Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

VAI TRÒ của NHÀ nước TRONG đảm bảo hài hòa GIỮA các QUAN hệ lợi ÍCH KINH tế và LIÊN hệ TRONG QUAN hệ lợi ÍCH GIỮA cá NHÂN và xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.6 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG
MẠI
KHOA QUẢN TRỊ KINH
DOANH-------✪--------

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁCLÊNIN
Đề tài:
VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI HỊA GIỮA
CÁC
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ LIÊN HỆ TRONG QUAN HỆ LỢI
ÍCH
GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Nhóm:
9
Lớp học phần: 2201RLCP1211
Người hướng dẫn: Cơ Hoàng
Thị Vân

Hà Nội,
2022

1


MỤC LỤC
Phần mở
đầu………………………………………………………………………….
Phần nội
dung…………………………………………………..................................
.


1.1.
Lợi ích1:
kinh
tế vàsố
quan
hệ lợi
tế chung
Chương
Một
vấn
đềích
lýkinh
luận
1.1.1. Lợi ích kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế
1.1.1.2. Bản chất lợi ích kinh tế
1.1.1.3. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội
1.1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế
1.1.2.1. Khái niệm
1.1.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
1.1.2.4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường
1.2. Vai trò của nhà nước trong bảo đảm hài hịa các quan hệ lợi ích
Chương 2: Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa
quan hệ lợi ích kinh tế
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở Việt Nam
2.1. Các giải pháp áp dụng
2.2. Thành tựu đạt được
2.3. Hạn chế

Chương 3: Đánh giá giải pháp và đề ra phương hướng,
giải pháp duy trì
3.1. Đánh giá
3.2. Giải pháp duy trì
Phần
kết………………………………………………………………………………...
Tài liệu tham
khảo……………………………………………………………………..
2


LỜI MỞ ĐẦU
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa thì vấn đề nổi lên khơng chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là
tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân, viên
chức cao. Đặc biệt, vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn của
Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển nền
kinh tế nước ta hiện nay. Đảng ta đã xác định: “Bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hịa các
lợi ích và phương thức thực hiện lợi ích cơng bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ
thể, nhất là lợi ích kinh tế”.
Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt thì lợi ích kinh tế cá nhân
và lợi ích của tồn xã hội nói chung ln được quan tâm hàng đầu. Trong q trình thực
hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể ln có xu hướng bảo vệ lợi ích thiết thân, khó chấp
nhận từ bỏ lợi ích bản thân, dù điều đó có thể tạo mâu thuẫn, xung đột với các chủ thể lợi
ích khác. Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác động vào việc
nhận thức và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội. Do đó, nhóm 9 đã nghiên cứu về đề tài: “Vai trò của nhà nước trong

đảm bảo hài hịa giữa các quan hệ lợi ích kinh tế và liên hệ trong quan hệ lợi ích giữa các
cá nhân nhà nước và xã hội”. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng,
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất
những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hịa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của giảng viên giảng viên Hoàng Thị Vân
mà chúng em có thể hồn thành đề tài này. Trong q trình nghiên cứu khơng thể tránh
khỏi những thiếu sót, nhóm 9 mong sẽ nhận được lời góp ý để bài thảo luận được hoàn
thiện hơn.

3


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHUNG
1.1. Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi
ích kinh tế
1.1.1. Lợi ích
kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như
nhu cầu tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của mình. Lợi
ích có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần.
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải
được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định
của nền sản xuất xã hội đỏ.
Trong mỗi điều kiện lịch sử, trình độ phát triển và bối cảnh xã hội, sự thoả mãn
nhu cầu có khác nhau, nhưng trước hết và xuyên suốt quá trình lịch sử, lợi ích vật chất –
cụ thể là lợi ích kinh tế đóng vai trị quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh tế.

Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động
kinh tế của con người.
Ví dụ: Mỗi ngày chúng ta đều thức khuya dậy sớm đi làm, nghiên cứu,… để có
thu nhập cao hơn.
1.1.1.2. Bản chất lợi ích kinh tế
Về bản chất: Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa
các chủ thể trong nền sản xuất xã hội.
Ví dụ: Doanh nghiệp và người lao động gắn bó với nhau là xuất phát từ lợi ích
kinh tế và cũng vì lợi ích kinh tế của mỗi người. Vì trong quan hệ kinh tế giữa họ đã hàm
chứa trong đó những lợi ích kinh tế sẽ đạt được.
Về biểu hiện: gắn với các chủ thể khác nhau là những lợi ích kinh tế tương ứng.
Trong ví dụ trên, lợi ích kinh tế của doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi ích kinh tế của người
lao động là tiền cơng. Khi xem xét lợi ích kinh tế cần gắn với mối quan hệ cụ thể và vai
trò của mỗi chủ thể trong mối quan hệ đó.
1.1.1.3. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội
4


Thứ nhất, lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế
- xã hội. Trong kinh tế thị trường, để thoả mãn nhu cầu, cần phải có thu nhập. Thu nhập
càng cao, phương thức, mức độ thỏa mãn nhu cầu càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế
đều tìm cách nâng cao thu nhập, bảo đảm lợi ích kinh tế của mình. Bảo đảm và thực hiện
lợi ích kinh tế của các giai tầng trong xã hội, đặc biệt là người dân vừa là cơ sở bảo đảm
cho ổn định và phát triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển. “ Nước độc lập mà
dân không được hưởng ấm no, hạnh phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì” ( Hồ Chí
Minh).
Thứ hai, lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác. Cội nguồn
sâu xa của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử là sự đấu tranh giành quyền làm chủ
tư liệu sản xuất và thực hiện lợi ích kinh tế. “Động lực của tồn bộ lịch sử chính là cuộc
đấu tranh của các giai cấp và những xung đột về quyền lợi của họ”. (C. Mác, Ph.

Ăngghen). Mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức nào, xét đến cùng đều xoay
quanh vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế được thực hiện tạo điều
kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện các lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích
văn hố của các chủ thể “có thực mới vực được đạo”
Chú ý: việc theo đuổi lợi ích kinh tế khơng chính đáng, khơng hợp lý, không hợp
pháp là trở ngại cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam: với “dân là gốc”, tất cả đều vì dân; lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động
kinh tế, coi trọng lợi ích cá nhân chính đáng.
1.1.2. Quan hệ lợi ích
kinh tế
1.1.2.1. Khái niệm
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, các tổ chức kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế,
giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới.
1.1.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
*Sự thống nhất của quan hệ lợi ích kinh tế
Chúng thống nhất với nhau vì một chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu thành của
chủ thể khác.
*Sự mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế

5


Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình.
Lợi ích của những chủ thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng có thể mâu thuẫn với nhau.
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của các
lợi ích khác. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu cơ bản, thuộc về các cá nhân, quyết
định hoạt động của các cá nhân; cùng với thực hiện lợi ích cá nhân là cơ sở để thực hiện

các lợi ích khác.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
 Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
 Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.
 Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
 Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2.4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường


Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.

 Hai là, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động.
 Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động.
 Bốn là, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội.
1.1.2.5. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường.
Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ
chức xã hội.
1.2. Vai trò của nhà nước trong bảo đảm hài hịa các
quan hệ lợi ích
Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo mơi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế.
Các hoạt động kinh tế diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi trường cảng
thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở rộng. Tạo môi trường
thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, nhờ đó các nhà đầu tư
trong và ngoài nước yên tâm tiến hành đầu tư. Xây dựng được mơi trường pháp luật
thơng thống, bảo vệ được lợi ích thích đáng của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước,
6



