ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÙNG ĐỨC HUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHÉ THI HÀNH ÁN DÂN sự -
QUA THỰC TIỄN CHI cục THI HÀNH ÁN DÂN sự
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: 8380101.07
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Phạm Hồng Thái
Hà Nội, 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận vãn tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vê Ln văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phùng Đức Hưng
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẲT
STT
Tên viết tắt
Chú thích
1
THA
thi hành án
2
THADS
Thi hành án dân sư•
3
TP
thành phố
4
CHV
Chấp hành viên
5
VKSND
Viên
• kiểm sát nhân dân
6
OHCHR
Văn phòng Cao ủy Liên họp quốc về
quyền con ngưịi
7
UDHR
Tun ngơn tồn cầu về Nhân quyền năm
1948
8
ICCPR
Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính tri• năm 1966
9
ICESCR
Cơng ưóc quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hơi
• và văn hóa 1966
10
CRC
Cơng ước về quyền trẻ em 1989
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................... 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN sự...................................................... 6
1 .1.
Nhận thức chung về quyền con người............................................. 6
1 .1.1.
Khái niệm quyền con người................................................................ 6
1 .1.2.
Đặc trưng quyền con người................................................................ 8
1 .2.
Quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự, pháp luật quốc tế và quốc gia về bảo đảm
quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự...............10
1 .2.1.
Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.......................... 10
1 .2.1.1.
Khái niệm quyên con người trong cưỡng chê thi hành án dân sự.. 10
1 .2.1.2.
Khái niệm, đặc điêm của bảo đảm quyên con người trong việc áp
dụng cưỡng che thi hành án dân sự nói riêng................................. 14
1 .2.2.
Chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người trong hoạt động
cưỡng chế thi hành án dân sự...........................................................16
1 .2.3.
Pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi
hành án dân sự................................................................................. 25
1 .2.3.1.
Quy định về pháp luật về bảo đảm quyền con người trong cưỡng
chế thi hành án dân sự.................................................................... 25
1 .2.3.2.
Quy định về cơ chế, phương thức quyền con người trong áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự................................. 41
1 .2.4.
Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong cưỡng
chế thi hành án dân sự..................................................................... 45
1.2.4.1.
Anh hưởng cùa pháp luật đối với việc quyền con người trong
cưỡng chế thi hành án dân sự......................................................... 45
1.2.4.2.
Anh hưởng của cơ chế tỏ chức thực thi pháp luật đối với việc bảo
đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự.......... 47
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO ĐÂM QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG
CHÉ THI HÀNH ÁN DÂN sự TỪ THựC TIỄN CHI cục
THI HÀNH ÁN DÂN sự THANH PHổ HẠ LONG, TỈNH
QUÃNG NINH............ ’................................................................ 52
2.1.
Thực trạng bảo đăm quyên con người trong việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tại Chỉ cục Thỉ hành
dân sự thành phố Hạ Long........................................................... 52
2.1.1.
Thực trạng thực hiện quyền được hưởng mức sống tối thiểu trong
trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ thu nhập........ 53
2.1.2.
Thực trạng bảo đảm quyền nhà ở trong trường hợp cưỡng chế kê
biên, cưỡng chế giao tài sản là nhà ở duy nhất............................... 55
2.1.3.
Thực trạng bảo đảm quyền bảo đảm an tồn tính mạng, thân thể của
trong cưỡng chế huy động lực lượng.............................................. 59
2.1.4.
Thực trạng bảo đảm quyền khơng bị phân biệt đối xử, bình đăng
trước pháp luật giữa người được thi hành án và người phải thi hành
án trong cưỡng chế thi hành án....................................................... 63
2.1.5.
Thực trạng bảo đảm quyền xét xử công bằng, đúng pháp luật trong
trường hợp cưỡng chế tài sản có tranh chấp hoặc phát sinh một số
tình tiết làm thay đổi bản chất vụ án............................................... 67
2.1.6.
Thực trạng bảo đảm quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc của người
chưa thành niên trong cưỡng chế giao người chưa thành niên cho
người được nuôi dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án......... 74
2.1.7.
Thực trạng bảo đảm quyền quyền khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận
trong cưỡng chế thi hành án............................................................ 78
2.2.
Những kêt quả tích cực trong việc bảo đảm quyên con người
khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thỉ hành án dân sự....... 83
2.3.
