Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

ĐỀ CƯƠNG VÀ KẾ HOẠCH
THỰC HIỆN LUẬN VĂN CAO HỌC
ĐỀ TÀI:
YÊU CẦU CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Học viên thực hiện:

Nguyễn Mậu Tuân

Người hướng dẫn khoa học:

PGS, TS. Nguyễn Đăng Dung

HÀ NỘI: 9 - 2007

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN MẬU TUÂN

YÊU CẦU CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN


XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành:
Mã số:

Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật
60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2007

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Khái quát về Nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Lược sử tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
1.1.2. Bản chất và các thành tố cơ bản của Nhà nước pháp
quyền
1.2. Khái niệm và bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
1.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa
1.2.2. Khái niệm và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
1.2.3. Các thành tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
CHƢƠNG 2. PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. Quan niệm, vị trí, vai trị của pháp luật trong Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
2.1.1. Quan niệm về pháp luật và hệ thống pháp luật
2.1.2. Vị trí, vai trị của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa
2.2. Những mối quan hệ cơ bản của pháp luật trong Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
2.2.1. Pháp luật và nhà nước
2.2.2. Pháp luật và kinh tế
2.2.3. Pháp luật và đạo đức
2.3. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay –

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhìn từ góc độ các thành tố cơ bản của Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
2.3.1. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam
2.3.2. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
2.3.3. Nguyên nhân chính dẫn tới những khiếm khuyết của hệ
thống pháp luật Việt Nam
CHƢƠNG 3. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

HƢỚNG TỚI NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
3.1. Yêu cầu đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam hƣớng tới Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
3.1.1. Yêu cầu chung
3.1.2. Yêu cầu về cấu trúc
3.1.3. Yêu cầu về nguồn
3.1.4. Yêu cầu về quy trình lập pháp
3.1.5. Yêu cầu đối với việc thi hành pháp luật
3.2. Tính tất yếu khách quan và định hƣớng, nguyên tắc của
việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
hƣớng tới Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
3.2.1. Tính tất yếu khách quan xây dựng, hồn thiện hệ thống
pháp luật
3.2.2. Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
3.2.3. Nguyên tắc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
3.3. Một số giải pháp cơ bản xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam hƣớng tới Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa
3.3.1. Tiếp thu và xây dựng mơ hình pháp luật phù hợp
3.3.2. Cải cách luật Hiến pháp
3.3.3. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.3.4.
3.3.5.
3.3.6.

3.3.7.

Hồn thiện quy trình lập pháp
Đẩy mạnh cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách tư pháp
Xây dựng cơ chế hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống
quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực
trong hệ thống chính trị
3.3.8. Coi trọng và phát vai trò phản biện xã hội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong lịch sử phát triển xã hội lồi ngƣời từ khi có nhà nƣớc đến nay,
việc nghiên cứu lý luận về nhà nƣớc và pháp luật luôn là vấn đề đƣợc đặt ra
trong hệ tƣ tƣởng của các giai cấp. Việc nhìn nhận, đánh giá về vai trị, vị trí,
chức năng của nhà nƣớc và pháp luật có nhiều điểm khác biệt xuất phát từ các
góc độ nghiên cứu cũng nhƣ trên quan điểm của từng giai cấp và ln có sự
kế thừa, phát triển. Về quan điểm lý luận xung quanh việc hình thành, phát
triển của tƣ tƣởng về Nhà nƣớc pháp quyền (NNPQ), cũng có nhiều cách tiếp
cận khác nhau trên cơ sở hệ tƣ tƣởng của mỗi giai cấp, mỗi chế độ chính trị –
xã hội; đặc điểm truyền thống văn hố của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, khơng ai
có thể phủ nhận đƣợc vai trò, chức năng to lớn của mơ hình NNPQ trong q
trình phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Sự hình thành và phát triển tƣ
tƣởng NNPQ là tinh hoa văn hoá nhân loại.
NNPQ là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù;

vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi quốc gia, dân
tộc. Khơng thể có NNPQ nhƣ một mơ hình chung áp dụng cho mọi quốc gia.
Mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mơ hình NNPQ phù hợp.
Đối với nƣớc ta, xây dựng NNPQ đƣợc đặt ra nhƣ một tất yếu. Tính tất
yếu bắt nguồn từ lịch sử xây dựng và phát triển của nhà nƣớc ta, từ bản chất
và định hƣớng xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà mục tiêu là xây dựng xã hội dân
giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; từ đặc điểm của thời
đại với xu thế tồn cầu hố. Khái niệm NNPQ XHCN đƣợc Đảng ta chính
thức sử dụng từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1 - 1994). Tiếp theo,

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


các Đại hội khoá VIII, IX, X của Đảng đã khẳng định chủ trƣơng và quan
điểm này.
Đánh giá khái quát 20 năm (1986 – 2006) thực hiện công cuộc đổi mới
do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo, “nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã đƣa lại cho đất nƣớc ta một sự thay đổi cơ bản và
toàn diện, làm cho thế và lực, uy tín quốc tế của nƣớc ta tăng lên nhiều so với
trƣớc” [7, tr.8]. Một trong những đột phá về tƣ duy lý luận của Đảng ta trong
thời kỳ đổi mới là đề xƣớng chủ trƣơng xây dựng NNPQ XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng nhƣ một tất yếu
khách quan mang tính quy luật của q trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc
ta. Việc xây dựng nhà NNPQ XHCN ở nƣớc ta là vấn đề mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Điều này địi hỏi chúng ta vừa phải tiến hành xây dựng, vừa đúc
kết kinh nghiệm từ thực tiễn để củng cố và phát triển tƣ duy lý luận về NNPQ
XHCN Việt Nam. Trong NNPQ, pháp luật có vị trí tối thƣợng. Từ đó, tất yếu