đặc biệt là lợi ích của đất nước. Tạo mơi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế thị trường. Đó là mơi trường trong đó con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ
cương, pháp luật, giữ chữ tín.
Tạo mơi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Nhờ vậy kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được
cải thiện rất đáng kể, đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế.
Điều hịa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội.
Do mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị trường,
sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một bộ phận
dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Sự phân hóa xã hội thái q có thể dẫn đến
căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Vì vậy, nhà nước cần có các chính sách, trước hết
là chính sách phân phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hịa các lợi ích kinh tế, ngày càng
đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối.
Kiểm sốt, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
phát triển xã hội.
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối cơng bằng,
hợp lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hịa các lợi ích kinh tế. Nhà nước thực hiện hiệu
quả chính sách xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn
lực phát triển, hưởng thụ các dịch dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thốt đói nghèo vững
chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo, khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại.
Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi xã hội tạo điều kiện, giúp đỡ người dân phát
triển.
Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu thuẫn
phát sinh cần phải giải quyết kịp thời. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích
kinh tế là phải có sự tham gia của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích
của đất nước lên trên hết.
Ngăn ngừa là chính nhưng khi mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế bùng phát có thể
dẫn đến xung đột. Khi có xung đột giữa các chủ thể kinh tế, cần có sự tham gia hòa giải

của các tổ chức liên quan, đặc biệt là nhà nước.
7


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐẢM BẢO HÀI
HỊA
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ
HỘI
Ở VIỆT NAM
2.1. Các giải pháp áp
dụng
Giữ vững ổn định về chính trị là góp phần đảm bảo hài hịa các lợi ích kinh tế ở
Việt Nam. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế địi hỏi phải xây dựng
được mơi trường pháp luật thơng thống, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ thể
kinh tế trong và ngồi nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn phải tuân thủ các
chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật của nước
ta đã và đang thay đổi tích cực.
Tạo lập mơi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập mơi trường
văn hóa phù hợp với u cầu phát triển kinh tế thị trường. Đó là mơi trường trong đó con
người năng động, sáng tạo; tơn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín. Từ đó đề ra một số
giải pháp như sau:
Thứ nhất, điều hồ lợi ích giữa các nhân – doanh nghiệp – xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị
trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một
bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có các chính
sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh
tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức
thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; nhưng mặt khác phải ngăn chặn sự

chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng,
thậm chí xung đột xã hội.
Thứ hai, kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với
sự phát triển xã hội
Trước hết, nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân. Ở mỗi giai
đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống tối thiểu. Để làm được điều này, nhà
8


nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xố đói giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ
hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản,
vươn lên thốt đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo, khắc
phục tư tưởng bao cấp, ý lại. Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội, vận động toàn dân
tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn.
Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, đồng bào các
vùng gặp thiên tai... Tiếp theo, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người dân
làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp, về nguyên tắc, người
dân dược làm tất cả những gì luật pháp khơng cấm, luật pháp chỉ cấm những hoạt động
gây tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi ích hợp pháp khác.
Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập
cho các chủ thể kinh tế - xã hội là những giải pháp rất cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi
khơng hợp lý về thu nhập. Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt
động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại
khá phổ biến. Để chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hịa các lợi ích
kinh tế.
Trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Bộ máy nhà nước
phải tuyển dụng, sử dụng được những người có tài, có tâm; sàng lọc được những người
khơng đủ tiêu chuẩn. Cán bộ, công chức nhà nước phải được đãi ngộ xứng đáng và chịu
trách nhiệm đến cùng mọi quyết định trong phạm vi, chức trách của họ. Nhà nước phải
kiểm sốt được thu nhập của cơng dân, trước hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhà

nước. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình
đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật.
Thực hiện cơng khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách và quy định của nhà nước.
Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi,
trách nhiệm của mình. Đồng thời, các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước
được giám sát, tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng. Thực
hiện tốt hoạt động này không chỉ nhằm khắc phục các bất cập, thực hiện công bằng xã
hội, mà quan trọng hơn là ngăn chặn các hình thức thu nhập bất hợp pháp.
Thứ ba, ường trước các hạn chế và chuẩn bị giải pháp ứng phó kịp thời
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu thuẫn
phát sinh cần được giải quyết kịp thời.
Khi có xung đột giữa các chủ thể kinh tế, cần có sự tham gia hịa giải của các tổ
chức xã hội có liên quan. Nhà nước phải tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong
phân phối thu nhập và chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
2.2. Thành tựu đạt
được
9