Bất cập, những tồn tại trong việc bảo đảm quyền con ngưòi khi
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thỉ hành án dân sự............... 87
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TẲNG CƯỜNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP CƯỠNG CHÉ THI HÀNH ÁN DÂN sự........... 96
3.1.
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đăm
quyền con ngưòi trong áp dụng các biện pháp cưõĩig chế thi
hành án dân sự.............................................................................. 96
3.1.1.
Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người trong
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự..................... 96
3.1.2.
Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền con
người trong cưỡng chế thi hành án dân sự.....................................105
3.2.
Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đăm quyền con người
trong áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự........ 112
3.2.1.
Quan điềm và giải pháp chung tăng cường bảo đảm quyền con
người trong áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.... 112
3.2.2.
Giải pháp riêng cho địa phương trong việc tăng cường bảo đảm
quyền con người trong áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự............................................................................................. 116
KÉT LUẬN.................................................................................. 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................. 125
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chù nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tơn trọng
và bảo vệ khơng chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến
pháp, pháp luật mà còn được báo vệ trong thực tế.
Hiến pháp năm 2013 đã dành 21 Điều quy định về quyền con người.
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chỉnh trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật". Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả
tước đoạt. Nó hiện hữu trong nhiều lĩnh, trong đó có lĩnh vực thi hành án dân
sự - được coi như là khâu cuối cùng trong hoạt động tố tụng: từ điều tra, truy
tố, xét xử và cuối cùng là thi hành án (bao gồm thi hành án hình sự và thi
hành án dân sự).
Thực tiền cho thấy, trong công tác thi hành án dân sự tại địa phương
vẫn còn nhiều trường hợp ảnh hưởng đến việc hưởng các quyền con người
của đương sự, đặc biệt là trong hoạt động áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự, trong đó nhiều nhất là cưỡng chế tiền, động sản, bất động
sản, buộc thực hiện công việc nhất định... Nguyên nhân chủ yếu là khi thực
hiện một biện pháp cưỡng chế thi hành án thì ln xuất hiện hai quyền đối lập
nhau là quyền của người được thi hành án, và quyền của người phải thi hành
án. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có nhiều quy định pháp luật để thực
hiện, tuy nhiên vẫn có những hạn chế nhất định trong việc hài hịa 2 quyền
này, đặc biệt trong những tình huống cụ thể trong thực tiễn. Vì vậy, việc
nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự có vai trị rất quan trọng trong việc vừa tính thực thi
1
của bản án đã có hiệu pháp luật, vừa quyên lợi ích họp pháp của đuơng sự,
qua đó góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên chọn
đề tài “Bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự• - qua
> thực
• tiễn Chi cục
• Thi hành án dân sự• thành
pho Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, có một số bài viết, cơng trình nghiên cứu
tiêu biểu sau:
- Bài viết “Nâng cao chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, chấp
hành viên cơ quan thi hành án dân sự nhằm bảo đảm quyền con người khi
tiến hành kê biên tài sản ” của tác giả Nguyễn Ngọc Sơn — Chi cục Thi hành
án dân sự quận Hà Đông, Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ “Bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Hòa Bĩnh ’’ năm 2017 của tác giả Đỗ Đức
Thuận - Học viện khoa học xã hội thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội.
Những bài viết, cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp một phần thông
tin, kiến thức về bảo đảm quyền con người trong công tác cưỡng chế thi hành
án. Do đây là một lĩnh vực nghiên cứu mới, ngày càng được Nhà nước và xã
hội quan tâm, là chủ đề nóng hiện nay trong việc vừa các quyền con người,
vừa bàn án có hiệu lực pháp luật phải được thực thi trên thực tế. Do đó, học
viên chọn đề tài này để làm rõ hơn các quyền con người bị ảnh hưởng trong
quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế, đánh giá tình hình thực tiễn trong
cơng tác thi hành pháp luật, từ đó đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quà bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
2
3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người nói chung; pháp
luật về bảo đảm quyên con người trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự; thực tiễn bảo đảm quyền con người; các quan điểm và giải
pháp thực hiện.
4. Mục tiêu nghiên cứu.
❖ Mục tiêu tông quát:
Làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật về bảo đảm quyền con người
trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Đánh giá
được thực trạng bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự
và đưa ra được quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo
đảm quyền con người trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.