đặt ra yêu cầu quan trọng nhất là phải có một hệ thống pháp luật (HTPL) đồng
bộ, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, thể hiện ý chí, lợi ích chung của quảng đại
quần chúng nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan. Một HTPL hồn hảo,
vì con ngƣời là điều kiện tiên quyết để hình thành ý thức tuân thủ pháp luật và
văn hoá pháp lý trong NNPQ.
Thực tế nƣớc ta hiện nay, đối chiếu với yêu cầu của NNPQ XHCN mà
chúng ta chủ trƣơng xây dựng và hƣớng tới thì HTPL Việt Nam cịn một số
bất cập, hạn chế, cụ thể vẫn cịn tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, chƣa đảm
bảo tính thống nhất và khả thi, chậm đi vào cuộc sống, tính ổn định và dự báo
cịn thấp, vẫn còn một số lĩnh vực chƣa đƣợc pháp luật điều chỉnh, nhiều quy
định của pháp luật chƣa thật bám sát thực tiễn cuộc sống, chƣa phản ánh đầy
đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Hơn nữa, nhu cầu đổi mới tƣ duy pháp
lý đã đƣợc đặt ra và quán triệt trong giai đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý
của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho
cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN. Ngày nay, một lần nữa nhu cầu
đổi mới tƣ duy pháp lý lại đƣợc đặt ra một cách cấp thiết. Trong bối cảnh đó,

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhận thức về vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của xã hội đã có bƣớc
chuyển biến quan trọng trong đƣờng lối phát triển đất nƣớc. Nghị Quyết 48 –
NQ/TW ngày 24 – 5 – 2005 về Chiến lƣợc xây dựng HTPL đến năm 2010 và
định hƣớng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 – 6 - 2005
của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đã khẳng định yêu cầu khách
quan cần phải đổi mới toàn diện trên nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó
có HTPL. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá
trình xây dựng NNPQ, các yêu cầu của NNPQ XHCN đối với việc xây dựng

và hoàn thiện HTPL nƣớc ta hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong những năm qua, ở nƣớc ta có nhiều cơng trình khoa học, ở nhiều
cấp độ khác nhau nghiên cứu về NNPQ và NNPQ XHCN. Trong các cơng
trình khoa học đó, các tác giả đã khái quát những tƣ tƣởng cơ bản của NNPQ,
NNPQ XHCN; đồng thời tìm ra bản chất và những đặc trƣng, yêu cầu cơ bản
của NNPQ, NNPQ XHCN. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của
các nhà khoa học đi trƣớc, đề tài này đi sâu nghiên cứu nhằm tiếp tục khẳng
định bản chất của NNPQ, NNPQ XHCN; đồng thời tìm tịi các u cầu của nó
đối với HTPL ở nƣớc ta hiện nay, đề xuất định hƣớng xây dựng và hồn
thiện.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, việc nghiên
cứu các đặc trƣng NNPQ XHCN; đặc biệt là các yêu cầu của NNPQ XHCN
đối với việc xây dựng và hoàn thiện HTPL Việt Nam hiện nay là vấn đề rất
cấp thiết. Dựa trên các kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn
để đƣa ra những ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện HTPL Việt Nam đáp ứng
yêu cầu của NNPQ XHCN. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn
cao học, tác giả đặt ra các mục tiêu chủ yếu nhƣ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ hạt nhân và các thành tố cơ bản của NNPQ,
NNPQ XHCN;

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Tìm tịi và phát hiện ra các u cầu cơ bản của NNPQ XHCN đối với
HTPL;
- Phân tích những yếu tố cơ bản về thực trạng HTPL Việt Nam hiện

nay – nhìn từ góc độ các thành tố của NNPQ XHCN;
- Đề xuất một số định hƣớng nhằm xây dựng và hoàn thiện HTPL Việt
Nam, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nhà NNPQ XHCN đối với HTPL.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận văn xác định phạm vi
nghiên cứu là những quan điểm hiện nay của các nhà nghiên cứu khoa học về
NNPQ, NNPQ XHCN; và thực tế HTPL so với yêu cầu của NNPQ XHCN ở
nƣớc ta hiện nay.
5. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
- Cơ sở lý luận: Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin; tƣởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về việc xây dựng, hoàn thiện HTPL, đáp ứng yêu cầu của
NNPQ XHCN.
- Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện HTPL của nƣớc ta
hiện nay.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để trình bày luận văn của mình, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp nghiên
cứu chủ yếu là: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp
tổng hợp, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp chính trị học so sánh, phƣơng
pháp phân tích quy phạm, phƣơng pháp mơ hình hố và điển hình hố các
quan hệ xã hội.
7. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN
Các đặc trƣng của NNPQ là vấn đề đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu dƣới
các góc độ khác nhau. Thực tế đó đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc
nghiên cứu đề tài. Đồng thời, cũng chính là khó khăn lớn đối với tác giả khi
nghiên cứu đề tài vì sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp về những vấn đề lý luận

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



cơ bản đã đƣợc thừa nhận rộng rãi trong giới khoa học pháp lý. Mặc dù vậy,
dựa trên những nghiên cứu về mặt lý luận, tìm hiểu thực tiễn, có thể thấy
những điểm mới của luận văn là:
- Góp phần khẳng định những giá trị chung về bản chất, các thành tố cơ
bản về NNPQ, NNPQ XHCN ở nƣớc ta hiện nay;
- Đƣa ra những yêu cầu của NNPQ XHCN đối với HTPL;
- Tìm ra những hạn chế, bất cập của HTPL nƣớc ta so với yêu cầu của
NNPQ XHCN;
- Điểm mới quan trọng của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu hạt nhân
và các thành tố cơ bản của NNPQ XHCN; các yêu cầu của nó đối với HTPL
và thực tiễn HTPL Việt Nam, luận văn đƣa ra một số giải pháp định hƣớng
xây dựng và hoàn thiện HTPL nƣớc ta hiện nay.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA

1.1. Khái quát về Nhà nƣớc pháp quyền
1.2. Khái niệm và bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
CHƢƠNG 2. PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