Từ khi đổi mới đến nay, vấn đề giải quyết quan hệ lợi ích giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm giải quyết, nhất là trong lĩnh vực sở
hữu và phân phối, tạo động lực cho sự phát triển của cá nhân và xã hội. Q trình đó đã
đạt được những kết quả nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bước đầu đã được quan tâm giải
quyết theo hướng thúc đẩy sự phát triển
Lợi ích cá nhân chính đáng được tạo điều kiện phát triển trên nhiều phương diện
qua đó tạo cơ sở bước đầu giải quyết lợi ích xã hội phù hợp và ngược lại lợi ích xã hội
bước đầu được thực hiện tốt đã tạo tiền đề, điều kiện để lợi ích cá nhân chính đáng được
thực hiện. Những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội cùng việc thực hiện tốt

các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong những năm qua đã tạo lập những
giá trị mới của xã hội, tạo lập sự công bằng về cơ hội trong việc hưởng thụ, tiếp cận các
giá trị của phát triển. Đời sống của mỗi cá nhân không ngừng được nâng lên, quyền và lợi
ích chính đáng được pháp luật bảo vệ, nhất là trong sở hữu và phân phối. Lợi ích của các
giai tầng cụ thể, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, đồng bào
vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo được quan tâm đúng mức, tỷ lệ hộ nghèo giảm,...
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua luôn ở trên 6,5%, trong đó, năm
2018, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt trên 240 tỷ USD, tăng 7,08% so với năm
2017, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017, tỷ
lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính 6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so
với năm 2017, trên 90% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Gần 800.000 người khuyết tật
khơng có khả năng lao động được nhận trợ cấp hàng tháng.
Từng bước khắc phục được tư duy tuyệt đối hóa lợi ích xã hội trong việc giải
quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đó là việc chủ thể sở hữu tư nhân
được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, kinh tế tư nhân từ chỗ không được thừa nhận,
đến chỗ thừa nhận và hiện nay coi đó “là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Đóng
góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (so với
khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI là 18%
GDP) và “kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 39% tổng đầu tư tồn xã hội và tiếp tục
tăng lên, năm 2012 là 385 nghìn tỷ đồng và năm 2015 đạt 490 nghìn tỷ đồng”.

10


Thứ hai, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện ngày một tốt
hơn những chủ trương, chính sách đúng đắn về tạo cơ hội phát triển của cả lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội
Một là, sự thay đổi chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về sở
hữu. Trước hết, về chủ thể sở hữu: chuyển từ việc chỉ thừa nhận vai trị độc tơn của chủ
thể sở hữu là Nhà nước đối với các tư liệu sản xuất cơ bản sang công nhận nhiều chủ thể