♦ĩ* Mục tiêu cụ thê:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Đưa ra được khái niệm, đặc điếm bảo đảm quyền con người trong áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; khái quát được nội dung pháp
luật quốc tế, pháp luật quốc nội về bảo đảm quyền con người trong áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm
quyền con người trong áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế.
- Đánh giá thực tiễn công tác bảo đảm quyền con người trong quá trình áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Quảng Ninh, qua đó chỉ rõ những ưu điểm,
hạn chế.
3
- Đựa ra được quan điểm, giải pháp giải nhằm nâng cao hon nữa việc bảo
đảm quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đe tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sừ), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đăng và Nhà nước ta về bảo đảm quyền con người.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, so sánh,
thống kê... qua đó đưa các số liệu cụ thể về số lượng án cưỡng chế, lĩnh vực
nào thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế, chiều hướng gia tăng về số
lượng lẫn tính phức tạp trong việc giải quyết các hồ sơ vụ việc phải cưỡng
chế,... để từ đó có một cái nhìn khái qt về hoạt động cưỡng chế thi hành án
dân sự nói chung cũng như tại địa phương nói riêng, phân tích những ưu
nhược điểm trong việc bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên
cứu.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
bảo đảm quyền con người trong áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho học tập, nghiên cứu, giảng dạy, là tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà
nước trong việc xây dựng, sửa đối chính sách pháp luật và thực tiễn trong thi
hành án dân sự
4
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm ba chương cụ thể như sau:
Chương I: Một sổ vấn đề Lý luận về bảo đảm quyền con người trong
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Chương II: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chê thi hành án dân sự từ thực tiên Chi cục Thi hành án
dân sự thành phô Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
_
_____
_
\
9
Chương III: Quan diêm và giải pháp hoàn thiện pháp luật vê bảo đảm
quyên con người và tăng cường báo đảm quyên con người trong áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
5
CHƯƠNG I:
NHŨNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHÉ
THI HÀNH ÁN DÂN sụ
1.1. Nhận thức chung về quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về quyền con người, quyền con
người (human rights) là một phạm trù đa diện và có nhiều định nghĩa khác
nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần 50
định nghĩa về quyền con người đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn
đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra hệ thống nhũng thuộc tính nhất định, nhưng
khơng định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con
người. Trong thực tế có hàng trăm cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm
quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc
vào sự nhìn nhận chủ quan của mồi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có
một định nghĩa của Văn phòng Cao úy Liên hợp quốc về quyền con người
(OHCHR) thường được trích dẫn bởi khơng ít nhà nghiên cứu. Theo định
nghĩa này, quyền con người là những hảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc
mà làm tôn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản cùa con
người. Định nghĩa này có thể bị phê bình là khơng đầy đủ vì chưa phản ánh
được thuộc tính bản chất của quyền con người là vốn có, là thể hiện những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan của con người. Tuy nhiên, định nghĩa
này nhấn mạnh tính chuẩn mực chung (phổ quát) cùa các quyền con người, và
dễ làm căn cứ cho sự đồng thuận, cũng như hữu ích cho việc vận động các
6
quốc gia tôn trọng tiêu chuấn chung trong hoạt động lập pháp (xây dựng pháp
luật) và thực hành.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng được trích dẫn
nhiều, theo đó, quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên
của cộng đồng nhân loại, khơng phân hiệt giói tính, chủng tộc, tơn giáo, địa
vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vĩ họ là con người. Định
nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên, nhấn mạnh
thuộc tính tự nhiên của quyền con người, mờ nhạt yếu tố ghi nhận và bảo đảm
bằng pháp luật. Neu tích họp cả hai loại ý kiến trên sẽ có được một khái niệm
tương đối đầy đủ về quyền con người.