2.1. Quan niệm, vị trí, vai trò của pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
2.2. Những mối quan hệ cơ bản của pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
2.3. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay – nhìn từ góc độ các

thành tố cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
CHƢƠNG 3. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HƢỚNG TỚI NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.1. Yêu cầu đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
h-ớng tới Nhà n-ớc ph¸p qun x· héi chđ nghÜa
3.2. TÝnh tÊt u kh¸ch quan và định h-ớng, nguyên tắc của việc xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam h-ớng tới Nhà n-ớc pháp quyền xÃ
hội chủ nghĩa
3.3. Một số giải pháp cơ bản xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam h-ớng tới Nhà n-ớc pháp quyền xà hội chñ nghÜa

6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Ch-¬ng 1
KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Khái quát về Nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Lược sử tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
“ Chúng ta thừa nhận những chân lý tự nhiên rằng tất cả mọi ngƣời đều
sinh ra bình đẳng, rằng tạo hố trao cho họ những quyền khơng thể tƣớc đoạt,

đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc.
Để đảm bảo những quyền này, các chính phủ đƣợc lập ra trong nhân
dân và có đƣợc những quyền lợi chính đáng trên cơ sở nhất trí của nhân
dân,...” [14, tr.13].
Và “Kinh nghiệm của hàng thế kỷ cho thấy rõ rằng, khi có quyền lực,
bất kỳ ngƣời nào cũng có thiên hƣớng lạm dụng nó, và ngƣời đó cịn đi theo
hƣớng ấy cho tới lúc chƣa đạt tới giới hạn” [28, tr.686].
Qua hai câu trích dân trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, yêu cầu
khách quan đối với các nhà tƣ tƣởng của mọi thời đại là tìm kiếm mơ hình tổ
chức quyền lực nhà nƣớc hiệu lực, hiệu quả và kiểm soát đƣợc quyền lực nhà
nƣớc nhằm thiết lập một xã hội ổn định, phát triển, trong đó tất cả các chủ thể
phải tôn trọng quyền con ngƣời và hoạt động vì con ngƣời.
Xơlơng (638 – 559 TCN) nêu ý tƣởng về NNPQ khi ông chủ trƣơng cải
cách nhà nƣớc bằng việc đề cao vai trò của pháp luật. Ông cho rằng chỉ có
pháp luật mới thiết lập đƣợc trật tự và tạo nên sự thống nhất “Tôi giải phóng
cho tất cả. Và điều đó đạt đƣợc nhờ có sự ngự trị của pháp luật bởi quyền lực
và pháp luật hoà hợp vào nhau” [30, tr. 28]. Tiếp sau Xơlơng, Hêraclít (535 –
475 TCN) đã có sự bổ sung quan trọng, coi luật pháp là phƣơng tiện quan
trọng để chống lại cực quyền; coi cơng lý chính là sự tuân thủ pháp luật hiện
hành của một nhà nƣớc. Nếu khơng tn thủ pháp luật thì cũng khơng thể có

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhà nƣớc và trật tự pháp luật; công dân của nhà nƣớc nào tn thủ pháp luật
thì nhà nƣớc đó vững mạnh và phồn vinh: “ Ngƣời dân cần phải chiến đấu
bảo vệ cho pháp luật, nhƣ bảo vệ cho ngơi nhà của mình” [30, tr. 28]. Platon
(427 – 347 TCN) xem pháp luật có hiệu lực và khách quan là cơ sở tồn tại của

nhà nƣớc, nhà nƣớc sẽ khơng tồn tại nếu nhƣ trong nhà nƣớc ấy, tồ án khơng
đƣợc tổ chức một cách thoả đáng: “Ta nhìn thấy sự huỷ diệt của loại nhà
nƣớc, ở đó luật pháp khơng có sức mạnh và phải nằm dƣới quyền lực của một
ai đó. Cịn ở nơi mà luật pháp là lãnh chúa đối với kẻ cầm quyền, và họ là nơ
lệ của nó, ta nhìn thấy đƣợc sự cứu vớt nhà nƣớc và mọi của cải mà chỉ
Thƣợng đế mới có thể ban tặng cho nó” [30, tr.31]. Aristote (384 – 323 TCN)
tiếp tục bổ sung, phát triển tƣ tƣởng NNPQ, theo ơng, cần thiết phải có sự phù
hợp giữa nhà nƣớc và pháp luật, việc đề cao pháp luật phải gắn với cơ chế, hệ
thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nƣớc; ông nêu ý tƣởng về sự cần
thiết phải tổ chức nhà nƣớc một cách quy củ để bảo đảm sự công bằng của
pháp luật “khái niệm pháp luật – thƣớc đo của sự công bằng – là quy phạm
điều chỉnh sự giao tiếp chính trị” [30, tr. 34]. Xixêrông (104 – 44 TCN) tiếp
tục phát triển ý tƣởng của Aristote đến trình độ cao hơn, ông đã đƣa ra quan
niệm mới về nhà nƣớc, coi nhà nƣớc là một cộng đồng pháp lý. Ông đã đề ra
nguyên tắc mọi ngƣời phải phục tùng pháp luật. Theo ơng, chỉ có những đạo
luật phù hợp với pháp luật tự nhiên mới là những đạo luật đúng đắn. Ông đƣa
ra nguyên tắc pháp lý quan trọng “Mọi ngƣời đều phải tuân thủ pháp luật”
[30, tr.37].
Những tƣ tƣởng về NNPQ ở thời kỳ cổ đại tuy đã đƣợc đề cập ở các góc
độ khác nhau nhƣng tựu chung đều đề cao pháp luật và xây dựng nhà nƣớc hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, các quan niệm đó chƣa tồn diện.
Trong thời kỳ trung cổ, những ý tƣởng và quan niệm của thời kỳ cổ đại
về NNPQ vẫn đƣợc vận dụng và có những ảnh hƣởng quan trọng. Từ thế kỷ

