng NNPQ. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải sớm có quy
hoạch phù hợp, có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp theo hướng nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ về
chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã
hội.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: Cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp
đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp; bồi dưỡng
cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh
tế, xã hội; gắn việc đào tạo chuyên môn với hoạt động thực tiễn. Hình thành đội
ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất đạo đức, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ
pháp chế XHCN.
Các cơ quan tư pháp cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với Học viện Tư
pháp để chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đào tạo và bố trí, sử dụng có hiệu
quả những cán bộ đã được đào tạo. Xây dựng chương trình đào tạo chung về
những kiến thức cơ bản, sau đó đào tạo chuyên sâu về từng nghiệp vụ cụ thể; tăng
cường bồi dưỡng ngắn ngày trong quá trình công tác.


Về tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Cần xây dựng cơ chế thu
hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc tại các cơ quan
tư pháp; mở rộng nguồn để bổ trợ vào các chức danh tư pháp không chỉ là các cán
bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư... Tránh tình trạng
thiếu cán bộ tư pháp (đặc biệt là đội ngũ thẩm phán) dẫn đến tình trạng tồn đọng án
như hiện nay.

Đảm bảo đủ biên chế, kinh phí, phương tiện và cơ sở vật chất, điều kiện làm
việc cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
quá tải án ở TAND các cấp hiện nay đó là việc thiếu biên chế về cán bộ tư pháp.
Để khắc phục tình trạng này, ngành tư pháp cần phải kịp thời kiến nghị với Quốc
hội thông qua việc bổ sung thêm biên chế cho ngành, đặc biệt là biên chế Thẩm
phán. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác qui hoạch, tuyển dụng và đào
tạo cán bộ tư pháp nhằm đảm bảo đủ số lượng cán bộ tư pháp để khắc phục tình
trạng tồn đọng án hình sự như hiện nay. Đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa
phương, cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp với TAND tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Nội
vụ, MTTQ, HĐND trong việc xây dựng, kiện tòa đội ngũ cán bộ tư pháp phù hợp
với thực tế địa phương.
Đổi mới việc tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Nghiên cứu chế
độ thi tuyển đối với một số chức danh. Có thể tổ chức các kỳ thi quốc gia để tuyển
chọn nguồn chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc thực hiện chế độ bổ
nhiệm không có kỳ hạn đối với cán bộ có chức danh tư pháp.
Về công tác thanh tra, kiểm tra. Cần tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực
thi nhiệm vụ, đạo đức của cán bộ tư pháp. Bên cạnh việc tự kiểm tra, thanh tra của
các cơ quan tư pháp, của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp của cán bộ bổ trợ tư
pháp, thì phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát của Quốc
hội, HĐND, của các tổ chức xã hội, của nhân dân đối với cán bộ tư pháp. Cần chú


trọng đến việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công chức cho đội ngũ cán
bộ tư pháp. Trước hết cần chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể; coi
trọng giáo dục đạo đức, xử lý nghiêm minh mọi sự vi phạm luật pháp của đội ngũ
cán bộ.
Xây dựng chế độ đãi ngộ phù hợp với đội ngũ cán bộ tư pháp: Xây dựng
chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động, cống hiến của
cán bộ tư pháp. Khen thưởng, tôn vinh các cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp giỏi, có
nhiều cống hiến, dũng cảm đấu tranh chống tội phạm, chống tham nhũng, tiêu cực,

bảo vệ công lý, bảo vệ nhân dân. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh kịp thời với các
biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu cực khác trong đội ngũ cán bộ tư pháp.
Bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Hiện
nay, nội dung thang, bậc, hệ số lương của cán bộ tư pháp được thiết kế giống như
cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước là chưa phù hợp. Thực
tế đời sống của cán bộ tư pháp hiện nay còn nhiều khó khăn do chế độ lương chưa
đảm bảo mức sống trung bình trong mặt bằng chung của xã hội. Vì vậy, cần sửa
đổi chế độ đãi ngộ cho đội ngũ này theo hướng quy định Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Điều tra viên có thang bảng lương riêng, phù hợp với lao động mang tính đặc
thù của ngành.
Cần phải có những ưu đãi có tính đến tính chất nghề nghiệp, có phụ cấp
thâm niên theo quy định của Nhà nước bởi trách nhiệm pháp lý của cán bộ tư pháp
rất nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Hiện nay, chế độ lương, phụ
cấp cho đội ngũ cán bộ tư pháp có hạn nên họ rất dễ bị dao động về lập trường tư
tưởng nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng. Để góp phần đảm bảo chất lượng
đội ngũ cán bộ tư pháp, Nhà nước cần đổi mới chế độ lương, phụ cấp thâm niên
nghề và các chế độ, chính sách ưu đãi nhằm tạo tâm lý ổn định công tác, đồng thời
thu hút những người có trình độ, năng lực, tâm huyết vào làm việc tại ngành tư


×