Ớ Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một sổ cơ
quan nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng
không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được
hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận
và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, tổ
chức đầu tiên chuyên nghiên cứu về quyền con người ở Việt Nam (nay là
Viện Nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh) đưa ra khái niệm quyền con người như sau:
“Quyền con người là khả năng thực hiện các đặc quyền tự nhiên và
khách quan của con người, với tư cách là con người và với tư cách là thành
viên xã hội, được bảo đảm hằng hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị con người trong các quan hệ vật
chất, vãn hóa, tinh thần, các nhu cầu tự do và phát triền ”. Định nghĩa này
phản ánh khá đầy đủ các thuộc tính trong nội hàm khái niệm quyền con
người. Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được quốc gia và cộng đồng quốc tế
7
thừa nhận và tuân thủ. Những chuân mực này kêt tinh những giá trị nhân văn
của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có
những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới có thể
được bảo vệ nhân phấm, giá trị con người và mới có điều kiện phát triển đày
đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn
nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là
những giá trị cao cả cần được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ trong mọi xã hội
và trong mọi giai đoạn lịch sử. [1]
1.1.2. Đặc trưng quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có
những đặc trưng (cịn được gọi là "thuộc tính" hay "nguyên tắc") cơ bản sau:
♦♦♦ Tính phổ biến
Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con người là những
gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi
thành viên trong gia đình nhân loại, khơng có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý
do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tơn giáo, độ tuổi, thành
phần xuất thân...
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người khơng có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền,
mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người, ờ đây, mọi thành
viên của nhân loại đều có được cơng nhận có các quyền con người, song mức
độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng
như vào hồn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa... mà người đó đang
sống.
❖ Tính khơng thê tước bỏ
Tính khơng thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chồ các quyền con
người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể
8
nào, kê cả các cơ quan và quan chức nhà nước, ơ đây, khía cạnh "tùy tiện"
nói đến giới hạn của vấn đề. Nó cho thấy, khơng phải lúc nào nhân quyền
cũng "không thể bị tước bỏ". Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn
như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật,
thậm chí bị tước quyền sống.
♦♦♦ Tứi/i khơng thê phân chia
Tính khơng thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn thức rằng, các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau nên về ngun tắc khơng có
quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế
bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và
sự phát triển của con người.
Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia không hàm ý rằng, mọi quyền
con người đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong
mọi hoàn cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thề, cần và có thể ưu tiên thực hiện
một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những yêu càu thực tế cùa việc
bảo đảm các quyền đó chứ khơng phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các
quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị
bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế; cịn
trong bối cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là quyền về lương thực, thực
phẩm. Ớ góc độ rộng hơn, trong một số hồn cảnh, cần ưu tiên thực hiện
quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong khi vần tôn trọng quyền
của tất cả các nhóm khác. Điều này khơng có nghĩa là bởi các quyền được ưu
tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền đó trong
thực tế đang bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác.
❖ Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau cùa nhân quyền thể hiện chồ việc
bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ
9
phụ thuộc và tác động lân nhau. Sự vi phạm một quyên sẽ trực tiêp hoặc gián
tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến
bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực
đến việc bào đảm các quyền khác.
Thực tế cho thấy, để bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền
chính trị cơ bản) cần đồng thời, bão đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế,
quyền có mức sống thích đáng...vì nếu khơng, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít
có ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ. Tương tự, việc bảo
đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đều gắn liền với sự phát triển của các
quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo đảm các quyền dân sự, chính
trị chính là sự ổn định, lành mạnh và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý
xã hội - yếu tố nền tảng để thúc đẩy các điều kiện sống về kinh tế, xã hội, văn
hóa của mọi người dân.[2]
1.2. Quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự, pháp luật quốc tế và quốc gia về bảo đảm quyền con
người trong cưỡng chế thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đăm quyền con người trong việc
áp dụng các biện pháp cưởng chế thi hành án dân sự.
1.2.1.1. Khải niệm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân
sự.
Thi hành án dân sự được coi như là khâu cuối cùng trong hoạt động tố
tụng. Từ điều tra, truy tố, xét xử và cuối cùng là thi hành án (bao gồm thi
hành án hình sự và thi hành án dân sự). Thi hành án dân sự là việc cơ quan có
thấm quyền dùng các nguyên tắc, thủ tục và biện pháp theo quy định pháp
luật thực thi phần quyết định về dân sự trong các bản án, quyết định của Tòa
án, quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng
10
tài thương mại đã có hiệu lực pháp luật (sau đây gọi tăt là bản án). Hiện nay,
ngoài cơ quan thi hành án dân sự, các Vãn phòng Thừa phát lại cũng được
trao thẩm quyền thi hành án dân sự.