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


XVII trở đi, tƣ tƣởng NNPQ mới phát triển và trở thành tƣ tƣởng có giá trị

nhân loại phổ biến.
Với tƣ tƣởng của J.Locke (1632 – 1704), nguyên tắc về tính tối cao của
pháp luật đã đƣợc phát triển tới trình độ mới. Ơng khơng những khẳng định
tính tất yếu phải đề cao pháp luật trong mỗi quốc gia mà còn chỉ ra mặt thứ
hai của vấn đề là muốn cho pháp luật có đƣợc tính tối cao thì các đạo luật
phải khách quan, phải thừa nhận các quyền và tự do cá nhân, phải bảo đảm
tính cơng khai, ơng nhận xét “Tự do của những ngƣời nằm dƣới quyền lực
của chính phủ là ở chỗ, cần có một quy tắc cố định cho cuộc sống, chung cho
mọi cá nhân trong xã hội và đƣợc quy định bởi quyền lập pháp đƣợc thiết lập
ở đó. Đó là quyền tự do đƣợc làm theo ý muốn riêng trong mọi trƣờng hợp,
nếu nhƣ ý muốn đó khơng bị pháp luật ngăn cấm và khơng phụ thuộc vào ý
chí độc đốn thƣờng xun, không xác định và không rõ ràng của ngƣời
khác” [30, tr.48]. Ông là ngƣời khởi thảo học thuyết về sự tách biệt quyền lực
nhà nƣớc thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên hợp để tránh
sự lạm quyền và tuỳ tiện.
Tiếp theo J. Locke, Montesquieu (1689 – 1775) trong tác phẩm “Tinh
thần pháp luật” đã đƣa ra lý thuyết phân quyền, một trong những nội dung
quan trọng của NNPQ tƣ sản. Montesquieu cho rằng quyền lực nhà nƣớc chia
thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ pháp. Ba quyền này
đƣợc tổ chức theo cách vừa đảm bảo tính độc lập, vừa kiềm chế lẫn nhau.
Ơng viết: “khi quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một
ngƣời hay một viện nguyên lão, thì sẽ khơng cịn gì là tự do nữa; vì rằng
ngƣời ta sợ chính con ngƣời ấy hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành
một cách độc tài. Cũng khơng có gì là tự do nếu quyền tƣ pháp không tách
khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tƣ pháp nhập lại với
quyền lập pháp, thì ngƣời ta sẽ độc đoán đối với quyền sống, quyền tự do của

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



cơng dân; quan tồ sẽ là ngƣời đặt ra luật. Nếu quyền tƣ pháp nhập lại với
hành pháp, thì quan tồ sẽ có sức mạnh của kẻ đàn áp” [26, tr. 100]. Cùng với
lý thuyết về phân chia quyền lực, Montesquieu cũng bổ sung những quan
điểm lý luận quan trọng về bảo đảm tính tối cao của pháp luật.
Trong tác phẩm “Bàn về khế ƣớc xã hội”, bên cạnh việc phân tích
nguyên tắc chung của việc cai trị theo pháp luật, Rouseau đã bàn khá chi tiết
về các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ pháp theo lý thuyết của
Montesquieu. Rouseau khẳng định tính tất yếu của khế ƣớc xã hội là cơ sở để
giải quyết vấn đề về nhà nƣớc, pháp luật và cơng dân. Ơng cho rằng, “ Luật là
sự thống nhất cái tổng thể của ý chí với tổng thể của đối tƣợng” và “Dân
chúng tuân theo luật phải là những ngƣời làm ra luật”[27, tr. 34].
I. Kant (1724 – 1804) là ngƣời có đóng góp quan trọng trong việc phát
triển tƣ tƣởng NNPQ, đã đƣa ra những lập luận có tính triết lý về NNPQ. Ơng
cho rằng, con ngƣời là chủ thể có ý thức về phẩm giá, trong hành vi của mình
phải tuân thủ những đạo luật đạo đức; thực chất của tự do là cái bên trong của
nhân cách con ngƣời; con ngƣời có khả năng ứng xử theo mục đích với những
cách thức phù hợp…. Pháp luật có hiệu lực bắt buộc cá nhân phải phục tùng ý
chí chung. Nhà nƣớc là liên minh của nhiều ngƣời cùng phục tùng các đạo luật.
Hêghen (1770 – 1831) cho rằng nhà nƣớc cũng chính là pháp luật; nhà
nƣớc là pháp luật phát triển, sự biểu hiện cao nhất của pháp luật cụ thể, đứng
trên đỉnh cao của hình chóp pháp luật.
Có thể khẳng định, đến nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thể kỉ XIX, tƣ tƣởng
NNPQ đƣợc phát triển tƣơng đối toàn diện, trở thành một trong những tƣ
tƣởng chính trị – pháp lý có tính phổ biến. Từ đây, liên tục xuất hiện những
trào lƣu nghiên cứu ứng dụng học thuyết NNPQ vào việc xác lập các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, xây dựng, thực thi pháp luật
và xã hội công dân.