sở hữu (nhà nước, tư nhân, hỗn hợp). Về đối tượng sở hữu, ngoài những đối tượng sở hữu
truyền thống như đất đai, tài nguyên, máy móc,... xuất hiện các đối tượng sở hữu mới như
các sản phẩm trí tuệ, thơng tin, thị trường, thương hiệu, tên miền internet, tài nguyên số,
không gian vũ trụ, thậm chí là sở hữu cơ hội phát triển... đều được cơng nhận và đóng vai
trị to lớn hơn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Về hình thức sở hữu: nếu như trước đổi
mới, chúng ta chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể, thì
từ đổi mới đến nay, xây dựng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, các hình
thức sở hữu ở Việt Nam đã được ghi nhận bao gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước,
sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tư bản nhà nước, sở hữu có
yếu tố nước ngồi và sở hữu hỗn hợp; tương ứng với nó là các thành phần kinh tế.
Hai là, sự thay đổi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phân
phối đã có tác động rất lớn đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội ở nước ta hiện nay. Về chủ thể phân phối, đã xác định rõ vai trò của ba chủ thể phân
phối là Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, trong đó, thị trường là một kênh phân phối
nguồn lực hiệu quả, phân phối thu nhập quan trọng và góp phần đắc lực vào phân phối cơ
hội phát triển cho mọi chủ thể kinh tế tự do làm giàu trong lĩnh vực mà pháp luật khơng
cấm nhằm tối đa hóa lợi ích riêng của mình, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. Về khách thể phân phối, khơng chỉ là phân phối về thu nhập, mà đó còn là phân phối
nguồn lực, cơ hội phát triển, phân phối phát triển. Về hình thức phân phối: phân phối theo
lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh, phân phối thông qua phúc lợi xã hội, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội
2.3. Hạn
chế
Bên cạnh những thành tựu mà nhà nước đem lại cho quan hệ lợi ích giữa cá nhân
và xã hội thì vẫn cịn tồn tại một số hạn chế kìm hãm sự phát triển của quan hệ lợi ích
kinh tế này.

11



Một là tình trạng nhân danh lợi ích xã hội để vi phạm lợi ích cá nhân chính
đáng của nhân dân lao động.
Hiện tượng tham ơ, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm tiêu cực hay tư bản thân
hữu là các biểu hiện chân thực nhất cho hạn chế đơn hàng. Thực chất của những biểu
hiện này chính là việc đề cao lợi ích cá nhân khơng chính đáng, vi phạm đến lợi ích xã
hội, lợi ích của nhân dân lao động và của cá nhân khác. Theo Báo cáo của Ban Nội chính
Trung ương, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến hết năm 2018 đã thi hành kỷ luật hơn 500
tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, có tới 1.300 đảng viên bị kỷ luật cho đến
những hiện tượng tham nhũng “vặt” cũng đang gây nhiều bức xúc cho xã hội.
Hai là, tình trạng đề cao lợi ích cá nhân khơng chính đáng, vi phạm lợi ích xã
hội và lợi ích cá nhân khác gây ra những tổn hại cho sự phát triển xã hội vẫn có xu
hướng phức tạp.
Hiện tượng bn lậu, trốn thuế của nhiều cá nhân, doanh nghiệp;các hiện tượng
hàng giả, hàng kém chất lượng; thực phẩm “bẩn”, cho đến những hành vi xây dựng nhà
ở, khu đô thị, phá vỡ quy hoạch chung của thành phố, xây nhà không phép, lấn chiếm
lòng đường,... nhất là ở thành phố lớn; những hiện tượng xe quá khổ, quá tải, xâm hại, lấn
chiếm các cơng trình cơng cộng, cơng trình Nhà nước đang làm cho lợi ích xã hội mà
Nhà nước là đại diện bị những tổn hại rất lớn. Cho đến những hiện tượng trộm, cướp ở
nhiều nơi, đặc biệt là ở các thành phố lớn trở thành nỗi bất an của người dân; tình trạng
lừa đảo, các mơ hình kinh doanh đa cấp biến tướng, “chơi hụi”, cho vay nặng lãi - tín
dụng “đen”, địi nợ th... đang gây những hệ lụy không nhỏ đối với cuộc sống của nhiều
cá nhân, gia đình, gây phức tạp tình hình kinh tế - xã hội.
Ba là, nhiều lợi ích xã hội chưa được thực hiện một cách phổ quát, lợi ích cá
nhân chính đáng chưa được chú ý một cách đúng mức.
Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư cịn lớn, đời sống một bộ
phận nhân dân cịn nhiều khó khăn; thu nhập, đời sống của người lao động còn thấp;
lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở vùng
sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, cả nước có khoảng 1% số
người vẫn trong tình trạng thiếu đói. Một số nội dung của an sinh xã hội và pháp luật xã
hội chưa được thực hiện tốt, vẫn diễn ra “nghịch lý an sinh xã hội”, thể hiện đặc biệt rõ

qua việc so sánh tỷ trọng trợ cấp an sinh xã hội mà các hộ gia đình giàu và nghèo nhận
được.
12


Tuy vẫn cịn tồn tại khơng ít hạn chế nhưng Đảng và nhà nước ta đã ln cố gắng
hồn thiện từng bước, đưa ra các giải pháp mới để tối ưu nhất quan hệ hài hịa giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội.