Đe bảo đảm tính thực thi pháp luật trong một bản án đã có hiệu lực
pháp luật, ngồi phương thức giáo dục, thuyết phục mọi chủ thể tự giác tuân
thủ, thì Nhà nước cũng thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự, qua đó thể hiện tính răn đe, tính nghiêm minh và tính thượng tơn pháp
luật. Khái quát chung, Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thế có thâm
quyền dùng quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng che theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm
thi hành trên thực tể quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết
định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. [3]
Đố bảo đảm thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự thi Nhà nước quy
định bằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, trong đó có quy định
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự và cách thức thực hiện. Trong thi
hành án dân sự có nhiều bản án, quyết định được thi hành, với nhiều loại
nghĩa vụ thi hành án, vì thế quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự phải có
cách thức tiến hành cụ thế tương thích với loại nghĩa vụ đó, như: Cưỡng chế
buộc thực hiện công việc nhất định, cưỡng chế buộc không được thực hiện
công việc nhất định, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền, cưỡng chế giao vật,
chuyển quyền sử dụng đất, giao nhà, trả nhà, trừ vào thu nhập hoặc khai thác
tài sản để thi hành án. Cưỡng chế thi hành án dân sự được đặt ra và tiến hành
với mục đích cụ thể là thi hành việc thi hành án dân sự nhưng mục đích chung
là thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi
hành án dân sự, bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định đó.
Trong q trình cưỡng chế thi hành án có 4 đối tượng tham gia:
11
- Người được thi hành án: là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành.
- Người phải thi hành án: cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: là cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
thi hành án của đương sự. [4]
(Ba nhóm trên sau đây gọi tắt là đương sự)
- Chấp hành viên và những cán bộ, công chức được phân công xử lý: là
người thay mặt, đại diện Nhà nước thực hiện quyền lực Nhà nước theo quy
định của pháp luật nhằm bản án được thi hành nghiêm minh, đúng pháp luật.
Cả bốn nhóm đối tượng này đều có quyền riêng được quy định cụ thể
trong Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014), các quyền
này đều là các quyền được cụ thể hóa từ các quyền cơng dân cơ bản của mồi
công dân Việt Nam . Trên thế giới, các quyền này khác nhau tùy thuộc vào
pháp luật mồi quốc gia. về bản chất, quyền công dân cũng là các quyền con
người, chỉ khác biệt ở chỗ về danh nghĩa các quyền này chỉ dành riêng cho
những người có quốc tịch của một quốc gia, thể hiện mối quan hệ giữa cá
nhân con người với quốc gia nơi mà người đó có quốc tịch . Nói cách khác,
trong khi quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu, được ghi nhận,
bảo vệ bởi pháp luật quốc tế, dành cho mọi thành viên cùa cộng đồng nhân
loại, thì quyền công dân là những quyền con người được ghi nhận và bảo đảm
bởi một quốc gia dành cho công dân - những người có quốc tịch nước mình,
gắn liền với những đặc thù về nhà nước và pháp luật của quốc gia đó. Như
vậy, có thế thấy, xét về hình thức, khái niệm quyền con người rộng hơn khái
niệm quyền công dân. Điều này dẫn tới thực tế là khi có sự khác biệt trong
quy định giữa quyền con người trong pháp luật quốc tế và quyền công dân
12
trong pháp luật quôc gia, các quyên con người thường được áp dụng như một
yêu cầu và tiêu chuẩn ưu tiên.
Trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia, khái niệm quyền
con người là giá trị chung cho mọi cá nhân. Tất cả các cá nhân đều là chủ thể
bình đẳng của các quyền con người, tuy nhiên, trong những hoàn cảnh nhất
định, chẳng hạn như khi trong quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế của cơ
quan thi hành án, người bị thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
có thế bị Nhà nước hạn chế một số quyền tài sản, hoặc bị ảnh hưởng nhất định
đến các quyền nhà ở, quyền điều kiện sinh sống tối thiểu, người được thi
hành án có thể bị ảnh hưởng quyền tài sản của bản thân khi thời gian thi hành
án quá lâu hoặc không thi hành án được, kể cả Chấp hành viên cũng có thể bị
thương tích trong q trình cưỡng chế huy động lực lượng.... Việc hạn chế
quyền của người phải thi hành án, nếu tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật
quốc tế về tính cần thiết, tính cân xứng và tính pháp lý thì khơng bị xem là vi
phạm nhân quyền. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong các vụ cưỡng chế thi
hành án, đương sự và chấp hành viên luôn phải đối mặt với những rủi ro lớn
bị ảnh hưởng đến quyền con người vốn có, hoặc nặng hơn nữa là vi phạm
nhân quyền. Chính vì vậy, luật nhân quyền quốc tế và pháp luật của các quốc
gia đều có cố gắng quy định về các quyền của đương sự và các chủ thể đại
diện Nhà nước thực hiện cưỡng chế thi hành án.