10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nhƣ vậy, trong lịch sử học thuyết chính trị – pháp lý các tƣ tƣởng và
quan điểm đầu tiên của nhân loại tiến bộ về NNPQ đã xuất hiện trƣớc tiên chỉ
với tính chất là khát vọng, ƣớc mơ và lý tƣởng về các giá trị xã hội cao quý
(nhƣ cơng bằng và bác ái, nhân đạo và tình thƣơng, dân chủ và tự do, pháp
luật và pháp chế) thực tế là có cội nguồn hình thành và phát triển từ hàng
ngàn năm qua trên những chặng đƣờng tìm kiếm các phƣơng tiện và biện
pháp để nhằm đạt đến giá trị xã hội cao quý ấy. NNPQ không phải là kiểu nhà
nƣớc mà là một cách thức tổ chức quyền lực nhà nƣớc và xã hội trên nền tảng
dân chủ. Điều này có nghĩa, NNPQ ln ln gắn liền với một nền dân chủ
nhất định, một chế độ xã hội cụ thể.
Trong lịch sử các học thuyết chính trị – pháp lý, cịn có nhiều quan
điểm chƣa đồng nhất về khái niệm NNPQ. Sự khác nhau trong việc hiểu hay
nhận thức về NNPQ, trong phạm vi nào đó đã chứng minh cho tính phức tạp,
rộng rãi, phong phú và linh động của hiện tƣợng này.
Mặc dù chƣa đƣa ra đƣợc các tiêu chí phân loại rõ ràng, chúng ta có thể
đề cập đến một số quan điểm lớn về NNPQ: quan điểm của trƣờng phái Anh –
Mỹ, quan điểm của trƣờng phái Châu Âu Lục địa và quan điểm của trƣờng
phái các nƣớc XHCN. Việc phân loại này chỉ nhằm nêu lên những điểm khác
nhau tƣơng đối giữa các quan niệm, khẳng định sự thống nhất trong việc nhận
thức về hạt nhân hợp lý của NNPQ và nhóm hợp các đòi hỏi khác nhau về
NNPQ trong việc vận dụng vào các bối cảnh xã hội cụ thể.
Trƣờng phái Anh – Mỹ dùng thuật ngữ “The Rule of Law” để chỉ khái
niệm NNPQ. Trong thuật ngữ đó khơng có từ “nhà nƣớc”. Trong khi trƣờng
phái Châu Âu Lục địa sử dụng thuật ngữ “Rechtsstaat” của Đức và “État de
Droit” của Pháp đều bao hàm từ “nhà nƣớc”.

Các học giả theo hệ thống Anh quốc cho rằng NNPQ có thể đƣợc hiểu
hoặc là một học thuyết chính trị hay triết học đặt ra các yêu cầu căn bản cho

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


pháp luật, hoặc là một phƣơng cách có tính chất thủ tục (a procedural decive)
mà bởi nó những ngƣời có quyền lực cai trị bị đặt dƣới pháp luật. Bản chất
của NNPQ là bảo đảm chủ quyền hay tính tối cao của pháp luật đối với con
ngƣời. “The Rule of Law” đã đi vào cuộc sống từ rất sớm ở nƣớc Anh và Hoa
Kỳ. Trong khi đó, “Rechtsstaat” phát sinh trong lĩnh vực pháp lý ở Đức và
Pháp do đòi hỏi cấp bách của việc xây dựng nền móng của luật công vào
khoảng nửa sau của thế kỷ XIX. Học thuyết này đã xem nhà nƣớc là một cấu
trúc pháp lý nhƣ Josef Thesing đã khẳng định:
“ NNPQ, một nhà nƣớc dân chủ theo chế độ pháp trị, chịu sự kiểm soát
và hạn chế của pháp luật trong mọi hoạt động của nó, điểm quan trọng nhất là
kiềm chế sự lộng quyền của chính phủ nhằm bảo vệ tự do của cá nhân. Nhƣ
vậy, một “NNPQ” là một nhà nƣớc gắn chặt với pháp luật và đƣợc hợp pháp
hoá bởi pháp luật” [32, tr.33].
“Neil MacCormick, trong một cơng trình nghiên cứu so sánh giữa
“The Rule of Law” và “Rechtsstaat”, cho rằng khơng có sự khác nhau chính
yếu giữa chúng. Xuất phát từ góc độ ngơn ngữ, ơng lý giải trong học thuyết
NNPQ của hệ thống Anh – Mỹ khơng có từ “nhà nƣớc” (state) trong tên gọi
của học thuyết, bởi trong luật hiến pháp Anh quốc từ “nhà nƣớc” chƣa bao
giờ đƣợc hiểu là có một ý nghĩa pháp lý. Đặc điểm này có thể do sự phát triển
từ một nhà nƣớc đoàn thể tới chế độ dân chủ lập hiến không đủ thời gian cho
chế độ quân chủ chuyên quyền củng cố, ổn định. Chủ quyền cá nhân (nhà
vua) ở Anh quốc chƣa bao giờ phát triển tới cùng, nên dẫn đến một hệ quả là

khơng có một quyền lực chính quyền hồn tồn để đặt nó ra ngồi tầm với
của pháp luật của nó. Hiến pháp của Anh quốc mang đặc tính của hàng loạt
các cuộc đấu tranh giữa uy quyền tối cao và sự thoả hiệp của các tổ chức
quyền lực nhà nƣớc khác nhau. Cơ cấu của học thuyết hiến pháp của nó có
một phần thơng qua phƣơng tiện chiến tranh và một phần thông qua phƣơng

12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tiện hồ bình. Và nó đi song song với cơ cấu của các quy tắc về nội dung và
giới hạn các quyền lực và trách nhiệm của các tổ chức nhà nƣớc. Vì vậy mà từ
“nhà nƣớc” khơng có trong tên gọi “The Rule of Law” và học thuyết này của
Anh quốc không nêu cao vấn đề cấu trúc pháp lý của nhà nƣớc” [12, tr.62].
Trong một cơng trình nghiên cứu của mình, TS Trần Hậu Thành đã
phân tích khá đầy đủ các quan điểm của các nhà khoa học pháp lý nổi tiếng
của Liên bang Nga về NNPQ. Hầu hết các định nghĩa đó, với cách thức diễn
đạt khác nhau, đều nhấn mạnh đến yếu tố nhƣ: tính tối cao của luật; nguyên
tắc pháp chế; quyền con ngƣời. Và “Mơ hình NNPQ XHCN do các nhà khoa
học Xơviết xây dựng lên mang những đặc trƣng cơ bản chung sau đây:
1. Mối liên hệ giữa nhà nƣớc với pháp luật, sự thống trị của pháp luật
theo nghĩa rộng;
2. Tính tối cao của quyền lập pháp và liên hệ chặt chẽ với nó là tính tối
cao của Hiến pháp và các đạo luật cơ bản do cơ quan quyền lực tối cao thơng
qua;
3. Tính pháp quyền của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân (công
dân) và các cơ quan nhà nƣớc (ngƣời có chức vụ), cũng nhƣ quan hệ biện
chứng giữa các cơ quan nhà nƣớc với những tập thể lao động và với mọi tổ
chức chính trị – xã hội của công dân, quan hệ giữa các công dân với nhau;