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ RA PHƯƠNG
HƯỚNG, GIẢI
PHÁP DUY TRÌ
3.1. Đánh
giá
Thứ nhất, về tác động tích cực thì mức độ hiệu quả mà các giải pháp của Đảng và
Nhà nước ta đề ra, những giải pháp này khi áp dụng đã có được những kết quả và thành
cơng nhất định.
Ta có thể khẳng định rằng những giải pháp này hồn tồn có khả năng áp dụng
được cho những giai đoạn sau trong quá trình phát triển đất nước. Trong phát triển kinh
tế - xã hội cùng việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội (ASXH) và phúc lợi xã
hội (PLXH) trong những năm qua đã tạo lập những giá trị mới của xã hội, tạo lập sự công
bằng về cơ hội trong việc hưởng thụ, tiếp cận các giá trị của phát triển. Biểu hiện cho
những tích cực trên chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua ln ở trên
6,5%, trong đó, năm 2018, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt trên 240 tỷ USD, tăng
7,08% so với năm 2017, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.587 USD, tăng 198 USD so
với năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính 6,8%, giảm 1,1
điểm phần trăm so với năm 2017, trên 90% dân số tham gia bảo hiểm y tế ... Gần 800.000
người khuyết tật khơng có khả năng lao động được nhận trợ cấp hằng tháng. Sự thay đổi
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phân phối cũng đã có tác động
một cách tích cực đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở

nước ta hiện nay.
Thứ hai, dù mang lại nhiều thành tựu to lớn tuy nhiên sự thiếu trách nhiệm, thất
trách, không theo dõi sát xao của một số cán bộ, công chức nhà nước đã khiến cho tình
trạng lợi ích xã hội vẫn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp.
Tình trạng nhân danh lợi ích xã hội để vi phạm lợi ích cá nhân chính đáng của
nhân dân lao động vẫn tồn tại và tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp. Biểu hiện của tình trạng
13


này là do sự thiếu trách nhiệm của một số cán bộ lãnh đạo chưa quan sát sát xao đến công
sống an sinh xã hội của nhân dân. Với nguyên nhân trên nước ta đã lộ rõ nhiều tiêu cực
trong đội ngũ công nhân viên chức, cụ thể là: = 1.300 đảng viên có hành vi tham nhũng,;
nhiều vụ án về tham ơ, tham nhũng, lãng phí thời gian qua đã được đưa ra xử lý như: các
cá nhân tham nhũng trong vụ việc MobiFone mua lại 95% cổ phần của AVG, vụ án liên
quan đến Phan Văn Anh Vũ,... Cho đến những hiện tượng tham nhũng “vặt” cũng đang
gây nhiều bức xúc cho xã hội. Tình trạng này đang làm cho Nhà nước bị tổn hại rất lớn.
3.2. Giải pháp
duy trì
Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan
hệ lợi ích, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, chủ thể cá nhân cần nhận
thức được rằng, lợi ích xã hội chỉ có thể đạt được khi mỗi cá nhân cố gắng thực hiện tốt
các lợi ích chính đáng của mình thơng qua việc tích cực học tập, lao động, rèn luyện, hài
hịa giữa cống hiến và hưởng thụ. Mặt khác, chủ thể của lợi ích xã hội chủ yếu là Đảng,
Nhà nước cần nhận thức rằng muốn thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi cá nhân, của từng đối tượng, nhất là những
người có cơng với cách mạng, những đối tượng yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt ASXH
và PLXH.
Hai là, tiếp tục hồn thiện chính sách về sở hữu, phân phối và tổ chức thực
hiện tốt các chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi

ích xã hội.
Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị
trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật. Cụ thể hóa các quy định pháp
luật, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật
sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền
tài sản của mọi chủ thể, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân trở thành một
động lực quan trọng của nền kinh tế. Hồn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất là với
doanh nghiệp nhà nước.