Như vậy, có thể định nghĩa Quyền con người trong cưỡng chế thi hành
án dân sự là các quyền lợi, nhu cầu, lợi ích của các chủ thế tham gia quá
trình cưỡng chế thi hành án dân sự, được Nhà nước, mà trực tiếp là các cơ
quan thi hành án dân sự tôn trọng, bảo vệ và thực hiện trong suốt quá trình
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
13
1.2.1.2. Khái niệm, đặc điêm của bảo đảm quyên con người trong việc
áp dụng cưỡng che thi hành án dân sự nói riêng.
Bão đảm có nghĩa là tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được, hoặc thực
hiện được, hoặc có những gì cần thiết [5], Các quyền con người sẽ chỉ ở dạng
tiềm năng mà không thành hiện thực nếu khơng có cơ chế bảo đảm thực thi.
Việc bảo đăm thực thi các quyền con người không chỉ phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của mỗi người mà cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác
như điều kiện kinh tế, văn hóa giáo dục và chính trị... của quốc gia. Trong vấn
đề này, đòi hòi Nhà nước phải đóng vai trị tạo lập và vận hành cơ chế bảo
đảm quyền con người, bới chỉ có Nhà nước mới có vị thế và các nguồn lực
thích đáng để xây dựng và vận hành cơ chế đó. Như vậy, hiểu một cách khái
quát, bảo đảm quyền con người là việc Nhà nước của một quốc gia tạo ra các
tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân
có thể thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Bào đảm có sự
gắn kết nhưng khơng hồn tồn đồng nghĩa với “bảo vệ”. Khái niệm “bảo vệ”
được định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt có là “...chống lại mọi sự xâm
phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn”. Như vậy, có thể thấy, khái
niệm bảo đảm có nội hàm rộng hơn khái niệm bảo vệ. Bảo đảm bao hàm bảo
vệ, cịn bảo vệ là một hình thức bảo đảm khi có hành vi xâm phạm xảy ra. Khi
quyền con người bị vi phạm hoặc có nguy cơ bị vi phạm thì Nhà nước phải có
biện pháp để bảo vệ cho nó được ngun vẹn, khơi phục lại hiện trạng ban
đầu của nó, nhưng đối với bảo đảm thì ngồi việc bảo vệ các quyền đó thì
Nhà nước phải tiến hành nhiều biện pháp khác để các quyền con người chắc
chắn thực hiện được... .
Bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự sự nói riêng, được thể hiện qua
nhiều phương diện như: bảo đảm kinh tế, bảo đâm chính trị, bảo đảm xã hội,
14
bảo đảm pháp lý. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận án này, do những giới
hạn về thời gian và để phù hợp với chuyên ngành nghiên cứu, tác giả chỉ tập
trung phân tích phương diện quan trọng nhất, đó là bảo đảm pháp lý với
quyền con người, cụ thể ở đây bảo đảm pháp lý trong áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự.
Theo nghĩa rộng, bảo đảm pháp lý chính là bảo đảm thực hiện quyền
con người bằng pháp luật, trên phương diện pháp luật. Pháp luật có thuộc tính
bắt buộc chung, được thực hiện bằng giáo dục thuyết phục, cưỡng chế khi cần
thiết và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Neu khơng được ghi
nhận trong pháp luật thì những quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở
thành ý chí và mục tiêu hành động chung, có giá trị bắt buộc chung đối với
mọi người. Chính vì vậy, bảo đảm pháp lý được đánh giá là phương thức hiệu
quả nhất, có quy mơ trên tồn xã hội. Đồng thời, bảo đảm pháp lý chính là sự
thể chế các bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực
có tính bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội phải tuân thủ và thực hiện.[6]
Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ hàng đầu trong việc bảo đảm quyền
con người, với vai trò và chức năng của mình tạo ra cơ chế bảo đảm, tạo dựng
hành lang pháp lý đế các cơ quan, tổ chức trực tiếp có liên quan thực hiện đày
đủ trách nhiệm trong hoạt động cưỡng chế thi hành án. Từ đó có thể hiểu: báo
đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án là việc Nhà nước tạo ra
các điều kiện cần thiết, đặc biệt là về mặt pháp luật và cơ chế thực thi pháp
luật, đê bảo vệ người phải thi hành án, người được thi hành án, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên qua và chính các cán bộ, công chức thực hiện cưỡng
che khỏi những hành vi vi phạm các quyền của họ, đồng thời đê họ có thê
thực hiện, hưởng thụ các quyền con người của mình một cách cao nhất có
thể.