4. Sự phân công quyền lực thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tƣ
pháp; sự hiện diện của cơ chế phối hợp giữa ba loại hình cơ quan ấy;
5. Mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tƣ pháp do
tính chất quan trọng của nó phải đƣợc điều chỉnh bằng các quy phạm pháp
luật và các nguyên tắc của hiến pháp là đạo luật cao nhất có hiệu lực trực tiếp;
6. Hiến pháp, các đạo luật và toàn bộ HTPL phải đƣợc xây dựng trên
nền tảng các tƣ tƣởng pháp lý tiến bộ đã đƣợc thừa nhận chung của nhân loại
nhƣng công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế;

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


7. Quy định trong luật và thực hiện chủ quyền của nhà nƣớc;
8. Hiện diện sự tƣơng ứng của pháp luật trong nƣớc với các nguyên tắc
và quy phạm của pháp luật quốc tế;
9. Thƣờng xuyên sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện HTPL nhằm bảo đảm
một nền pháp lý ổn định, phù hợp và hoàn thiện;
10. Giáo dục pháp luật, nâng cao văn hoá pháp luật và tuyên truyền,
giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân là điều kiện quan trọng để hình thành
NNPQ XHCN”[30, tr. 71-72].
Quan niệm về NNPQ của các học giả Việt Nam hiện nay không quá
khác với các quan niệm về NNPQ nêu trên. Nhiều lý giải về NNPQ cũng dựa
trên căn bản của các yếu tố chủ yếu nhƣ tính tối cao của luật, nguyên tắc pháp
chế và các quyền tƣ do của con ngƣời. Cho đến nay, chúng ta chƣa thể có một
định nghĩa đích xác về NNPQ. Tuy nhiên, có thể khái qt “NNPQ địi hỏi phải
có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ
chức quyền lực chính trị. Đó là hai yếu tố khơng thể thiếu đƣợc khi nói đến
NNPQ” [34, tr. 100] hay “NNPQ là nhà nƣớc bị hạn chế quyền lực, mà phƣơng

tiện hạn chế quyền lực của nhà nƣớc này là các văn bản quy phạm pháp luật,
đứng đầu là bản hiến pháp”[27, tr.88].
Tới đây, có thể chắt lọc đƣợc một điểm chung của cả ba “trƣờng phái”
quan niệm về NNPQ. Đó chính là chính quyền nhà nƣớc bị điều chỉnh bởi
pháp luật hay nói cách khác, pháp luật giữ vị trí tối thƣợng so với nhà nƣớc và
pháp luật là phƣơng tiện quan trọng nhất để hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà
nƣớc, tránh việc lạm quyền xâm phạm đến quyền tự do của con ngƣời. Mặc
dù, bằng cách này hay cách khác, các định nghĩa về NNPQ đều đề cập tới hạt
nhân đó của khái niệm.
Hạt nhân của khái niệm NNPQ là “nhà nƣớc bị ràng buộc bởi pháp
luật” làm cho nhiều ngƣời liên tƣởng tới pháp chế XHCN mà tại đó cũng có

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


yêu cầu các cơ quan nhà nƣớc phải tuân thủ pháp luật một cách vô điều kiện.
Vấn đề cần phải phân biệt là ở chỗ: pháp chế XHCN yêu cầu cả nhà nƣớc và
công dân phải tuân thủ pháp luật mà khơng làm rõ nội dung của pháp luật đó
là gì; cịn NNPQ dƣờng nhƣ chỉ nhấn mạnh tới sự tuân thủ pháp luật từ phía
nhà nƣớc nhằm giới hạn quyền lực của nó để bảo vệ tự do của con ngƣời mà
những tự do đó là các quyền vốn có của họ khơng ai có thể xâm phạm; do đó
pháp luật trong NNPQ phải gần gũi với luật tự nhiên. Trong một chừng mực
nào đó, có thể coi pháp chế XHCN nhƣ một nguyên tắc trọng pháp trong đời
sống xã hội. Pháp luật trong nguyên tắc này chỉ là một tập hợp các quy phạm
do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành. Các yêu cầu hay tiêu
chuẩn cơ bản không đƣợc đặt ra với pháp luật. Bởi thế, NNPQ mà tại đó các
yêu cầu hay tiêu chuẩn cơ bản đƣợc đặt ra cho pháp luật là vấn đề thi hành, áp
dụng pháp luật nhằm tới chân giá trị của con ngƣời.

1.1.2. Bản chất và các thành tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Hiện nay, mặc dù, cịn có một số điểm khác nhau trong tƣ tƣởng về
NNPQ của các nhà nghiên cứu, “Sau khi khảo sát ở nhiều nƣớc trên thế giới,
Barry M. Hager cho rằng có chín thành tố hạt nhân tạo nên khái niệm NNPQ,
đó là:
- Chủ nghĩa lập hiến;
- Chính quyền phải bị điều chỉnh bằng pháp luật;
- Hệ thống toà án độc lập;
- Pháp luật phải đƣợc áp dụng bình đẳng và thích hợp;
- Pháp luật phải rõ ràng, minh bạch và gần gũi với tất cả mọi ngƣời;
- Việc áp dụng pháp luật phải có hiệu quả và đúng lúc;
- Các quyền về kinh tế và tài sản, kể cả hợp đồng phải đƣợc bảo hộ;
- Quyền con ngƣời phải đƣợc bảo hộ;