14


Ba là, tiếp tục đổi mới, hồn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện tốt
chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách ASXH, PLXH trong tồn xã hội,
thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo, các chế độ, chính sách, nâng cao đời sống
đối với các đối tượng có cơng với cách mạng, đảm bảo các giá trị căn bản của sự phát
triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ các giá trị văn hóa - xã hội khác.
Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương đã được ban hành,
đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đặc biệt đối với
người cơng nhân; có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với những nhân tài của từng lĩnh
vực, địa phương.
Bốn là, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn
chặn những hành vi tiêu cực như tham ơ, tham nhũng, lợi ích nhóm.
Nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải
trình, thực hiện tốt các biện pháp cơng khai tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán
bộ, công chức, viên chức... Cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý nghiêm
minh những trường hợp vi phạm tội tham ơ, tham nhũng, lãng phí, bn lậu, trốn thuế,

hàng giả, hàng kém chất lượng...
Năm là, khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng
thời bảo đảm lợi ích xã hội.
Cần tích cực khuyến khích mỗi cá nhân tích cực vươn lên trong học tập, lao động,
sản xuất - kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều cơ chế, chính sách cụ thể, nhất là
trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển. Thông qua các
biện pháp giáo dục - đào tạo, tuyên truyền, các hoạt động thực tiễn phong phú để họ thấy
rằng, để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của bản thân, trước hết cần có sự cố gắng, rèn
luyện, cần cù, vượt khó vươn lên, tích cực lao động, đóng góp cho xã hội; đấu tranh với
những biểu hiện tiêu cực, vi phạm các lợi ích chính đáng của bản thân từ các chủ thể
khác; loại bỏ tư tưởng tự mãn, ỷ lại; có cái nhìn tích cực về các vấn đề của xã hội, tìm ra
những cơ hội cho sự phát triển của mỗi cá nhân.

15


KẾT LUẬN
Như vậy, bài thảo luận trên đã làm rõ quan điểm của triết học Mác-Lênin về lợi
ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và mối quan hệ của chúng. Từ đó hiểu rõ động lực của
sự phát triển xã hội suy cho cùng là kết quả hoạt động có ý thức của con người nhằm theo
đuổi những lợi ích nhất định. Chính vì vậy, quan tâm thực hiện nhu cầu, lợi ích của cá
nhân và xã hội, giải quyết các quan hệ lợi ích trong xã hội đó chính là tạo ra động lực
phát triển xã hội nhằm đạt được những mục tiêu cao hơn. Động lực lợi ích ln được
Đảng, Nhà nước ta quan tâm giải quyết (đặc biệt từ khi đổi mới đến nay). Qua đó nghiên
cứu việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay, chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này là Đảng, Nhà nước
thơng qua việc phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những ưu điểm và bất cập của mối quan hệ này và nguyên nhân những bất cập, tồn tại.
Để giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần xác định các quan điểm rõ ràng,

có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết hợp các lợi ích cá nhân - tập thể xã hội và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”, phù hợp với lợi ích của nhân
loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ các giải pháp thơng qua các chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm duy trì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh”
Tóm lại, Nhà nước có vai trị to lớn trong việc bảo đảm, hài hòa các quan hệ nhu
cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu
phát triển của đất nước.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thạc sĩ Hoàng Văn Khải (Học viện Chính trị khu vực IV), Tiến sĩ Trần Văn Thắng
(Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Tạp chí Lý luận số 12-2019 : Giải quyết hài
hịa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện. />2. Bộ giáo dục và đào tạo, 2019. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc
đại học - khơng chun về lý luận chính trị)

17



×