15
Quyên của người trong quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chê thi
hành án dân sự có các đặc trung cơ bản sau:
(ỉ) Tính hạn chế về phạm vì các quyền được hưởng: thể hiện ở một số
trường hợp như việc người phải thi hành án không được hưởng một sổ quyền
tài sản khi bị cưỡng chế kê biên tài sản, hoặc bị giới hạn về mức hưởng thụ về
quyền nhà ở trong trường hợp cưỡng chế kê biên, cưỡng chế giao tài sản là
nhà đất là tài sản duy nhất...
(ii) Tính thụ động trong thực hiện của chủ thế quyền và tính phụ thuộc
vào nghĩa vụ/trách nhiệm bảo đảm của nhà nước: là hai vấn đề có mối liên
quan chặt chẽ với nhau, thể hiện ớ việc hầu hết các quyền của người phải thi
hành án, người được thi hành án phụ thuộc và việc bảo đảm của nhà nước, mà
cụ thể là cơ quan thi hành án.
1.2.2. Chuẩn mực quắc tế về bảo đảm quyền con người trong hoạt
động cưững chế thỉ hành án dân sự.
Nhằm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án nói riêng hay bất
kỳ quyền con người trong các hoạt động, lĩnh vực khác nhau, các tồ chức
nhân đạo trên thế giới và các quốc gia đã soạn thảo và ký kết các Điều ước
quốc tế quy định các quyền con người cơ bán, làm tiền để xây dựng quyền
con người cụ thể trong pháp luật của mồi quốc gia. Việc ghi nhận quyền các
con người trong các văn bán pháp luật được xem là cơ sở để bảo đảm thực thi
các quyền đó trên thực tế. Quyền con người được ghi nhận tạo thành hệ thống
các chuẩn mực tối thiểu về quy tắc ứng xử của các tổ chức, cá nhân chịu trách
nhiệm cưỡng chế thi hành án cũng như cho các đương sự có các quyền pháp
lý nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, giảm thiểu các nguy cơ xâm
hại bất họp pháp. Các Điều ước quốc tế hay còn gọi là pháp luật quốc tế đặt ra
các tiêu chuẩn tối thiểu trong việc quyền con người, đồng thời quy định rõ
trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm các tiêu chuẩn tối thiểu đó.
16
Hệ thông các quy định vê quyên con người trong hoạt động cưỡng chê
thi hành án dân sự mặc dù không được quy định trực tiếp trong các văn kiện
quốc tế cơ bản về nhân quyền, tuy nhiên nó được xây dựng, hình thành dựa
trên nền tảng, tiêu chuẩn, nguyên tắc cụ thế trong việc các quyền con người
nói chung trong hệ thống pháp luật nhân quyền thế giới, trong đó có thể kể
đến ba văn kiện quan trọng nhất là Tun ngơn tồn cầu về Nhân quyền năm
1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
(ICCPR); Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966
(ICESCR) và một số tài liệu, các nghị định thư bổ sung của hai công ước trên.
[7]
Căn cứ các quy định về trình tự thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia quá trình cưỡng chế thi hành án, đối chiếu với các quyền con
người cơ bản trong hệ thống pháp luật nhân quyền trên thế giới, tác giả xác
định có bày nhóm quyền cơ bản cần được tơn trọng, bảo đảm thực hiện trong
hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự, bao gồm:
(i) Quyền được hưởng mức sống tối thiểu trong cưỡng chế khấu trừ thu
nhập;
(ii) Quyền nhà ở trong cưỡng chế kê biên, giao tài sản là nhà ở duy
nhất;
9
9
F
(iii) Qun an tồn tính mạng, thân thê trong cưỡng chê huy động lực
(iv) Quyền không bị phân biệt đối xử, bình đắng trước pháp luật trong
quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự;
(v) Quyên được xét xử công băng, đúng pháp luật trong trường hợp
r
.