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Pháp luật chỉ có thể đƣợc thay đổi với quy trình đƣợc thiết lập minh
bạch, rõ ràng và gần gũi với tất cả mọi ngƣời” [12, tr. 71 – 72].
Từ kết quả nghiên cứu, đúc rút các thành tố cơ bản của NNPQ nêu trên,
chúng ta có thể khái quát những đặc trƣng chung nhất thể hiện bản chất của
NNPQ nhƣ sau:
Thứ nhất, sự ngự trị của pháp luật trong đời sống nhà nƣớc và xã hội
nhƣ quyền lực tối thƣợng. Với sự ra đời của các tƣ tƣởng và học thuyết về
NNPQ, mối quan hệ giữa nhà nƣớc và pháp luật đã có sự thay đổi căn bản.
Pháp luật do nhà nƣớc ban hành giữ vai trò thống trị khơng chỉ đối với xã hội
mà cịn đối với bản thân nhà nƣớc. Pháp luật không chỉ là công cụ để duy trì
và phát triển xã hội mà cịn là cơng cụ pháp lý để duy trì và phát triển nhà

nƣớc. NNPQ là nhà nƣớc đƣợc xây dựng trên cơ sở ý chí chung của nhân dân
và là nhà nƣớc hợp hiến. Trong NNPQ, tất cả cán bộ nhà nƣớc chỉ đƣợc làm
những gì pháp luật cho phép, cịn cơng dân đƣợc làm tất cả những gì pháp
luật khơng cấm. Nhà nƣớc và cơng dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật.
Quản lý xã hội bằng pháp luật và nhà nƣớc đặt mình dƣới pháp luật là
một tiến bộ, một giá trị xã hội. Với nguyên tắc pháp luật thống trị, tính ổn
định về tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc đƣợc duy trì; tính thống nhất, hiệu
lực và hiệu quả của các chính sách đƣợc bảo đảm; quan hệ nhà nƣớc – công
dân chuyển từ quan hệ quản lý sang quan hệ bình đẳng.
Thứ hai, quyền lực nhà nƣớc phải đƣợc kiểm soát để tránh lạm quyền,
và quyền lực nhà nƣớc đƣợc tổ chức theo nguyên tắc dùng quyền lực để kiểm
tra, giám sát quyền lực. Trong NNPQ, quyền lực nhà nƣớc đƣợc tổ chức theo
hƣớng phân chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ pháp.
Các quyền lực này đƣợc giao cho các cơ quan nhà nƣớc tƣơng ứng, nhằm tạo
ra sự đối trọng và kìm chế lẫn nhau, tránh lạm quyền, bảo đảm cho nhà nƣớc
và nền dân chủ đƣợc duy trì và phát triển. Việc phân quyền khơng vì mục

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


đích thoả hiệp hay chia quyền giữa các lực lƣợng đối lập trong xã hội mà nó
bắt nguồn từ yêu cầu nội tại của sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nƣớc.
Sự phân quyền với nghĩa phân cơng chức năng và kiểm sốt quyền lực trở
thành phƣơng thức tồn tại của chính nó, phân quyền càng rõ ràng thì kiểm
sốt quyền lực càng chặt chẽ.
Thứ ba, sự bảo hộ của pháp luật phải đƣợc bảo đảm và mọi cơng dân có
thể địi hỏi các quyền của mình tại các toà án độc lập. Thành tố này yêu cầu
chống lại bất kỳ sự thay đổi đột ngột, không thể biết trƣớc của các trật tự pháp

lý. Sự thay đổi phải diễn ra nhẹ nhàng bởi các quy định chuyển tiếp hợp lý
nhất.
Thứ tư, NNPQ tôn trọng, bảo vệ quyền công dân và quyền con ngƣời.
Về mặt lý luận và thực tiễn, đây là giá trị của mọi giá trị tƣ tƣởng về NNPQ.
Bởi vì, khơng phải bất kỳ nhà nƣớc nào quản lý bằng pháp luật đều là NNPQ.
Mà vấn đề cốt lõi là pháp luật của NNPQ là pháp luật vì con người, phải
chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo (gần với pháp luật tự nhiên). Trong
NNPQ, con ngƣời với những quyền cơ bản, thiêng liêng nhất nhƣ quyền sống,
quyền bình đẳng, quyền mƣu cầu hạnh phúc, quyền sở hữu tài sản,...đƣợc nhà
nƣớc bảo vệ bằng pháp luật; mỗi cá nhân có thể phát triển bình đẳng và tự do
trƣớc pháp luật, có đủ cơ sở pháp lý để phát huy mọi khả năng của mình. Nhà
nƣớc cam kết, tơn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp, danh dự và nhân phẩm
của công dân. Con ngƣời đƣợc sống trong công lý và lẽ phải.
Trong NNPQ, quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc xác lập về mặt
pháp lý, tạo cơ sở cho việc xây dựng một xã hội bình đẳng và cơng bằng. Mọi
cơng dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật, đều có thể yêu cầu cơ quan nhà nƣớc
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Đây là mục đích hàng đầu của NNPQ. Vì
vậy, trong NNPQ quyền lực của nhà nƣớc bị hạn chế để tránh xâm hại quyền tự
do hợp pháp của cá nhân. Các cơ quan nhà nƣớc đƣợc hành động nếu đƣợc

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhân dân uỷ quyền và họ không đƣợc tự cho mình quyền đó; thẩm quyền đó
phải do luật hay hiến pháp quy định. Các quyền của công dân đƣợc mở rộng
bao nhiêu thì quyền nhà nƣớc bị giới hạn và bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu.
Thứ năm, NNPQ bảo đảm và phát huy dân chủ. Dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là điều kiện tiên quyết của NNPQ. NNPQ tạo ra những cơ chế, thiết

chế thực hiện các quyết định của pháp luật, duy trì trật tự và tự do công cộng
nhƣ là những điều kiện cần thiết cho các biểu hiện của dân chủ. Pháp luật
trong NNPQ vừa là công cụ để thực hiện dân chủ, vừa là phƣơng tiện làm chủ
của nhân dân đối với nhà nƣớc và xã hội, quy định tổ chức và thẩm quyền của
các cơ quan nhà nƣớc trong việc xây dựng và vận hành các thiết chế dân chủ.
Dân chủ cần sự điều chỉnh của pháp luật và dân chủ trong khuôn khổ của
pháp luật. Dân chủ thực chất là xây dựng quyền lực của dân, tạo môi trƣờng
cho hoạt động tự do và sáng tạo của mọi ngƣời dân. Các quan hệ giữa công
dân và nhà nƣớc, công dân với công dân và giữa các quốc gia đƣợc bảo đảm
bằng pháp luật. NNPQ là một nhà nƣớc dân chủ, phát triển cùng với sự phát
triển của một nền dân chủ. Nếu dân chủ bị thủ tiêu thì khơng có NNPQ.
1.2. Khái niệm và bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
a. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Các tác giả kinh điển Mác - Lênin chƣa sử dụng về khái niệm NNPQ,
nhƣng những tƣ tƣởng cốt lõi của NNPQ đã đƣợc đề cập sâu sắc theo quan
điểm khoa học và cách mạng, đó là xây dựng một nhà nƣớc kiểu mới hợp
hiến, hợp pháp; một HTPL dân chủ triệt để, pháp chế nghiêm minh theo
hƣớng giải phóng con ngƣời.

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Mác - Ăngghen đặt vấn đề
xây dựng một xã hội mới, trong đó, tự do của mỗi ngƣời là điều kiện phát
triển tự do của mọi ngƣời. Giải phóng con ngƣời là mục tiêu của một nhà

nƣớc kiểu mới – nhà nƣớc tổ chức đƣợc đời sống chung của nhân dân, trong
đó bảo đảm đƣợc sự phát triển tự do tối đa, toàn diện con ngƣời. Về mặt nhà
nƣớc, C.Mác chủ trƣơng xây dựng một chế độ dân chủ triệt để, dân chủ là do
nhân dân tự quy định, là bƣớc chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công
dân, là từ "nhân dân của nhà nƣớc" sang "nhà nƣớc của nhân dân". "Dân chủ
là xuất phát từ con ngƣời" và "pháp luật cũng vì con ngƣời". Do vậy, xã hội
đó phải đƣợc xây dựng trên cơ sở pháp luật.
Về sau, những tƣ tƣởng NNPQ ấy đƣợc V.I.Lênin tiếp thu và phát triển
trong quá trình xây dựng nhà nƣớc kiểu mới. Ngƣời đã xác lập hàng loạt quan
điểm về xây dựng nhà nƣớc kiểu mới, "nhà nƣớc khơng cịn ngun nghĩa", "nhà
nƣớc nửa nhà nƣớc", "nhà nƣớc quá độ" để rồi chuyển dần tới một chế độ tự
quản. Muốn vậy, trƣớc mắt phải thực hiện chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản là
quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quyền bãi miễn, quyền kiểm tra
giám sát hoạt động của bộ máy nhà nƣớc và cán bộ công chức nhà nƣớc.
Về mặt pháp luật, V.I. Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp
chế trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, rằng nhà nƣớc XHCN phải dùng
phƣơng pháp căn cứ vào luật lệ của mình là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa
xã hội thắng lợi triệt để. Có thể nói V.I.Lênin là ngƣời đã sáng tạo ra khái
niệm pháp chế XHCN và là ngƣời trực tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm pháp chế nghiêm minh và thống nhất.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời sáng lập Đảng và Nhà nƣớc ta. Ngƣời
đích thân lãnh đạo việc xây dựng bộ máy nhà nƣớc và HTPL Việt Nam. Tƣ

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



tƣởng của Ngƣời đã dựa trên một hệ quan điểm rõ ràng, nhất quán phù hợp
với đặc điểm và truyền thống Việt Nam, trên nền tảng cơ sở kinh tế và cơ cấu
xã hội Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Ở Ngƣời đã sớm hình thành một
hệ thống quan điểm về pháp quyền, nhân quyền, về Hiến pháp, về các quyền
tự do, dân chủ, về bản chất, vai trò của pháp luật trong cải cách xã hội v.v; có
thể khái quát trên những điều cơ bản sau đây:
Hồ Chí Minh cũng kế thừa tƣ tƣởng triết học phƣơng Tây và phƣơng
Đông về "đề cao nhân dân", khẳng định nguồn gốc sâu xa của quyền lực nhà
nƣớc là ở nhân dân. Trong quan hệ với nhân dân, nhà nƣớc chỉ là cơ quan đại
diện đƣợc nhân dân trao quyền, quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân, nhân
dân trao quyền lực cho nhà nƣớc qua bầu cử theo nguyên tắc "phổ thơng, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín". Hồ Chí Minh khẳng định: “Nƣớc ta là nƣớc
dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực
lƣợng đều ở nơi dân” [20, tr. 698]. Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định chế độ
trƣng cầu dân ý, rằng "những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đƣa ra
nhân dân phán quyết" [1, Điều 32].
Dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một nền dân chủ triệt để, cả
trong dân chủ đại diện cũng nhƣ dân chủ trực tiếp đều phải phát huy dân chủ
đến cao độ mới có thể tạo nên sức mạnh to lớn, bền vững cho nhà nƣớc và
cách mạng. Mặt khác, Ngƣời thƣờng nhấn mạnh, dân chủ ở đây là "dân chủ
thật sự", rằng “nƣớc ta là nƣớc dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ..."; “Trong nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi
quyền lực đều là của dân...”; “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là
chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân” [21, tr. 217, 368, 500].
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, cũng có lúc
Hồ Chí Minh nói đến chun chính, nhƣng chun chính trong tƣ tƣởng của
Ngƣời cũng chỉ là phƣơng tiện mà dân chủ mới là mục tiêu và động lực, có

20


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×