'
r
r
'*
cưỡng chê tài sản có phát sinh tranh châp hoặc có một sơ tình tiêt làm thay đơi
bản chất vụ việc;
17
(vi) Qun được ni dưỡng, chăm sóc của người chưa thành niên
trong trường hợp cưỡng chê giao người chưa thành niên cho người được nuôi
dưỡng theo bản án, quyêt định của Tịa án;
(vii) Qun khiêu nại tơ cáo, tự do ngôn luận trong cưỡng chê thi hành
án dân sư.
Đê đánh giá tính phù họp của các quy định pháp luật Việt Nam vê bảo
đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự so với hệ thống
pháp luật nhân quyền trên thế giới, cần thiết làm rõ các quy định pháp luật
quốc tế về các chuẩn mực, nguyên tắc đổi với các quyền con người trên, cụ
Thứ nhât, quyên được hưởng mức sông tôi thiêu
Quyên được hưởng và duy trì tiêu chn sơng thích đáng lân đâu tiên
được đề cập trong Khoản 1 Điều 25 UDHR, trong đó nêu rằng, mọi người đều
có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khoẻ và
phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế
và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiềm trong
trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương
tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối phó của
họ. Quy định kể trên sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 11
ICESCR. Khoản 1 Điều này nêu rằng: Các quốc gia thành viên Cơng ước
thừa nhận quyền của mọi người được có một mức sống thích đáng cho bản
thân và gia đình mình, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, nhà ở, và được
không ngừng cải thiện điều kiện sống. Các quốc gia thành viên phải thi hành
những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc thực hiện quyền này, và vì mục
đích đó, thừa nhận tầm quan trọng thiết yếu của hợp tác quốc tế dựa trên sự tự
do chấp thuận. Khoản 2 Điều này đề cập cụ thể trách nhiệm của các quốc gia
trong việc bảo đảm quyền có lương thực, thực phẩm, theo đó, trên cơ sở thừa
18
nhận quyên cơ bản của mọi người là không bị đói, các qc gia thành viên
Cơng ước sẽ thực hiện, tự mình và thơng qua hợp tác quốc tế, các biện pháp,
kể cả những chương trinh cụ thể nhằm quyền này.
Trong biện pháp cưỡng chế khấu trừ thu nhập, để quyền lợi cho người
được thi hành án, đồng thời cũng cho việc khấu trừ thu nhập không ảnh
hưởng đến mức sống tối thiểu cần thiết của người phải thi hành án thì Chấp
hành viên cần phải xem xét đánh giá cụ thề hồn cảnh của người đó, từ đó
quyết định mức trích trừ phù họp.
Thứ hai, quyền nhà ở
Quyền nhà ỡ là một khía cạnh trong quyền được hưởng và duy trì tiêu
chuấn sống thích đáng. Theo Bình luận chung số 4 (thông qua tại phiên họp
thứ 6 năm 1991) thì đề cập đến quyền nhà ở thích đáng. Theo đó, quyền có
nhà ở khơng được hiểu theo nghĩa hẹp là quyền có một nơi trú ngụ với một
mái che trên đầu. Thay vào đó, cần hiểu đó là quyền được sống ở một nơi an
tồn, bình n và thích đáng với phấm giá con người. Tính thích đáng của
một ngôi nhà thể hiện ở việc đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiều như có thê sống
được, an tồn, đả bảo các vấn đề về điện, nước, vệ sinh, dịch vụ,... cùng với
đó là địa điểm phù hợp, đầy đủ tính pháp lý.
Trường hợp cưỡng chế kê biên, cưỡng chế giao tài sản là nhà ở duy
nhất thì phải xem xét hồ trợ cho người bị cưỡng chế số tiền thuê nhà một năm
để có nơi ở mới, quyền nhà ở thích đáng của đương sự.
Thứ ha, quyền an tồn tính mạng, thân thê
Quyền an tồn tính mạng, thân thề là một khía cạnh của nhóm Quyền
sống được đề cập trong Điều 3 UDHR và được cụ thể tại Điều 6 1CCPR,. theo
đó: Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống, quyền này phải được pháp
luật bảo vệ, khơng ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện. Quyền sống
ở đây không chỉ được hiểu theo nghĩa là sự tồn vẹn về tính mạng, mà cịn
19